GOSPELNET
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


CHÚA NHẬT 28 C THƯỜNG NIÊN

TIN MỪNG: Lc 17, 11 – 19

PHÉP LẠ CHO MƯỜI NGƯỜI PHONG HỦI

Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Ðức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !"

Thấy vậy, Ðức Giê-su bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế". Ðang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. Ðức Giê-su mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?" Rồi Người nói với anh ta: "Ðứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh".

SUY NIỆM 1:

LÒNG TIN CHỮA LÀNH

Tiếng cám ơn vẫn là lời quan trọng của con người đối xử với nhau. Còn gì ấm êm, an ủi, phấn khích cho bằng một tiếng cám ơn khi người khác tế nhị nói với ta. Cuộc đời lắm phiền toái hơn gặp những sự hưng phấn, thoải mái, vỗ về, an ủi. Ta làm ơn cho kẻ khác, không mong được đáp trả báo đền. Nhưng một tiếng cám ơn vẫn là sự khích lệ lớn làm ta quên đi những sự nhọc nhằn đã giăng đầy chồng chất trên đời ta. Lời Chúa hôm nay nói lên tấm lòng biết ơn của một người Sa-ma-ri ngoại đạo đã trở lại gặp Chúa để cảm tạ tri ân Người vì anh ta đã được chữa khỏi bệnh phong cùi .

I.   Ý NGHĨA LỜI CHÚA:

Tin Mừng Lu-ca trích đoạn 17, 11 – 19 diễn tả cuộc hành trình của Chúa Giê-su đi Giê-ru-sa-lem. Phép lạ Chúa làm hôm nay xảy ra trong cuộc đời rao giảng của Người tại biên giới Sa-ma-ri và Ga-lil-ê. Chúa gặp mười người mắc bệnh phong cùi. Theo tục lệ của người Do-thái lúc đó, người mắc bệnh phong cùi là người bị xã hội loại trừ, người bị ô uế phải sống cách xa mọi người. Lề luật cấm họ không được lại gần bất cứ một ai. Nên, khi thấy Chúa Giê-su, họ chỉ dám đứng xa xa mà van xin Người chạnh lòng thương xót.Chúa Giê-su đã đáp ứng lời van xin của họ và dạy họ hãy đi trình diện các tư tế. Lề luật Do-thái dành cho các tư tế quyền xem xét và tuyên bố bệnh nhân đã khỏi bệnh thật chưa. Ðược các tư tế xác nhận khỏi bệnh, họ mới có quyền trở lại cuộc sống bình thường và hòa nhập với xã hội đương thời .

Vâng, cả mười người đến trình diện với các tư tế đã được xác nhận hoàn toàn khỏi bệnh.Chín người Do-thái được chữa lành đã không nhận ra nguyên nhân nào và ai đã chữa họ khỏi bệnh cùi. Họ đã quá nê vào lề luật và tưởng rằng họ đã làm theo lề luật dạy nên họ được lành bệnh. Họ chỉ dừng lại ở việc họ đã được khỏi bệnh. Còn người ngoại giáo Sa-ma-ri: một người đáng ghét và bị liệt vào hạng tội lỗi trước mặt người Do-thái lại là người biết ơn, đã quay trở lại để cám ơn Chúa Giê-su khi anh ta được tuyên bố khỏi bệnh. Anh cảm nghiệm được tình thương của người đã chữa lành anh ta là Chúa Giê-su. Anh đã quỳ dưới chân Chúa Giê-su, cám ơn và ngợi khen lòng thương xót của Người, Ðấng đã cứu chữa anh ta không chỉ cơn bệnh hiểm nguy thân xác mà còn chữa anh ta cả tâm hồn. Anh đã không dừng lại ở sự sống thân xác, nhưng đã đi tới lòng tin. Tin vào Chúa Giê-su, Ðấng nhân lành, thương xót, hiền hậu.

II.  CÁI TRỚ TRÊU VẪN LÀ CÁI NGHỊCH LÝ CỦA TIN MỪNG:

NGƯỜI Ở TRONG LẠI PHẢI Ở NGOÀI VÀ NGƯỜI Ở NGOÀI LẠI ÐƯỠC Ở TRONG:

Sự đời vẫn thường xảy ra những điều ta không hay trước, những sự bất ngờ. Tin Mừng đã nhiều lần nhắc lại nghịch lý này. Chúa Giê-su đã mặc khải Ðạo Tình Thương và xây dựng Giáo Hội của Người trên cốt lõi Tin Mừng Tình Thương. Chúa Giê-su dạy mọi người hãy sống tình thương và thực thi tình thương bác ái đối với người khác.

Chúa Giê-su đã quả quyết viên sĩ quan bách quản, người ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ hơn bất cứ người Ít-ra-en nào. "Tôi nói cho các ông hay:ngay cả trong dân Ít-ra-en, Tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế" ( Lc 7, 9 ). Hay nói về người đàn bà "ngoại" Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a, Chúa khen bà: "Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi" ( Mc 7, 29 ). Hoặc bên bờ giếng Gia-cóp, Chúa Giê-su đã biết rõ người đàn bà đang nói với mình là ai, Người thấy hết cả cõi lòng của người đàn bà, đến nỗi người đàn bà đã chạy vào thành và nói với người ta: "Ðến mà xem:có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Ðức Ki-tô sao ?" ( Ga 4, 29 ). Còn đối với người Sa-ma-ri nhân hậu, Chúa đã quả quyết: chính ông ta là người đã chạnh lòng thương và bác ái với người đồng loại chứ không phải là vị tư tế, thầy Lê-vi hay bất cứ người Do-thái nào khác. ( Lc 10, 29 – 37 ).

Ðời lúc nào cũng lẫn lộn vàng thau. Cái thật và cái giả. Ánh sáng và bóng tối. Cái trớ trêu mà Chúa Giê-su đã nêu lên ở đoạn Tin Mừng hôm nay và nhiều đoạn Tin Mừng khác để dạy các môn đệ và mọi người ở muôn thời vẫn là người có đạo chưa chắc đã thực thi bác ái tốt, chưa chắc đã có lòng tin mạnh nếu họ chỉ mang nhãn hiệu là Ki-tô hữu, là Công giáo. Người ngoại đạo xem ra bị coi là tội lỗi là xấu xa trước mắt người Do-thái, đối với Chúa Giê-su họ lại là những người thực thi đạo. Họ chưa được nghe rao giảng, nhưng lòng họ đã rất gần Chúa, Ðấng họ tin chắc chắn sẽ giúp họ. Nên, Chúa nói: "Kẻ sau hết sẽ trở nên trước và ngược lại" quả thực rất chí lý, đáng cho muôn đời suy nghĩ !

III.  ÁP DỤNG THỰC TẾ:

Trong đời sống, chúng ta đã nhận được biết bao ơn huệ nhưng không của Chúa. Chúng ta có biết đáp trả lại tình thương vô biên dạt dào của Chúa hay không ? Thánh Lễ, Kinh Nguyện và các Bí Tích ( họp thành Phụng Vụ ) có giúp ta đặt mối tương quan mật thiết giữa ta và Chúa Giê-su, Ðấng nuôi sống ta ?

Có bao giờ chúng ta nghi ngờ lòng nhân từ của Chúa không ? Chính Chúa Giê-su cứu độ chúng ta.Lề luật chỉ giúp ta. Sự thật mới giải phóng ta. Chính Chúa Giê-su dạy ta thực thi những điều thiện hảo: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng" ( Mt 12, 29 ).

Lm. Giu-se NGUYỄN HƯNG LỠI, DCCT, Giáo Xứ Phú Sơn ( Fyan )

SUY NIỆM 2:

LÒNG TRI ÂN ÐỐI VỚI THIÊN CHÚA

Làm người, ai trong chúng ta chẳng thích sống với những người có nhân có nghĩa. Thế nhưng, không phải luôn luôn chúng ta được như ý muốn. Người xưa có những câu chuyện về thói vô ơn bạc nghĩa của con người. Chẳng hạn như chuyện một người vợ cả một đời hy sinh, lam lũ, thức khuya dậy sớm lo cho chồng đèn sách, gánh hết trách nhiệm của chồng là nuôi dạy con cái, những mong sau này: "Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh..."

Ấy thế mà, đỗ đạt rồi, anh chồng nhanh chóng quên ân tình phu phụ, vội se duyên mới với con cháu quan quyền, cố xua nhanh quá khứ nghèo nàn, gốc gác bần dân của mình.

Người thời nay cũng có những câu chuyện tương tự. Nghe nói ở một giáo xứ nọ, có một gia đình đồng lòng chửi cha xứ, chửi Hội Ðồng Giáo Xứ, bỏ Ðạo, bỏ Chúa vì bị yêu cầu dời nhà ra khỏi khuôn viên nhà thờ. Trước đây, hai vợ chồng này nghèo khổ, không có mảnh đất cắm dùi. Thương hoàn cảnh nghèo nàn, khó khăn, cha xứ và Hội Ðồng Giáo Xứ cho mượn một miếng đất cất tạm căn chòi, có chỗ chui vào chui ra, với giao kèo miệng: lúc nào giáo xứ cần hoặc gia đình làm ăn được, có điều kiện mua đất thì trả. Hoàn cảnh thay đổi, gia đình đã khá giả lên, nhưng thay vì mua đất, họ lấy tiền đó xây nhà. Hội Ðồng Giáo Xứ đến trao đổi, bàn bạc, nhất định không nghe. Cãi chầy cãi cối. Cha xứ đến, cũng không ăn thua. Thế là rùm beng.

Lời Chúa trong Chúa Nhật 28 Thường Niên năm C hôm nay mời gọi chúng ta quay lại với tình nghĩa, không chỉ đối với anh chị em, nhưng nhất là đối với Thiên Chúa.

Bài đọc I trích trong Sách Các Vua quyển thứ hai ( 5, 14 – 17 ) tường thuật câu chuyện về vị tướng chỉ huy quân đội Na-a-man của nước A-ram. Tướng Na-a-man chỉ là một người dân ngoại, trong khi đó, dân Ít-ra-en lại là Dân riêng, Dân tuyển chọn của Ðức Chúa. Ông bị mắc bệnh phung cùi, là chứng bệnh bất trị vào thời đó. Chết thì không chết, mà sống cũng không ra sống. Chẳng thà chết còn hơn, vì người thì cứ lở loét, hôi thối; nay rụng mất ngón tay, mai khuyết mất cái mũi. Dù vinh quang phú quý, bổng lộc vô vàn, nhưng cuộc sống đối với ông bây giờ là vô nghĩa.

Thế rồi, cứ như một chuyện phim mà đạo diễn là Thiên Chúa, ông được tiếp xúc với ngôn sứ Ê-li-sa và được chữa lành sau khi đã vâng lời người của Thiên Chúa đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan. Như một người bình thường, ông đã làm việc phải làm là quay trở lại gặp ngôn sứ Ê-li-sa để tạ ơn. Làm sao không quay trở lại được khi lòng ông đang rạo rực hân hoan vì ơn huệ mình vừa nhận được; và người cần được thông tin trước nhất là vị sứ giả của Ðức Chúa, người đã chỉ cho ông con đường sống.

Những chi tiết kỳ diệu trong câu chuyện này là: thứ nhất, ông tướng này biết rõ rằng không phải giòng nước sông Gio-đan có sức chữa bệnh. Ông đã từng nói: "Nước các sông A-va-na và Pác-pa ở Ða-mát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Ít-ra-en sao ? Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch sao ?". Ông hiểu và ông tin đây chính là quyền năng của Vị Thần của người Ít-ra-en đã làm cho ông khỏi bệnh, như lời ông tuyên xưng: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en."

Ðiều kỳ diệu thứ hai là sau khi đã nhận biết Ðức Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa thật qua dấu lạ chữa lành, ông tướng này đã xin một ít đất của quê hương này mang về nhà của ông ở xứ A-ram, để từ nay ông chỉ thờ lạy và dâng lễ tế cho một mình Người trên "mảnh đất" của dân riêng Người thôi. Như thế là lòng biết ơn của vị tướng ngoại giáo này đã "đến nơi đến chốn", nghĩa là lòng biết ơn có sức xoay chuyển cuộc đời; hay nếu chúng ta có thể nói, trong trường hợp này, lòng biết ơn đồng nghĩa với lòng tin, với Ðức Tin.

Trong bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca, chúng ta gặp lại cũng chính kết cấu của câu chuyện ông Na-a-man với một vài chi tiết khác biệt. Mười người bị bệnh phong cùi cũng kêu xin Ðức Giê-su chữa lành. Người bảo họ đi trình diện với các tư tế. Ðây là việc họ chỉ phải làm sau khi lành bệnh, theo Luật Mô-sê dạy ( x. Lv 14, 2 – 3 ). Họ đã vâng lời; và lúc đi đường, họ nhận ra mình được lành sạch. Một người đã quay trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Và người ấy là một người Sa-ma-ri-a, nghĩa là một người ngoại.

Chúng ta có thể nhận ra dễ dàng những điểm tương đồng giữa hai câu chuyện như quyền năng chữa lành thuộc về Thiên Chúa, sự vâng lời diễn tả lòng tin là điều kiện để được chữa lành và lòng biết ơn đòi người thụ ơn phải quay trở lại tạ ơn và tuyên xưng Ðức Tinvào Ðức Chúa là Thiên Chúa thật. Nếu chỉ dừng lại ở đó, chúng ta đã có thể rút ra nhiều bài học cho đời sống Ðức Tincủa mình.

Tuy nhiên, tác giả Tin Mừng còn muốn dẫn chúng ta đi xa hơn: ngoài người Sa-ma-ri-a được chữa lành, còn có chín người khác nữa cũng được chữa lành, nhưng họ đã không quay trở lại để tạ ơn. Ðức Giê-su đã than thở: "Không phải cả mười người đều được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?"

Theo lời đó của Ðức Giê-su, thì chúng ta có thể hiểu, chín người kia là người Do-thái. Cả mười người đều vâng lời Ðức Giê-su để đi trình diện với tư tế, có nghĩa là tất cả họ đều tin Ðức Giê-su chữa lành cho họ, nên họ mới ra đi làm cái công việc của một người đã được lành bệnh theo Luật dạy. Chúng ta càng có lý để khẳng định lòng tin đó của cả mười người, khi nghe lời cuối cùng Ðức Giê-su nói với người Sa-ma-ri quay trở lại: "Ðứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Lòng tin đã cứu chữa anh sa-ma-ri cũng như chín người Do-thái, dù họ có quay trở lại hay không.

Tin Ðức Giê-su chữa lành; và khi lòng tin đã được thỏa mãn thì đáng lý công việc phải làm ( theo lẽ bình thường ) là quay trở lại tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Vậy mà chỉ có người ngoại là làm công việc đáng làm; còn chín người Do-thái, vốn tự hào mình là Dân riêng Thiên Chúa, lại bỏ qua. Ðó chính là vấn đề tác giả Tin Mừng Lu-ca muốn đặt ra. Một phần để đề cao lòng tin của người dân ngoại, một phần để cảnh giác óc tự hào quá đáng đối với những kẻ tự cho mình, tôn giáo mình, dân tộc mình là cao trọng hơn kẻ khác.

Người Sa-ma-ri ngoại bang đã tin vào Ðức Giê-su, nên đã được chữa lành. Ðiều đó chúng ta khỏi nhắc lại. Anh đã quay trở lại để "sấp mình xuống dưới chân Ðức Giê-su mà tạ ơn". Người Sa-ma-ri vốn chẳng thiện cảm gì với người Do-thái vì họ bị khinh miệt ra mặt. Thế nhưng sau khi lòng tin đã được kiểm nghiệm là sự chữa lành, mối ác cảm và mặc cảm do hoàn cảnh xã hội, tôn giáo trước kia đã bị xua tan, nhường chỗ cho tâm tình biết ơn sâu xa và lòng tin tưởng chân thành. Không thay đổi sao được khi anh tự nhận thấy mình chỉ là ngoại bang, không thuộc về cộng đoàn con cái Ít-ra-en, nên không có quyền kêu xin Thiên Chúa một điều gì. Vì thế mà ân huệ anh vừa nhận được thực sự là ơn được ban không, hoàn toàn do lòng xót thương vô điều kiện của Thiên Chúa.

Hơn nữa, ân huệ anh vừa nhận được lại quá lớn lao, tựa như ơn cứu sống, "đã chết nay sống lại". Ơn ấy được ban cho anh qua "Thầy Giê-su", vì thế anh quay trở lại sấp mình tạ ơn Ngài, sau khi đã lớn tiếng "tôn vinh Thiên Chúa". Tất cả muốn nói lên: đối với anh, Ðức Chúa là Thiên Chúa thật và Ðức Giê-su là Người của Thiên Chúa, là Sứ Giả của Thiên Chúa. Qua ơn chữa lành thể xác, anh đã được Ơn Cứu Ðộ, được sự sống đời đời: nhận biết Ðức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Ðức Giê-su là Ðấng Thiên Sai ( x. Ga 17, 3 ).

Còn chín người Do-thái thì không quay trở lại để tôn vinh Thiên Chúa ( tác giả Lu-ca không nói: để tạ ơn "Thầy Giê-su" ). Tại sao vậy ? Phải chăng họ tiếp tục vâng lời Ðức Giê-su, đi tìm gặp các tư tế để được chứng thực mình đã khỏi bệnh. Dĩ nhiên đó là việc họ phải làm rồi. Nhưng việc trước tiên đáng phải làm, theo lẽ thường tình, đó là bày tỏ lòng biết ơn đối với người vừa cứu chữa mình, làm cho mình như sống lại từ cõi chết.

Ở đây, chín người Do-thái kia đã không làm theo lẽ thường tình, bởi họ nghĩ rằng mình thuộc giống nòi được tuyển chọn nên có quyền đòi hỏi Ðức Chúa của họ thi ân và đáng hưởng ân huệ của Ðức Chúa. Ðối với họ, Ðức Giê-su chỉ là một tôi tớ của Ðức Chúa, làm việc của Ðức Chúa sai bảo, nên chẳng cần phải cám ơn, cũng tựa như đầy tớ hay người giúp việc ở nhà người bạn của ta thôi. Y có vâng lời chủ nhân mà giúp ta điều gì, thì hà tất ta phải mang ơn y ? Chính thái độ tự hào, tự tôn đó đã ngăn cản nhiều người Do-thái tin nhận Ðức Giê-su là Ðấng Cứu Thế, và vì thế mà không nhận được Ơn Cứu Ðộ.

Lòng biết ơn, đạo nghĩa thường tình, tưởng chừng như chỉ liên quan đến đời sống nhân bản, thế nhưng lại là con đường dẫn đến đức tin; đôi khi lại đồng nhất với đức tin. Ðã là người vô ơn thì đừng nói đến chuyện tin Chúa, tin Trời. Người có lòng biết ơn luôn có một cảm nhận sâu xa về những gì người khác làm cho mình, và tìm mọi cơ hội có thể để diễn tả lòng biết ơn. Người đó sẽ càng nhạy cảm với bao ân huệ muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa: ơn làm người, hồng ân sự sống, ơn nhận biết Chúa, được Chúa tín nhiệm trao cho trọng trách này nọ, được Chúa Quan Phòng cho gặp người bạn đời tuyệt vời...

Mỗi một ngày qua đi, người ấy càng thêm xác tín mình được thương yêu, mình mắc nợ Thiên Chúa quá nhiều, nên tìm mọi cách, mọi dịp để tạ ơn. Tạ ơn khi vui, tạ ơn khi buồn, tạ ơn khi gặp may mắn và cũng tạ ơn khi gặp rủi ro, bởi cách làm vui lòng Chúa nhất là đón nhận mọi sự Người gửi đến trong tin tưởng, phó thác theo tinh thần thơ bé thiêng liêng.

Ngược lại, kẻ vô ơn chẳng bao giờ nghĩ đến việc đền ơn. Trong đầu hắn chẳng có chữ tạ ơn, mà chỉ luôn suy tính mưu lợi. Hắn xem việc người khác giúp mình là "chuyện nhỏ", chuyện bình thường, chẳng đáng để tâm. Tệ hơn, có lúc còn nghĩ xấu cho họ: nó muốn lợi dụng mình chuyện gì đây ? Suy bụng ta ra bụng người mà ! Ðối với những kẻ ấy thì làm gì có Ðức Tin. Tâm trí đâu mà nghĩ đến Chúa cơ chứ ! Vì thế khi quyền lợi vật chất bị đụng chạm thì chửi cha xứ, chửi Hội Ðồng Giáo Xứ, bỏ Ðạo, bỏ Chúa. Chúa Giê-su đã từng nói: Không ai có thể làm tôi hai chủ ! Rõ ràng là như thế !

Tạ ơn Thiên Chúa – Ðấng Tạo Hóa đã dựng nên con người là một thể thống nhất: cuộc sống trần thế không tách rời cuộc sống Ðức Tin. Nhờ đó Ơn Cứu Ðộ là cho toàn thể con người, chứ không phải chỉ có phần thể xác mà thôi.

Xin Chúa cho chúng con biết xét mình nghiêm túc về thái độ biết ơn của chúng con đối với Chúa và đối với bố mẹ, anh chị em và mọi người.

Xin Chúa cho chúng con ơn cảm nhận bao ân huệ chúng con đã nhận được, dù chúng con chẳng xứng đáng, để nhờ đó chúng con sám hối thật vì đã phụ ơn bội nghĩa cùng Chúa suốt bao ngày tháng qua, để chúng con có quyết tâm cụ thể đổi mới đời sống, làm đẹp lòng Chúa hơn mỗi ngày. Amen.

Lm. Giu-se HỒ ÐẮC TÂM, DCCT Nha Trang

SUY NIỆM 3:

SỐNG TÂM TÌNH BIẾT ƠN

Một ngày nọ có một gia đình giàu có, quý tộc thuộc nước Anh đi về miền quê chơi vào ngày nghĩ cuối tuần. Từ thành phố về thôn quê với biết bao phong cảnh đẹp và các trò chơi dân giã. Trong khi nô đùa thoả thích thì tai nạn xảy đến, cậu con trai nhỏ của gia đình họ đã trượt chân ngã xuống dòng nước chảy xiết. Một chú bé, con của người làm vườn nghèo ở gần đó nghe tiếng kêu cứu đã chạy đến nhảy xuống nước kịp thời cứu đứa bé kia lên.

Một đứa bé nhà giàu với đôi bàn tay điêu luyện trên phím đàn, nhưng lại không biết bơi. Một đứa bé nghèo quê mùa với đôi bàn tay chai cứng sạm nắng vì cuốc đất, nhưng hôm nay đã cứu được người. Sự gặp gỡ của hai cậu bé đã tạo nên điều kỳ diệu sau này cho lịch sử nhân loại.

Cha của cậu bé giàu có biết ơn cậu bé nghèo. Thay vì cám ơn, khen ngợi, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu bé cứ luẩn quẩn trong ruộng vườn. Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé lên trời cao. Ông hỏi cậu bé: "Khi lớn lên con muốn làm gì ?" Cậu trả lời: "Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha con." Ông lại hỏi: "Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao ?" Cậu bé cúi đầu: "Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì !" Ông gạn hỏi thêm: "Nhưng nếu con có ước mơ thì con ước mơ gì ?" Ánh mắt cậu bé như nhìn xa xăm về cuối chân trời ước mơ: "Thưa Ngài, con muốn đi học, muốn làm bác sĩ."

Năm tháng qua đi, hai cậu bé cùng được đi học. Cậu bé không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới, đó là thủ tướng Winston Churchill của nước Anh, người đã giữ vai trò quan trọng trong việc thay đổi cục diện của đệ nhị thế chiến và đã làm cho nước Anh tự hào vì tài ba chính trị lỗi lạc.

Còn cậu bé nhà nghèo, nhờ tình thương và lòng biết ơn của cha cậu bé Churchill, cậu đã không còn đặt ước mơ của đời mình ở bờ đê, vườn tược. Cậu đã trở thành bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời. Vị bác sĩ này là Fleming, người đã tìm ra thuốc kháng sinh Penicillin. Sau này khi thủ tướng Churchill lâm trọng bệnh, vương quốc Anh đã tìm những danh y lẫy lừng để cứu sống thủ tướng của họ. Cuối cùng chỉ có vị danh y tài ba mới cứu được Churchill, đó là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.

Cha cậu bé Churchill tỏ lòng biết ơn người cứu con trai mình bằng sự giúp đỡ học hành. Fleming biết ơn người lo lắng cho mình nên đã học thành tài, đem sự hiểu biết phục vụ cho nhân loại.

Sống trên đời này mọi người cần biết ơn nhau. Biết ơn là thái độ cần thiết cần phải có đối với người ban ơn. Trong cuộc sống, tiếng "cám ơn", "xin lỗi" luôn có sẵn trên môi miệng những người có giáo dục, lịch sự, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn phát xuất từ tấm lòng chân thành luôn làm vui lòng mọi người. Chính lòng biết ơn Thiên Chúa, biết ơn cha mẹ là nền tảng cho mọi thứ biết ơn khác.

Khi đọc bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy thật buồn cho chín người vô ơn. Trong số 10 người phong hủi được Chúa Giê-su chữa lành thì chỉ có một người biết tạ ơn Chúa thôi, mà người này lại là người ngoại giáo, còn chín người thuộc Dân Riêng của Thiên Chúa thì lại đều phụ ơn.

Chúa Giê-su hỏi người ngoại giáo: "Không phải tất cả mọi người đều được lành sạch cả sao ? Còn chín người kia đâu ?" Không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ? Chúa Giê-su buồn không phải vì bị phụ ơn mà vì trong số mười người chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa. Chúa xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh phần xác, thì Chúa lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là cũng cố niềm tin: "Ðứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh". Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.

Có hai thứ chịu ơn, vật chất và tinh thần. Vật chất thì có thể tính bằng con số, đo lường bằng mức độ như một cây vàng, một ngàn đồng, một sào đất... Tất cả những thứ ấy đều có thể trả được. Chịu ơn về tinh thần thì khó định nghĩa rõ ràng để trả ơn. Khi một người thất vọng, chán chường, cô đơn, đau khổ, bệnh tật... nếu có được một chút lửa ấm tình thương nâng đỡ xẻ chia giúp cho người đó ra khỏi đêm tối, tìm lại ánh sáng, niềm vui, bình an, hy vọng, thì lòng biết ơn đó là mãi mãi. Kẻ nghĩ rằng trả ơn là xong, không cần biết ơn nữa, đó là một tâm hồn nghèo nàn. Vô ơn chẳng làm cho người ban ơn thiệt thòi mà chỉ làm cho tâm hồn kẻ chịu ơn ra chật hẹp. "Sống vô ơn là một cuộc đời trống vắng tình yêu và không cảm xúc. Có hy vọng mà không có tri ân là sự thiếu hụt của một nhận thức tinh tế. Lòng tin mà thiếu niềm tri ân là một lòng tin không có nghị lực. Tất cả những nhân đức bị tách biệt khỏi lòng biết ơn đều trở nên tàn tật khập khiễng trên con đường thiêng liêng" ( John Hery Jowett ).

Vậy tôi phải mang ơn những ai ?

Bắt đầu mầm sống trong lòng mẹ, nơi ngôi nhà ấm cúng, thầm kín đầu tiên đó, tôi được mẹ lấy máu thịt nuôi dưỡng lớn dần từng ngày, ngày đó tôi đã chịu ơn rồi. Tôi vào đời với tiếng khóc như biểu tượng sự yếu đuới và cần đến mọi người. Rồi tôi lớn lên nhờ giòng sữa, nhờ hơi ấm, nhờ những bàn tay nuôi nấng dẫn dắt. Công cha, nghĩa mẹ, thầy cô giáo dục. Vào đời, tôi cần tình yêu, cần tình bạn, cần thông cảm. Cuộc đời được dệt nên bằng những ơn nghĩa nối tiếp nhau. Sự sống là ân ban cao cả nhất, thiêng liêng nhất mà tôi được đón nhận từ Thiên Chúa. Ngài tạo thành tôi và còn ban Con Một của Ngài chịu chết thập giá để cứu chuộc và ban cho tôi Sự Sống Mới.

Nói đến trả ơn, chỉ có thể trả ơn người, chứ không bao giờ trả ơn Chúa được. Hôm nay tôi nghèo, có người giúp tôi. Thời gian sau, có thể khá hơn tôi có dịp trả ơn. Nhưng với Chúa thì bao giờ tôi cũng nghèo, cũng túng thiếu. Chúa chẳng cần gì để tôi có thể trả ơn, vì mọi sự đều đến từ Chúa. Tôi chỉ có thể biết ơn Ngài bằng thái độ yêu quý những gì Ngài ban tặng. Tặng vật lớn nhất là sự sống và lời mời gọi làm con của Ngài. Bởi đó phải yêu quý sự sống của mình, yêu bản thân mình, yêu con người và yêu cuộc đời. Ghét bỏ chính mình, không yêu người là sự vô ơn đối với người ban tặng.

Mọi sự đều đến từ Thiên Chúa. Ngài sắp xếp hoà điệu để con người tham gia vào chương trình đón nhận ân sủng Ngài trao tặng. Những gì tôi đón nhận từ tha nhân cũng là ơn Chúa, nên lòng biết ơn đối với tha nhân cũng chính là lòng biết ơn đối với Chúa.

Mỗi sáng khi vừa thứa dậy, tâm tình đầu tiên là Tạ Ơn Chúa, dâng một ngày mới cho Chúa. Cùng cộng đoàn hiệp dâng Thánh Lễ chung lời Tạ Ơn Chúa, một ngày mới tràn đầy bình an và ơn thánh.

Tạ ơn để đón nhận thêm ơn lành cho cuộc sống như lời Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rô-ma: "Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời".

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn sống tâm tình biết ơn, biết ơn Chúa, biết ơn người, để cuộc đời chúng con là bài ca tri ân tình thương của Chúa.

Lm. HỮU AN, Giáo Phận Phan Thiết

CẢM NHẬN:

TRÁI TIM BIẾT ƠN

Nếu có ai đưa cho tôi một chiếc đĩa đầy cát và bảo tôi hãy thử tìm những mảnh sắt bé nhỏ nằm lẫn lộn trên cát, thì với đôi mắt và những ngón tay bình thường của mình, tôi khó lòng mà thành công. Thế nhưng, với một thỏi nam châm, tôi lại có thể dễ dàng và nhanh chóng hút ra những vụn sắt li ti trộn lẫn trong cát.

Một trái tim vô ơn có thể so sánh với đôi mắt trần và những ngón tay vụng về của tôi mò mẫm trên đống cát, không tài nào khám phá được những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho đời tôi. Nhưng với một trái tim biết ơn, giống như một thỏi nam châm hút được sắt, tôi có thể lướt nhanh qua mỗi giây phút của một ngày sống và vui mừng đọc ra được biết bao nhiêu là hồng ân Chúa, chỉ khác một điều là những mảnh sắt nhỏ lẫn trong đống cát của Thiên Chúa lại là những vật quý giá hơn vàng !

Nhiều người sống quá hời hợt nên thấy cuộc đời, những biến cố xảy ra hằng ngày, và những cảnh vật chung quanh mang toàn một mầu đen tối và vô giá trị, như thể đất cát tro bụi tầm thường. Thế nhưng đối với những người sống có chiều sâu nội tâm, từng biến cố, từng sự vật chung quanh, dầu tầm thường nhỏ bé đến đâu cũng là dịp để họ suy niệm và dâng lời cảm tạ. Ðó có thể là một nụ hồng vừa hàm tiếu, những tia nắng tinh nguyên của một buổi sáng đẹp trời, một cái xiết tay cảm thông, một cử chỉ tha thứ, một sự giúp đỡ nho nhỏ...

Trích từ LẼ SỐNG, 27.3.2000

CẦU NGUYỆN:

CHỈ CẦN CÁM ƠN CHÚA !

Một hôm, một người bạn tôi cùng với đứa con 3 tuổi ở trên xe với anh, đang trên đường ngang qua một ngã tư. Bỗng, cánh cửa xe bật tung ra và đứa bé rơi xuống khỏi xe ngay giữa đường xe cộ tấp nập cả bốn hướng ! Ðiều cuối cùng mà anh kịp nhìn thấy là một chiếc xe hơi đang lao rất nhanh về phía đứa con bé bỏng của anh ! Anh chỉ còn biết kêu lên: "Giê-su !" Ngay khi dừng được xe lại, anh phóng ra và chạy đến cạnh con mình, nó hoàn toàn bình yên vô sự. Không ngờ, chính người lái chiếc xe suýt cán đứa bé thì lại ở trong tình trạng kinh hoàng, gần như là động kinh. Bạn tôi đến cạnh ông và cố gắng trấn an...

Anh bảo: "Xin ông đừng lo ! Con tôi không sao cả, nó bình an vô sự... Ðừng nghĩ ngợi gì nữa. Chỉ cần cám ơn Chúa vì ông đã dừng kịp thời !" Người kia ấp úng trả lời: "Ông không hiểu đâu ! Chính tôi đang tạ ơn vô cùng, vì lúc nãy... chân tôi đâu có kịp chạm đến bàn đạp thắng !"

Lạy Chúa, xin cho lòng con luôn hướng về Chúa để biết thốt lên những lời tri ân trong mọi biến cố vui buồn, lớn nhỏ trong cuộc sống...

Bản dịch của TRẦN DUY NHIÊN, trích Nối Lửa Cho Ðời số 6

CHỨNG TỪ:

CẢM TẠ THIÊN CHÚA

Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Ý về Hoa Kỳ mang theo một số vị Giám Mục Mỹ mới đi dự Công Ðồng Vatican 2 về, có một nữ chiêu đãi viên hàng không rất xinh đẹp, tận tình và nhã nhặn phục vụ các hành khách. Thế nhưng đặc biệt trong cả chuyến bay, cô vẫn cảm thấy bực bội trong lòng và mất tự nhiên trước một đôi mắt cứ nhìn chăm chú mãi vào khuôn mặt và vóc dáng của cô mỗi khi thấy cô xuất hiện. Lại càng đáng bất bình hơn nữa khi cô tìm cách kín đáo hỏi thăm một hành khách ngồi gần đó, thì hóa ra đó lại là đôi mắt của một giáo sĩ, Ðức Cha Fulton Sheen, vị Giám Mục Tông Ðồ lừng danh nước Mỹ.

Khi phi cơ hạ cánh, đợi các hành khách xuống hết, Ðức Cha mới tiến đến trước mặt cô gái, ngỏ ý một cách đứng đắn trang trọng nhưng không kém phần trìu mến dịu dàng: "Hỡi cô bé, cô xinh lắm ! Cô hãy cảm tạ Thiên Chúa thật nhiều, vì Người đã ban tặng cho cô một sắc đẹp tuyệt vời..."

Thế rồi chỉ vài ngày sau, có tiếng gõ cửa văn phòng làm việc của Ðức Cha Fulton Sheen ở Tòa Tổng Giám Mục New York. Cô chiêu đãi viên hàng không hôm nọ vào đề ngay khi vừa ngồi xuống ghế: "Thưa Ðức Cha, câu nói của Ðức Cha đã làm cho con phải băn khoăn suy nghĩ mãi. Vậy thưa Ðức Cha, con biết phải cảm tạ Thiên Chúa như thế nào cho xứng đáng với những gì Người đã ban cho con ?"

Ðức Cha điềm đạm đặt lại cho cô một câu hỏi thay vì trả lời: "Thế con có bao giờ nghe nói đến một trại phong cùi mang tên Di Linh ở Việt Nam chứ ?" Cô gái ngước đôi mắt xanh như dọ hỏi: "Thưa Ðức Cha, có lần con đã đọc được trên báo và cũng đã được nghe ai đó kể về trại Di Linh."

Ðức Cha dõi nhìn xa xăm qua khuôn cửa sổ: "Có thể hiểu theo một cách nào đó thì Thiên Chúa đã dành tất cả những nét đẹp của những người cùi ở Di Linh mà ban riêng cho con. Nếu con thành tâm muốn cảm tạ Thiên Chúa, con hãy xin sang Việt Nam và tìm cách an ủi họ bằng đời sống phục vụ..."

Chỉ chừng ấy thôi, cô chiêu đãi viên hàng không sau đó đã trút bỏ tất cả tương lai để tự nguyện khoác áo nữ tu. Sau một thời gian tập tu và học hỏi, chị đã xin Nhà Dòng cho được sang Việt Nam phục vụ ngay giữa những con người bất hạnh ở Di Linh...

Theo lời kể của Lm. TIẾN LỘC, trích Nối Lửa Cho Ðời tập 2

CÂU TRUYỆN:

ÐỂ TỎ LÒNG BIẾT ƠN

Tuần trước, vào một buổi chiều đẹp trời, tôi đi taxi. Cứ nhìn cái cách anh tài xế sang số xe một cách nóng nẩy, tôi hiểu ngay là anh ta đang có điều gì không ổn trong tâm trí. Lựa lời hỏi han, tôi được anh cho biết lý do: "Bực mình quá anh ạ ! Sáng nay, có một người khách bỏ quên ví tiền trên xe của tôi. Tôi mở ví để tìm địa chỉ mới biết trong ví có 1.500 quan tiền Pháp. Tôi bỏ hơn 1 giờ để tìm cho ra khách sạn ông ấy trọ. Anh có tin là ông ta chẳng thèm nói một lời với tôi không ? Ông ta mở ví đếm lại tiền, nhìn tôi chằm chằm y như tôi đã móc túi ông ta vậy !"

Tôi tế nhị hỏi thêm anh tài xế: "Thế ông ấy không biếu anh một chút sao ?" Anh ta ngoái lại băng ghế sau nhìn tôi phân bua: "Không một xu ! Tôi hoàn toàn thất vọng, mất bao nhiêu thì giờ, lại tốn xăng nữa chứ ! Thật ra, tôi không nghĩ đến chuyện được thưởng tiền. Giá như ông ta chỉ cần nói với tôi một lời cảm ơn..."

Mọi người chúng ta đều cần một sự biết ơn tương xứng với hành động của mình. Lòng vô ơn dễ bóp chết thiện ý. Và chúng ta nhớ rằng sự biết ơn là một đức tính mà chúng ta không bao giờ thực hành cho đầy đủ.

Trong chiến tranh thế giới lần hai, bà mẹ của một người lính nhảy dù Mỹ nhận được thư con từ bên Pháp. Anh kể rằng anh bị thương, bị đói khát, nhưng lại được một phụ nữ ở làng Avranches nuôi dưỡng và che giấu khỏi quân Ðức đang chiếm đóng. Rủi thay, vài tháng sau, người lính tử trận trong khi tấn công vùng Ardennes.

Ðể cám ơn người phụ nữ chưa biết tên kia, trong suốt 2 năm, bà mẹ đã để dành tiền, vượt Ðại Tây dương, đến thành phố được nhắc đến trong thư con. Bà tìm được người phụ nữ đã săn sóc con bà và tặng một gói quà nhỏ. Ðó là chiếc đồng hồ mà con bà đã lĩnh thưởng trong kỳ thi tú tài, một kỷ vật vô giá đối với bà. Việc bà mẹ tỏ lòng biết ơn đã gây xúc động cho người dân miền Normandie nước Pháp, đến nỗi cử chỉ ấy trở nên một huyền thoại tại Avranches và toàn vùng...

Lòng biết ơn là một nghệ thuật chứng tỏ mình nhạy cảm với mọi thiện ý của người khác, dù điều ấy lớn hay nhỏ. Ða số chúng ta đều cảm thấy vui thích khi được người khác đối đãi tử tế, tặng quà hoặc giúp đỡ khi cơ nhỡ. Nhưng chúng ta cũng cần hoàn thiện việc tỏ lòng biết ơn bằng cách làm cho nó trở nên càng chân thành và càng riêng tư càng tốt. Quả thật, không có gì xúc phạm người khác bằng một lời cảm ơn qua loa, nói cho lấy có nơi đầu môi chót lưỡi !

Nhà viết kịch nổi tiếng của Hoa-kỳ là ông James Barrie kể lại một câu chuyện như sau: "Một chiều nọ, tôi và một người bạn Tô-cách-lan đang bàn chuyện làm ăn. Ðứa con gái 9 tuổi của ông ấy đem đến một đĩa bánh ngọt do bé mới làm xong. Ông bố bực mình vì câu chuyện bị ngắt ngang, liền cầm một chiếc bánh cắn một chút, nói vội một lời cảm ơn con cho xong để tiếp tục nói chuyện với tôi. Cô bé lặng lẽ rời căn phòng. Vài tuần sau. mẹ cô hỏi sao bé không còn hí hửng làm bánh ngọt như mọi khi thì bé òa khóc: "Con sẽ không bao giờ làm bánh nữa đâu !"

Lòng biết ơn đôi khi cũng vượt quá khuôn khổ chuyện riêng tư. Con trai tôi, một sinh viên y khoa kể rằng, một bệnh nhân đã được cứu sống nhờ truyền máu. Sau khi lành bệnh, ông ta hỏi các bác sĩ liệu có cách nào biết được tên người đã hiến máu cho ông. Người ta trả lời là không. Vài tuần sau, ông ta trở lại bệnh viện và xin hiến máu. Và ông đã hiến khá nhiều lần. Một bác sĩ ngạc nhiên về nghĩa cử của ông thì ông đơn giản đáp: "Có một người vô danh đã hiến máu cho tôi. Nay tôi cũng xin hiến máu để tỏ lòng biết ơn !"

Cũng cần phải nghĩ rằng lòng biết ơn có thể không đơn thuần là một tình cảm chóng qua, nhưng lại là một nguồn mạch làm trỗi dậy sức sống trong một số trường hợp. Nhà vạn vật học Hudson kể lại câu chuyện sau đây: "Một tối nọ, tôi dẫn một người bạn thân về nhà chơi, có gì ăn nấy. Sau bữa ăn, ông bạn ấy bảo tôi: "Bạn may mắn có người vợ lo lắng sửa soạn những bữa ăn thật tuyệt vời, mặc dù tôi thấy chị có vẻ yếu và nặng gánh con cái." Chính lời khen này đã mở mắt cho tôi. Lời khen ấy giúp tôi nhìn thấy sự anh hùng trong đời thường của vợ tôi mà vốn dĩ trước đó, tôi cứ xem là chuyện thường tình !"

Lòng biết ơn cần được biểu lộ cả trong từng chi tiết nữa. Người đưa thư, anh thợ hớt tóc, cô thợ may, người phục vụ khách sạn... họ đều giúp đỡ một cách nào đó cho chúng ta lúc này lúc khác. Khi cảm ơn họ, chúng ta biến các quan hệ máy móc thành ra nhân bản hơn, và biến các công việc nhàm chán đều đặn thành ra hết sức dễ chịu.

Một bệnh nhân của tôi, vốn là nhân viên bán vé xe buýt ở Luân-đôn kể với tôi: "Ðôi khi tôi chán ngấy công việc. Người ta cự nự, quấy rầy tôi hoặc kêu ca là không đủ tiền nên không chịu mua vé. Thế nhưng, có một bà cụ già đi chuyến xe buổi sáng và buổi tối đã luôn cảm ơn tôi rất lịch sự khi tôi trao vé cho bà. Tôi tưởng tượng như thể bà đang nhân danh tất cả mọi hành khách để cảm ơn tôi, và điều đó làm cho tôi thấy phấn chấn hơn trong công việc..."

Một số người rất ngại việc diễn tả sự biết ơn, sợ rằng sẽ quấy rầy kẻ khác. Một bệnh nhân của tôi, vài tuần sau khi rời bệnh viện, đã trở lại để cảm ơn cô y tá. Ông nói: "Tôi không đến sớm hơn được, vì tôi cứ ngần ngại, nghĩ rằng chị không thích những người đến cám ơn..." Cô y tá đáp: "Trái lại chứ ạ ! Tôi rất mừng vì ông đã trở lại đây thăm tôi. Rất ít người hiểu rằng chúng tôi cần đến những lời khuyến khích động viên để chúng tôi có thể làm tốt hơn nữa công việc của mình..."

Chúng ta đừng sợ là mình biểu lộ sự biết ơn quá nhiều. Chúng ta đừng quên rằng nụ cười, lời cảm ơn, lời nói tri ân của chúng ta sẽ đem lại bao lợi ích cho nhiều người trong cuộc sống của họ...

Dịch từ Sélection, báo TTCN 6.1997, trích Nối Lửa Cho Ðời tập 2

CẦU XIN VÀ TẠ ƠN

Có 2 thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc túi lớn. Họ chia nhau để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến với những người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em và người già lão, đúng vào những lúc họ đang cầu nguyện tại nhà riêng hay ở Nhà Thờ.

Sau một thời gian, 2 thiên thần gặp lại nhau đúng thời điểm đã hẹn trước để trở về Nước Trời. Chiếc túi của một thiên thần thì nặng như chì, còn chiếc túi của thiên thần kia thì lại có vẻ nhẹ như bông.

Thiên thần có chiếc túi nhẹ mới thắc mắc hỏi: "Ngài mang cái gì mà nặng thế ?" Vị kia vừa thở hổn hển, vừa lau mồ hôi, trả lời: "Ngài quên rằng tôi được sai xuống trần gian để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại hay sao ? Còn ngài, cái giỏ của ngài xem ra nhẹ nhàng quá nhỉ ?". Vị này buồn rầu trả lời: "À, tôi được sai xuống để góp nhặt tất cả những lời thiên hạ cám ơn Thiên Chúa vì những ơn lành Người đã luôn ban cho họ ! Và tiếc thay, tôi chỉ tìm được quá ít !"

Sự thật về hai cán cân nặng nhẹ của những lời cầu xin và những lời cảm tạ Thiên Chúa nói trên cũng được bài Tin Mừng về 10 người phong cùi đã được Ðức Giê-su chữa lành. Chỉ có mỗi một người trong bọn họ, khi thấy mình đã được lành bệnh, bèn quay trở lại, xấp mình dưới chân Ðức Giê-su để tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Sa-ma-ri vốn bị coi là dân lạc đạo trong đất nước xứ Pa-lét-tin. Ðức Giê-su thắc mắc hỏi anh: "Chẳng lẽ 9 người phong cùi còn lại không được tôi chữa lành cả hay sao mà chỉ có mỗi người ngoại bang này ?" ( x. Lc 17, 11 – 19 ).

Trích từ LẼ SỐNG, 3.2000

THÔNG TIN:

THÔNG TIN VỀ CÁC KHOẢN TIỀN ÂN NHÂN MỚI TẶNG

5.10.2001: Bà ngoại của MK Duyên Châu:                500.000 VND giúp trẻ em nghèo.

6.10.2001: MK Lê Xuân Phong ( Hoa Kỳ ):                 50 USD giúp các trường hợp ngặt nghèo.

6.10.2001: MK Nguyên Hậu ( Hoa Kỳ ):                      30 USD giúp các trường hợp ngặt nghèo.

6.10.2001: MK Huỳnh Cúc ( Hoa Kỳ ):                         20 USD giúp Quỹ Mổ Tim của bé Xuân Mai.

8.10.2001: MK Phạm Dzũng ( Hoa Kỳ ):                      50 USD giúp người nghèo.

9.10.2001: Bà Trần Thị Ðào ở Quận 3:                         200.000 VND giúp người nghèo.

9.10.2001: Một Linh Mục DCCT:                                  700.000 VND giúp người nghèo.

9.10.2001: Bác sĩ Mai Tấn Phúc:                                   500.000 VND giúp các trường hợp bệnh tật.

 

THÔNG TIN VỀ CHƯƠNG TRÌNH CỨU TRỠ LŨ LỤT MIỀN TÂY


Mùa lũ lụt Miền Tây lại đến,

Chúa muốn con thực hiện tình yêu.
Ðó là con sống được điều,
Chia cơm sẻ áo cho nhiều tha nhân.

Con nguyện ước góp phần nhỏ mọn,
Với ước mong gói trọn nghĩa tình.
Thế nên con dám hy sinh,
Bớt chi ăn uống vì tình anh em.

Và có gì con đem chia sẻ,
Chính đây là lý lẽ tình thương.
Giúp người đang gặp tai ương,
Khỏi cơn đói lạnh, thoát đường khổ đau.

Chúa giúp con biết mau thực hiện,
Bởi đây là việc thiện điều lành.
Cho con từ bỏ bản thân,
Cứu người sầu khổ được phần an vui.

"Xưa ta đói, các ngươi đã cho ăn,
Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc"

( Mt 25, 35 – 36 )

"Thương người như thể thương thân,
thấy ai đói lạnh chia phần áo cơm."

Mùa Lũ Lụt Miền Tây Năm 2001

Tu sĩ Tô-ma Nguyễn Thiện Triều, OFM


GOSPELNET xin hỗ trợ bước đầu 200 chiếc áo thun cho Nhóm của bạn MK QUỐC DUY đi cứu trợ hai xã vùng sâu là Thạnh Lợi và Trường Xuân, huyện Tháp Mười, tỉnh Ðồng Tháp. Theo tin VietCatholic cho biết, tính đến ngày 9.10.2001, đã có hơn 200 người dân, đa số là trẻ em, đã bị thiệt mạng ở càng vùng đầu nguồn miền Tây như Long An, Kiên Giang, An Giang, Ðồng Tháp... Rất mong quý độc giả gần xa hưởng ứng hoặc trực tiếp tham gia đi cứu trợ, xin liên hệ với chúng tôi qua địa chỉ: uy1959@yahoo.com hoặc 0903.34.09.14, hoặc với bạn MK Quốc Duy: quocduy@az.com.vn.

 

THÔNG TIN THÊM VỀ VIỆC TRỠ GIÚP 2 EM BÉ DỊ TẬT Ở SÓC TRĂNG

Ngày 6.10.2001, GOSPELNET đã nhờ vợ chồng anh Long và chị Nga Nhóm Khuyết Tật Cần Thơ chuyển đến cha Ðặng Xuân Ðồng, Giáo Xứ Cái Trầu, Trà Lồng, Sóc Trăng, số tiền 100.000 VND của chị ÐINH THỊ NHÀN ( Giáo Xứ Tân Phú Hòa ) và 400.000 VND cùng một gói quà nhỏ của GOSPELNET tặng cho gia đình 2 em bé tàn tật là TRẦN THỊ THÚY TRÀNGTRẦN MINH NHỰT.

THÔNG TIN VỀ ANH ÐINH MINH MẪN BỊ BẠI NÃO

Sáng 10.10.2001, GOSPELNET nhận được thư của cha Giu-se Ðỗ Văn Ngân, Giáo Xứ Ninh Phát, hạt Gia Kiệm, Giáo Phận Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai, điện thoại: 061.867.207, trình bày trường hợp sau đây:

Anh ÐINH MINH MẪN, sinh năm 1976, con ông Ðinh Viết Thùy, 62 tuổi, ngụ tại Tập Ðoàn 6, ấp Nguyễn Huệ, xã Quang Trung, huyện Thống Nhất, tỉnh Ðồng Nai. Anh Mẫn bị bại não từ khi được 7 tháng tuổi tới nay, không nói, không đi được, thường xuyên bị co quắp, chỉ có thể nằm võng hoặc ngồi xe lăn. Cho đến nay anh Mẫn đã 25 tuổi mà như đứa trẻ thơ không biết gì. Tình trạng kinh tế của gia đình anh Mẫn hiện nay đã gần như kiệt quệ.

GOSPELNET xin trợ giúp ngay số tiền 500.000 VND kính gửi đến cha Ðỗ Văn Ngân để chuyển cho gia đình anh Mẫn. Kính xin quý độc giả gần xa rộng lòng chia sẻ thêm.

NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO:

XÊ-ÐĂNG, MIỀN ÐẤT HỨA ( tiếp theo )

Ngày 13.5.1998

Một người từ bệnh viện tỉnh đến xin tiếp cứu để có tiền mua một xị máu cho đứa con sắp lên bàn mổ. Lạy Chúa, Chúa hằng ban ân huệ cho con cái Chúa qua những bàn tay quý ân nhân xa gần. Con xin tạ ơn Ngài.

Ngày 19.5.1998

Nhiều anh em Xê-đăng về bệnh viện tỉnh chữa bệnh. Ra viện với hai bàn tay trắng. Họ rất cần giúp đỡ để có tiền xe về làng.

Ngày 1.6.1998

Vùng Xê-đăng đã 3 năm chưa có em nào được lãnh Bí Tích Thêm Sức và Rước Lễ Lần Ðầu. Hôm nay Tơring Pơkô gồm các làng Kontu Pêng, Kontu Yôp, Dak Rao kuen, Dak Rao kram, Dak Moham và Dak Kang Pêng đưa 323 em về Kontum. Mỗi em mất 30 ngàn tiền xe ( 35 cây số đường rừng ). Ðem theo vài ký gạo. Tôi và các nữ tu dân tộc thiểu số Xê-đăng đón tiếp họ. Lo ăn uống và dạy dỗ dọn mình cho các cháu trong 3 ngày. Sau đó, Ðức Giám Mục đến ban Bí Tích Thêm Sức.

Ngày 4.6.1998

24 em làng Kon Kơlok về nhận Bí Tích Thêm Sức.

Ngày 7.6.1998

130 em Tơring Ngok Tu và Dak Cho về nhận Bí Tích Thêm Sức.

Ngày 11.6.1998

Lễ Thánh Bác-na-ba Tông Ðồ. Các em Xê-đăng từ các thôn làng Dak Blái, Dak Ramar, Long Yon, Dak Hnai, Dak Xai và Rotu đi hàng 100 cây số. Ðường rừng, núi hiểm cheo leo về Kontum lo Xưng tội Rước Lễ lần đầu và Thêm Sức. Em nào cũng hớn hở vui tươi được dịp về chốn thị thành. Ðức Giám Mục là người Kinh, làm lễ và giảng bằng thổ ngữ Bahnar, phải có người thông dịch lại Xê-đăng hay Jeh.

Ngày 14.6.1998

245 em nhiều thôn làng thuộc Tơring Dak Mat Huyện Ngọc Hồi về Kontum Thêm Sức và Rước Lễ.

Ngày 18.6.1998

243 em thuộc 12 thôn làng Tơring Pơxi về Thêm Sức và Rước Lễ Một bà cụ 90 tuổi, tai điếc, ốm trơ xương được đứa cháu chở Honda qua rừng qua suối về đây để được xưng tội chịu lễ. Sáng hôm nay bà lên cơn sốt, ngồi phơi nắng. Rồi lại lên Honda trở về lại làng.

Ngày 19.6.1998

Tại ngôi nhà tiếp đón bệnh nhân, tôi làm Phép Thánh Tẩy cho một ngưòi thôn Dak Hà ( cách Kontum 50cây số ), chết vì bệnh ung thư. Chúng tôi lo tẩm liệm, đóng hòm và thuê xe đưa thi hài về với Sông Núi của ông, và đây là người thứ hai chết trong tuần này.

Ngày 21.6.1998

186 em thuộc 9 thôn làng Tơring Dak Ha cách Kontum 70 cây số ớèo cao dốc hiểm ( ô-tô không lên đùược ) về Kontum. Tơring Dak Hà gồm các làng Kon Pia, Dak Potrang Kong Ling, Dak Koneang, Tytu, Vang sang, Dak Sieng, Ngok Kleang, Dak Hà. Những bao quần áo cũ các nhà hảo tâm gửi cho, đã được phân phối cho một số em về đây với bộ áo quần rách nát.

Ngày 25.6.1998

217 em thuộc Tơring Dak Hring về Kontum để được Thêm Sức, các em không bao giờ biết nói cám ơn. Vì trong cuộc sống hàng ngày, ơn qua nghĩa lại là chuyện thường xuyên và bình thường.

Ngày 28.6.1998

192 em thuộc Tơring Ngoc Tụ Huyện Daktôâ về Thêm sức. Các em không biết đi theo hàng ngũ. Vì ở rừng sâu, chẳng cần luật lệ, trật tự lại chả có ý nghĩa gì. Vì Trường Sơn có gì bằng phẳng ngay thẳng, đường thì quanh co như rắn bò, trèo lên tụt xuống. Mỗi người tùy nghi tranh thủ giữ lấy mạng mình.

Ngày 2.7.1998

279 em thuộc nhiều thôn làng Tơring Dak Glei Huyện Dak Glei, giáp Lào và Quảng Nam ở tuyến Bắc và Tây Bắc. Họ phải đi bộ một ngày đường rừng mới có ô-tô khách để trèo lên, ngồi chật như nêm. Các em không biết dùng nhà vệ sinh. Làm nhà vệ sinh dội nước thì họ kết thúc bằng cách dùng một que cây rồi bỏ ngay xuống lỗ, có làm nhà vệ sinh thông thường thì họ lại không bao giờ chịu ngồi trên đống phân người khác. Ở Núi Rừng, mỗi sáng làm vệ sinh, họ ra bìa rừng sẵn cây để quẹt, sẵn đàn heo thanh toán sạch sẽ môi trường... Tôi nhớ ngày đầu tiên đến nhận Giáo Xứ Kơbey thuộc bộ tộc Jrai vào năm 1969. Mờ sáng tinh sương tôi vội ra bìa rừng cho kín đáo. Năm ba con heo thấy bóng đã chạy theo. Tôi chưa biết ứng phó ra sao. Nhìn trước nhìn sau tưởng chừng như không ai thấy. Bình tâm hạ bệ, bỗng có tiếng một cụ già kêu: ''Ông cha cũng đi... hả ?"

Ngày 6.7.1998

205 em Tơring Dak Tơkan về Kontum để được Thêm Sức và Rước Lễ. Sống giữa rừng xanh, không giờ giấc, như chim trời ngày nào hay ngày ấy, bữa đói bữa no là chuyện bình thường.

Ngày 9.7.1998

35 em thôn Kan Dâu Yôp về Thêm sức, đặc điểm của làng này là các em khuôn phép, sạch sẽ, có khuôn mặt đẹp.

Ngày 12.7.1998

282 em ở Tơring Van Lem về.

Ngày 15.7.1998

Sau Thánh Lễ ban Bí Tích Thêm Sức, đúng 8 giờ, Ðức Giám Mục và tôi dùng chiếc xe La Dalat tiến lên Huyện Daktôâ tiếp xúc với chính quyền địa phương để cho tôi được thường trú trên miền Xê-đăng.

Ngày 16.7.1998

237 em Tơring Kon Cheo về Thêm Sức và Rước Lễ.

Ngày 19.7.1998

Thôn Turơmông, Tutem và Pa Cheng có 88 em về Kontum. Thôn Pa Cheng có tất cả 56 nhân khẩu gồm 39 nữ và 17 nam. Ðây là lần chót, xem ra Ðức Giám Mục cũng khá mệt mỏi. Trong Thánh Lễ, Ngài dành ngồi nghỉ không trao Mình Thánh Chúa. Tổng cộng là 2.600 em – 400 người bà con và Giáo Lý Viên đi theo Chúng tôi phải tổ chức liên tục trong hai tháng vào dịp nghĩ hè để các em khỏi bỏ học. Lạy Chúa, xin trả công bội hậu cho những ai đã giúp đỡ chúng con. Amen. Alleluia.

Ngày 26.7.1998

Lễ Thánh Gia-cô-bêâ Tông Ðồ, một em bé Xê-đăng ở thôn Dak Roleang cách xa Kontum 100 cây số, bị hóc xương cá, đã 3 ngày không ăn uống được. Tôi xin xe đem em đến bệnh viện Pleiku vì bệnh viện Kontum không có khoa Tai Mũi Họng, 17 giờ chiều nhập viện. 21 giờ em được bác sĩ gây mê gắp xương cá ra.

Ngày 8.8.1998

Trong tuần Tĩnh Tâm hằng năm của Linh Mục trong Giáo Phận, thầy Giu-se Trần Ðức Tín được thụ phong Phó Tế. Năm 1848, thầy Sáu Do tìm đường lên Kontum. Hôm nay tròn 150 năm, có thầy Sáu Tín.

Ngày 25.8.1998

Thầy Sáu Tín được thụ phong Linh Mục, Kontum đang mùa mưa, nhưng hôm nay nắng dẹp. Bà con từ khắp nẻo đường Kontum – Pleiku tề tựu về Nhà Thờ Chính Tòa Kontum dự lễ phong chức: Anh em Jrai từ Ayunpa ( cha Phán ), từ Pleikly ( cha Tín ) từ Plei Kơbey ( cha Hữu ), anh em Bahnar ( cha Nên ) Anh em Xê-đăng ( cha Bình ), anh em Rơngao ( cha Hữu ), anh em Kinh Kontum, Gia-lai, An Khê, Phú Bổn quây quần bên nhau...

Sau 23 năm, Giáo Phận Kontum mới có được vị Linh Mục thứ hai. Nỗi vui mừng của đoạn kết 150 năm truyền giáo Kontum. Sau khi ổn định chặng đường đầu lên Kontum, năm 1852, thầy Sáu Do được gọi về dọn mình chịu chức Linh Mục. Giữa năm 1853, cha Do trở lại miền đất Kontum mà ngài đã chọn làm quê hương.

Ngày 3.9.1988

Một người đàn ông mang ba-lô từ bệnh viện tỉnh đến, vợ ông sanh khó, đứa con đã chết, ông mang xác con bỏ trong chiếc ba-lô tìm nơi chôn cất. Tôi vội chạy nhờ người đóng chiếc quách cỏn con, thi hài đứa bé nằm cong queo trong chiếc ba-lô được các nữ tu uốn nắn lại để đặt vào quan tài, và một xe honda chở quách và người cha đến nghĩa trang.


Ngày 6.10.1998

Hai anh chàng thanh niên từ Trường Sơn về, đem theo một con khỉ con kháu khỉnh. Cả hai tưởng đem khỉ về tỉnh sẽ được một số tiền cao để mua sắm đồ đạc. Sau một ngày mà không ai hỏi mua, hai anh chàng mặt buồn thiu, đến xin tiền xe để về lại Trường Sơn.

Ngày 19.10.1998

Người mẹ có Ðức Tinmạnh mẽ, khoảng trên 65 tuổi, từ huyện Ngọc Hồi về, dẫn theo cậu con trai, bà buồn phiền phát bệnh vì đứa con không muốn giữ đạo nữa. Bà nhờ cha sở an ủi nó. Trên 26 năm không cha sở, không Nhà Thờ mà niềm tin vẫn còn cháy sáng trong con tim người mẹ già ấy.

Ngày 21.10.1998

Tin cấp cứu: một dân làng Pơxi bị heo rừng cắn trọng thương, chúng tôi vội tìm phương tiện chạy đến. Sự cố là người đàn ông này đi thăm bẫy từ sáng sớm. Khi thấy anh đến, con heo cố vùng vẫy lao thẳng vào cắn xé anh, kết quả anh bị thương nặng ở mông đùi và hư một bên mắt. May phước là chiếc bẫy kẹp chân anh dính vào một lùm cây khác nên anh mới thoát nạn.

Ngày 1.12.1998

Cha Sơn nghiên cứu lịch sử Giáo Phận Kontum, đã tìm thấy một số viên gạch của người Chàm bên kia sông làng Kon Kla. Tàn dư của Bơxat Yă Hơhia, một tháp thờ thần của người Chàm. Người Chàm hiện diện trên vùng này có thể vào thời kỳ thất thủ Kinh Thành Ðồ Bàn. Chúng tôi băng sông lội suối tới hòn đá Thần Hơbia. Giữa tảng đá, có hình chiếc ghế như ngai, mặt đá tự phân hai màu, hướng về phía Ðông.

Ngày 12.12.1998

Ngày cao điểm Năm Thánh 150 Năm Truyền Giáo Kontum đã đến. Khách mời là các vị Giám Mục, Linh Mục, nam nữ Tu sĩ, ân nhân từ khắp các nơi trong nước và ngoài nước rộn ràng tề tựu về. 17 Giám Mục và 214 Linh Mục. Ðông đảo nữ tu các dòng. Thừa sai Pháp có hai cha Bessellance và Chastenet, hai cựu cha sở miền Xê-đang. Gần 2.000 anh em Xê-đang kéo về, tôi và hai cha nói trên ngồi giải tội suốt ngày.

4 giờ sáng ngày 12.11.1998 bà con giáo dân các dân tộc Kinh – Thượng đã đứng chật ních khoảng rộng trước Nhà Thờø Chính Tòa Kontum. 6 giờ, Thánh Lễ với 4 thứ tiến Kinh, Bahnar, Xê-đăng và Jrai với những bài hát và điệu múa, chiêng cồng theo bản sắc dân tộc, khách thập phương đến ai nấy cũng đều cảm động khi tham dự Thánh Lễ tại Núi Rừng Tây Nguyên. Hiệp thông với những người con của Núi Rừng với những lời ca, tiếng hát, điệu nhạc, vũ múa dân dã, bình dị, thanh thản mà mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng chưa một lần tưởng nghiệm, khách thập phương nhiều người đã rơi lệ.

Ðoàn rước gồm Thánh Giá hiên ngang đi trước dẫn đường, kế sau là Sách Tin Mừng, đoàn cồng chiêng vũ múa, 4 người đại diện các sắc tộc Bahnar, Xê-đăng, Jrai, và Kinh cầm 4 chùm bong bóng sắc màu rực rỡ chuẩn bị thả lên thinh không lúc khai mạc Ðại Lễ. Cuối cùng là các chức sắc, Linh Mục, Giám Mục và vị Chủ Tế. Nghi lễ bái Thánh Tổ Tê-pha-nô Cuéno Thể. Hàng ngàn ca viên đứng trên bục đài trổi lời ca nhập lễ uy hùng cùng với khoảng hơn 50 ngàn người chen chúc đứng trước mặt tiền Nhà Thờ Chính Tòa Kontum.

Những chùm bong bóng đủ sắc màu vụt bay lên không trung, ung dung bay qua thị thành, hướng về cây cầu Dak Bla, cổng vào miền đất Kontum thân yêu. Các kinh Thương Xót, Vinh Danh, Thánh Thánh, Chiên Thiên Chúa đều được hát theo chiêng cồng vũ múa của các dân tộc, các bài đọc Lời Chúa đều được 4 đại diện các sắc tộc đọc.

Trật tự và yên lặng đến tột độ biểu lộ lòng sốt sắng của mỗi người. Sau bài giảng, có nghi lễ thanh tẩy cho 12 anh chị em tân tòng thuộc các sắc tộc. Ðây là của lễ cuối mùa 150 năm truyền giáo. Của lễ đầu mùa chính vào năm 1853 với Ngui và Pat vào ngày 16.10.1853 cùng với Hmur vào ngày 28.12.1853.

Bữa tiệc trưa khoản đãi quý khách và ân nhân chủ yếu là món gà nướng giòn nguyên con với cơm nếp, đặc sản Tây Nguyên. Vài ghè rượu cần tiêu biểu. Ðức Tổng Giám Mục Sài-gòn, Các Giám Mục Ðà Lạt, Phát Diệm nếm thử rượu và đàm đạo với anh em dân tộc. Bộ đàn nước trong khuôn viên Tòa Giám Mục đong đưa liên hồi phát ra những âm thanh muôn thuở của Núi Rừng... Rồi mọi người ra về, Rừng Núi trở lại lặng yên. Những bước chân nối tiếp lại tiếp tục lên đường trên đèo cao gió lộng...

Năm mới Kỷ Mão, xin Chúa chúc lành cho những người chúng con yêu thương, xin gìn giữ chúng con an toàn trong sứ vụ, xin ban muôn phúc lành cho quý ân nhân xa gần, xin ban phúc trường sinh cho những người thương yêu chúng con và đã ra đi trước chúng con. Amen. Chúc tụng Chúa đến muôn đời.


Ngày 21.12.1998

Rei, chú Iao phu ở thôn Kan Kơlok mất tích. Dân làng báo tin chú Rei lên núi tìm mây, mất tích. Năm nay chú trên 75 tuổi, tuổi già vẫn không thích ngồi không. Núi rừng vắng lặng lại là chốn nghỉ ngơi của tâm hồn.

Ngày 22.12.1998

Anh em vùng sâu vùng xa miền Xê-đăng bắt đầu kéo nhau về Nhà Thờ ChínhToà Kontum để mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Họ nằm la liệt đó đây hai ba trăm người chen chúc ở nhà vãng lai. Trời về đêm, sương rơi mênh mông, gió lạnh. Một đống lửa bập bùng reo tí tách, tỏa lan sức nóng, len lỏi vào từng đốt xương. Khói bay theo ngọn gió lùa, vừa lạnh vừa ấm. Mọi người như được nối kết như một gia đình, lúc vui lúc buồn, nhưng lúc này là niềm vui mênh mang trông đợi Chúa GiángSinh.

Ngày 23.12.1998

Dân làng chia nhau đi tìm chú Rei. Trên đỉnh núi cao sương mờ, người ta đã gặp thấy chú Rei nằm chết sấp ở thế quỳ khum, tay cầm tràng hạt. Mặt mày và cổ đã bị kiến nhọt bu ăn. Có lẽ chúi đầu vào lùm cây rậm tìm bứt mây, chú đã bị rắn cắn trên phần đầu, biết mình không thể sống chú đã cầm lấy tràng hạt quỳ sấp dọn mình, đồng thời chịu nỗi đau đớn và đã ra đi bình an trong Chúa. Xác đã bay mùi. Dân làng đem xác về an táng tại nghĩa trang gần làng. Là Iao phu, chú đã thay mặt cha sở dạy Giáo Lý, quản lý họ đạo lâu năm, tận tụy, hy sinh. Dân làng thương tiếc như người cha.

Ngày 24.12.1998

Chiều hôm nay đã có 1.850 anh chị em Xê-đăng về. Có 300 người mẹ mang theo con mình, từ mới sinh chưa đầy tháng cho tới ba bốn tuổi, người què được bà con cõng trên lưng, kẻ đui mù được người dắt dìu đi quờ quạng, người câm kẻ điếc cùng chung niềm vui nhộn nhịp. Một căn-tin được mở ra với giá phục vụ bình dân. Bà con, phần đông đem theo những ống cơm, đó là những ống nứa bề tròn bằng cổ tay, họ đổ gạo nếp đã ngâm, nướng ống nứa trên ngọn lửa, cháy hết lớp ngoài ống nứa thì nếp cũng vừa chín. Cơm trong ống nứa có thể để dành lâu vẫn còn mềm. Thường bà con dùng lúc đi đường xa. Một miếng cơm trong ống, thơm ngát hương rừng, đượm tình sông núi.

Ðêm Giáng sinh, bảy tám ngàn người con của Núi Rừng gồm Bahnar, Rơngao, Xê-đăng, Jeh, Halâng đứng im lặng trong màn đêm nhìn về tiền đường Nhà Thờ Chính Tòa trong ánh sáng uy linh huyền diệu của Ðêm Giáng Sinh. Qua bao nhiêu vất vả hy sinh, trong đêm nay họ cũng đã tìm thấy một Giê-su khó nghèo trong niềm tin, không cho tiền bạc chức quyền, nhưng Ngài đã cho họ sự An Bình và Tình Thương.

Lạy Hài Ðồng Giê-su, xưa các chú mục đồng cũng ra về tay không. Hôm nay cũng thế, những người con Núi Rừng cũng ra về không có quà No-en.

Người dân tộc không ăn Tết như người Kinh, nơi nào sống gần người Kinh thì họ cũng bắt chước vui theo chuyện ăn uống say sưa, hơn là ý nghĩa cầu phúc đầu năm và đi thăm nhau.

Ngày 29.2.2000

18g30 điện thoại từ Ya Tun gọi cấp cứu. Tôi ăn vội vàng bữa tối để kịp lên đường. Ðúng 21g30 tới điểm hẹn, một đống lửa bập bùng chiếu sáng. Một gã đàn ông nằm trên cáng, anh chặt cây bị cây đè. Năm bảy người luân phiên khiêng anh từ rẫy về.

Ngày 1.3.2000

Mệt nhoài, tôi nằm ghế xếp coi ti-vi, mục phim về các con thiên nga bị bệnh tật, bị tai nạn, được những người cứu hộ động vật mang về điều trị quá chu đáo để phục hồi sức khỏe. Tôi thầm nghĩ những con vật này sung sướng nghìn lần hơn những bệnh nhân dân tộc thiểu số Núi Rừng Trường Sơn này. Tôi thầm ước gì các bệnh nhân hay người nghèo khổ của Núi Rừng cũng được những ân nhân cứu hộ như vậy. "Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn. Khi Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống...'' Xin Chúa cho chúng con nhận ra Chúa nơi những người anh em này...

Lm. Si-môn PHAN VĂN BÌNH, Giáo Phận Kontum ( Hết ).