TIN MỪNG: Lc 1, 26 – 38
Khi ấy, bà
Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần
Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh
nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Ða-vít. Trinh
nữ ấy tên là Ma-ri-a. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng
vui lên,hỡi Ðấng đầy ân sủng,Ðức Chúa ở cùng bà". Nghe lời
ấy, bà rất bối rối,và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
Sứ
thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng
Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt
tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng
Tối Cao.
Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ða-vít, tổ tiên
Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời,và triều đại của
Người sẽ vô cùng vô tận".
Bà
Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi
không biết đến việc vợ chồng !" Sứ thần đáp: "Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên bà,và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng
trên bà, vì thế, Ðấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.
Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang
cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà
nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì
là không thể làm được".
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
SUY NIỆM 1:
CON ÐƯỜNG ÐỐI THOẠI
1. Câu chuyện Truyền Tin là cuộc đối thoại kỳ
diệu:
Câu chuyện Truyền Tin là một
cuộc trao đổi kỳ diệu giữa sứ thần của Thiên Chúa tức giữa Thiên
Chúa và Ðức Ma-ri-a. Ta có thể gọi đó là một cuộc đối thoại mẫu
mực trong lãnh vực tâm linh, trong chương trình cứu độ. Thiên sứ đến
trao sứ điệp của Thiên Chúa cho một thiếu nữ tên Ma-ri-a. Thiên sứ
chào mừng một cách rất đặc biệt khiến Ma-ri-a ngạc nhiên và bối
rối. Ma-ri-a nói lên thắc mắc của mình với vị khách lạ. Thiên sứ giải
đáp thắc mắc và đưa ra một ‘kiến nghị bất ngờ’. Ma-ri-a lại nêu một
thắc mắc nữa vì thấy kế hoạch mà thiên sứ đưa ra không ‘ăn khớp’
với kế hoạch của mình. Thiên sứ lại giải thích một lần nữa và chờ
đợi sự tán đồng của Ma-ri-a. Ma-ri-a khiêm tốn đón nhận ý muốn của
Thiên Chúa để Con Thiên Chúa nhập thể làm người trong cung lòng mình:
Một cuộc đối thoại kỳ diệu và tuyệt vời mà kết quả là Kế hoạch
Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Ðức Giê-su, Ngôi Lời
thành xác phàm, thành con một người phụ nữ.
2. Lịch sử cứu độ là lịch sử
đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người
Thật ra lịch
sử cứu độ là lịch sử của đối thoại. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những
biến cố trong Vườn Ðịa Ðàng trước và sau khi nguyên tổ loài người
phạm tội. Hoặc chúng ta nhớ lại từng câu chuyện của Áp-ra-ham, của
Mô-sê, của các ngôn sứ, các vua thời Cựu Ước….Thiên Chúa không bao
giờ áp đặt ý muốn của Ngài, dù ý muốn của Ngài luôn luôn là ý
muốn tốt lành, thánh thiện, đem hạnh phúc đến cho con người. Trái
lại Ngài luôn tôn trọng sự tự do và quyết định chọn lựa của con
người.
Sau
này trong cuộc sống công khai rao giảng Nước Chúa, Ðức Giê-su cũng
có những cuộc đối thoại rất độc đáo mà các Phúc Âm đã ghi lại,
chẳng hạn cuộc trao đổi của Ðức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, với
chị phụ nữ Sa-ma-ri, với chị em Mát-ta và Ma-ri-a. Ngoài ra chúng ta
thấy Ngài luôn kính trọng đồ đệ và dân chúng khi Ngài mời gọi họ
bước theo Ngài: "Nếu ai muốn theo tôi, thì…..". Muốn hay không
muốn là quyền của từng người trước lời mời gọi chí ái chí tình của
Ðức Giê-su. Ngài không áp đặt, không ép buộc, không khống chế ai
bao giờ. Con đường Ngài chọn là con đường Thiên Chúa đã chọn: con
đường đối thoại, trao đổi, bàn bạc với từng người cũng như cả cộng
đoàn là dân riêng Ít-ra-en.
3. Con đường đối thoại là con
đường hoàn hảo và hợp ý Chúa nhất
Chúng ta có thể nói: "Con
đường đối thoại là con đường hoàn hảo và đẹp lòng Chúa nhất".
Hoàn hảo nhất vì trong cuộc đối thoại hai người coi nhau như bình đẳng,
như ngang hàng, hai người đều có gía trị, đều đáng được tôn trọng,
yêu mến. Không ai áp đặt ai; không ai dạy khôn ai; Cả hai cùng tìm
Chân Thiện Mỹ là điều tốt đẹp nhất cho cả hai. Ðẹp lòng Chúa nhất
vì chính Chúa đã chọn con đường này để giao tiếp với loài người. Vì
thế mà các Giáo hội châu Á, từ 30 năm nay và nhất là từ đầu
thiên niên kỷ thứ ba này đã chọn con đường đối thoại khi thực hiện
sứ mạng Truyền giáo của mình. Trong cụ thể là các Giáo hội Á châu
tìm cách đối thoại với các truyền thống tôn giáo, các nền văn hóa
và dân chúng Á châu, nhất là người nghèo chiếm đại đa số ở châu
Á này ( xem Tông huấn ‘Giáo hội tại châu Á’ chương 5 ).
4. Chúng ta thực hiện đối thoại với ai và như thế
nào ?
4.1 Trước hết
là chúng ta đối thoại với Thiên Chúa, vì Ngài luôn ngỏ lời với
chúng ta. Ngài ngỏ Lời trong Ðức Giê-su Kitô, trong Hội Thánh, trong
các Bí Tích, trong cộng đoàn, trong cõi thâm sâu của lòng ta và nhất
là nơi người nghèo. Ðối thoại với Thiên Chúa để chúng ta nghe tiếng
Ngài, biết ý muốn của Ngài và để chúng ta đáp lại lời mời gọi
của Ngài.
Kế đến là chúng ta đối thoại
với những người gần gũi với chúng ta trong gia đình và trong giáo xứ,
giáo phận, trong đó có các vị lãnh đạo và anh chị em giáo dân khác
để thể hiện và xây dựng tình hiệp thông niềm Tin. Ðặc biệt là
chúng ta đối thoại với các thành viên Gia đình Khôi bình là những
người mà chúng ta coi như anh chị em trong cùng một gia đình để giúp
nhau hiểu và sống linh đạo đến nơi đến chốn.
Sau cùng chúng ta tìm cách
đối thoại với các tín đồ Ðạo Ông Bà, Phật giáo, Hòa hảo, Cao đài,
Hồi giáo, với cán bộ cộng sản mà chúng ta có dịp gặp gỡ. Họ là
những người có niềm tin hoặc ý thức hệ khác chúng ta; nhưng là đồng
bào ruột thịt của chúng ta. Nhất là chúng ta tìm cách đối thoại với
người nghèo sống chung quanh chúng ta. Ðối thoại để chúng ta hiểu họ
và họ hiểu chúng ta, để chúng ta khám phá ra những nét hay đẹp, độc
đáo nơi họ và để chúng ta chia sẻ những nét hay đẹp của chúng ta cho
họ.
4.2 Chúng ta đối thoại bằng
cách lắng nghe, tiếp nhận, cân nhắc, suy nghĩ và trân trọng ý kiến
của người đối thoại nhất là khi người đối thoại với chúng ta lại
là chính Thiên Chúa. Chúng ta đối thoại bằng cách khiêm tốn, ôn hòa
và cởi mở, giãi bày tâm tư, nguyện vọng, hiểu biết, suy nghĩ của
mình. Ðối thoại với tinh thần ấy sẽ đem lại bình an, hạnh phúc, yêu
thương, kính trọng cho chúng ta và người khác. Xã hội này còn nghi kỵ,
thành kiến, thế giới này còn chiến tranh bao lâu loài người chưa
thực thi đối thoại trong các mối tương quan xã hội, quốc gia cũng như
quốc tế!
CẦU NGUYỆN:
"Lạy Thiên Chúa là Ðấng đã và còn đang
ngỏ lời với loài người, với riêng con... Xin Chúa mở tai, mở lòng,
mở trí, mở tay, mở miệng... con, để con nghe được tiếng Chúa nói với
con và biết nói lời của riêng con với Chúa !
Xin Chúa giúp con biết đối thoại với những người sống bên
cạnh con hoặc có liên hệ mật thiết với con. Ðể chúng con biết đâu
là Ý Chúa mà thực thi, đâu là hạnh phúc thật của chúng con mà
cùng nhau cầu xin và tìm kiếm."
Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI
SUY NIỆM 2:
DÕI THEO ÐƯỜNG MẸ ÐI
Người ta thường nói "mến
Thánh Giá", nhưng cần thấy rằng cuộc đời mỗi người, cách riêng
đời kitô hữu thì đúng hơn là vác Thánh Giá mình mỗi ngày theo Chúa
Giê-su. Như chính Ngài đã từng dạy các môn đệ: "Ai muốn theo thầy,
phải từ bỏ chính mình, vác Thánh Giá mình mà theo" ( Mt 16, 24 ).
Tháng Mai Khôi, xin cùng được suy niệm về con đường Thánh Giá Ðức Mẹ
đi, từ truyền tin đến đồi Gôn-gô-tha. Mong góp vào đây lời kinh dâng
Mẹ.
Khởi đi từ Truyền tin Mẹ cưu mang
Ðấng cứu đời:
"Mừng
vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà" ( Lc
1, 28 ) lời chào của thiên sứ gây nên bối rối nơi lòng Mẹ, kèm theo
lời truyền tin sẽ cưu mang và sinh hạ Ðấng cứu đời. Một trinh nữ
không biết đến chuyện vợ chồng lại mang thai. Lời "xin vâng"
như kèm theo thập giá.
Thập giá của
Mẹ ở đây, là phải giữ kín bí mật, và có lẽ phải chấp nhận tai
tiếng: dư luận xần xì ồn ào mà không một lời giải thích. Rồi phải
giữ kín nguồn ân sủng vô bờ Mẹ được Chúa thương ban, và chính Giê-su
nguồn ân sủng mà Mẹ cưu mang. Tất cả mầu nhiệm lớn lao đó lại được
chứa đựng trong một thụ tạo mõng manh, yếu đuối một người nữ, thuộc
phái bị coi là lắm chuyện và không giữ kín được gì. Mẹ không một
lời, trước tiếng xì xầm, hay khen ngợi của những người thân cận hay
cả kẻ tò mò. Lời "xin vâng", chứa tràn ân sủng nhưng mặc và
mang lấy thập giá của chính Mẹ, từ bỏ mình để chương trình của Chúa
thực hiện nơi mình. Và lời đáp trả của Mẹ khi được bà Ê-li-sa-bét
ca mừng là lời kinh tạ ơn và dâng trả Thiên Chúa, Ðấng nguồn mọi ơn
sủng và cũng là lời kinh khiêm hạ – Mẹ chỉ là "là nữ tì, được
Chúa đoái thương", những gì Mẹ được là do Thiên Chúa ban. Trái
với cái thường tình của con người mọi xã hội, mọi thời đại mọi
công lao lập được là do mình cả, nên họ mãi bận tâm đi tìm mình, thay
vì bỏ mình.
Tiếng "xin
vâng" của Mẹ như đánh vọng mãi trong lòng ta lời "xin vâng"
giao trọn đời mình cho Chúa để được cưu mang Ngài trong cuộc đời mình
khi biết lắng nghe lời Chúa dạy và đem ra thực hành, trở nên đền
thờ đón Chúa Giê-su mỗi ngày ngự vào lòng ta.
Tuổi thơ của con trẻ Giê-su:
Trong lễ dâng con: Mẹ chấp hành theo luật – khi biết rằng
điều nhiệm lạ trong mình, đấng vượt trên lề luật, làm ra lề luật
nhưng lại phải lệ thuộc vào luật – để mầu nhiệm nhập thể được nên
trọn thì thực quá là tuyệt vời của từ bỏ. Chấp nhận lễ nghi, tập
tục tôn giáo hiện thời.
Nhưng
Mẹ chưa dừng ở đó, Thánh Giá lại thêm nữa cả gánh nặng và nỗi
đau. Trong lời ca khen của Simêon về con trẻ có thêm cả nổi đau con
trẻ rồi phải chịu, tê tái thật. Rồi nữa, ông già gần chết được
diễn phúc thấy và ẳm ơn cứu độ, lại ghim một lời bén hơn cả gươm: "Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải
vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống
báng - còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ xuyên thấu tâm hồn bà –
ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra" ( Lc 2,
3 4 – 35 ). Mẹ làm gì ? Thưa Mẹ khắc ghi những lới đó và suy niệm
trong lòng để hiểu thiên ý nhiệm mầu. Thập Giá, nỗi đau càng nặng
hơn. Trước niềm vui và nỗi đau, mỗi người thường nói ra cho hả, cho
nhẹ. Còn đàng này Mẹ lại phải từ bỏ và vác lấy Thánh Giá cho mầu
nhiệm thập giá nên trọn nơi con Mẹ. Bài học nào cho ta ?
Tuổi niên thiếu:
Rồi 12 năm sau, con trẻ
Giê-su lại làm thêm một điều bí nhiệm. Theo cha Mẹ lên đền thờ, rồi
như ham chơi không chịu về theo cha Mẹ. 3 ngày hớt hải tìm kiếm đau đớn
lòng Mẹ. Ðể rồi được gì ? Một cảnh tượng tự hào: Giê-su, con Mẹ
đang ở giữa các kinh sư để đàm đạo và trả lời xuất sắc những câu
hỏi khiến họ thán phục. Nhưng câu trả lời cha mẹ lại có thể nói
dưới điểm trung bình: "Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết con
có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?" ( Lc 2, 49 ). Cha mẹ nào chịu
thấu điều này, khi mà phải tìm con trong lo âu vất vả tới 3 ngày ?
Có hạnh phúc đó, nhưng câu trả lời này thực sự gây khó chịu. Nhưng
phản ứng của Mẹ, là gì ? Là hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng,
Không phản ứng mà còn hằng ghi nhớ, đau càng đau thêm, bực càng dễ
bực thêm. Nhưng ghi khắc ở đây là Mẹ ghi khắc ý nghĩa của những
điều đó, hay là ghi khắc để hiểu nó qua từng ngày. Và điều đó thật
là tuyệt vời, giúp Mẹ vượt qua những bực nhọc, đau đớn. Và nơi Mẹ,
hình như phải giữ kín ý nghĩa những điều được mạc khải cho riêng Mẹ
nơi cuộc đời của Giê-su con Mẹ càng là một Thánh Giá, mà Mẹ phải
từ bỏ. Bài học nào cho ta ?
Ba năm cuối, Giê-su rong ruổi
truyền rao tình yêu:
Sau khoảng 30 năm yên ổn, Giê-su lên đường, như là bỏ nhà
đi để rồi rày đây mai đó, ngủ bờ ngủ bụi, lung tung. Rồi sao nữa:
nhiều người theo, nhưng lắm người ghét mà toàn những người có quyền,
có chức và nắm quyền sinh sát, Giê-su đang chọc tức giới chức đạo
đời, Mẹ nào không lo. Nhưng đau hơn vẫn là dư luận nói con của Mẹ bị
điên, bị mát, một kẻ phạm luật.
Chưa
hết, Giê-su như có vẻ từ khước cả người thân khi trả lời: "Ai là
mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ? Ðó là ai thi hành ý muốn của Cha tôi,
Ðấng ngự trên trời người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi" ( x.
Mt 12, 48 – 50 ); rồi rồ hơn khi nghe có người khen Mẹ mình là người có
phúc, thì thay vì hảnh diện Giê-su lại nói quả phúc hơn thế nữa
người nghe lời ta và đem ra thực hành ( x. Lc 11, 27 ). Nói cách khác,
Mẹ như bị con của Mẹ coi không quan trọng bằng các thính giả đang nghe
mình. Người Con đó, chỉ có dân đen theo, còn quyền thế thì bực nhọc,
tìm cách bắt bẻ, gài bẫy, vu khống và hơn nữa bàn mưu tính kế sát
hại.
Trong
những ngày Giê-su, con của Mẹ rong ruổi đi rao giảng, Mẹ dõi theo xa
xa, muốn lo, muốn can thiệp cũng không thể. May chi trong bữa tiệc
cưới ở Ca-na, Mẹ con chuyện trò được vài câu, và có chút gì ảnh
hưởng. Có vẻ như trong những vinh quang nhất của con thì Mẹ như lu mờ
dần, và khoảng cách Mẹ con cũng xa dần.... Rồi, kết thúc những ngày
miệt mài rao giảng tình thương, Giê-su bị bắt, bị đánh đòn màu me đầm
đề, và những lời mắng chửi khích bác vang mãi suốt đoạn trường khổ
đau. Mẹ cũng chỉ được dõi theo con trong âm thầm. Mẹ nhìn con lặng
câm, vất vả vác cây gỗ để thành giá treo mình. Nặng nề, vất vả và
đẩm máu. Con đau Mẹ khổ, con ngã làm lòng Mẹ tê tái, buốt đau.
Trên thập giá lưỡi đòng đâm
thấu tim con tan nát tim Mẹ:
Cuối
cùng, khi mà chỉ còn tiếng thì thào, Giê-su mới như chợt nhớ đến Mẹ
đứng ôm Thánh Giá nhìn mình chết dần chết mòn, vội vàng giao trối
lại cho Gio-an người môn đệ mình yêu. Con nuôi đổi con ruột, môn đệ
đổi cho Thầy... đau ơi là đau ! Mẹ cũng chỉ lặng im không nói gì cả.
Lời tiên tri ứng nghiệm. Con Mẹ trọn đường Thánh Giá có thăng có
trầm, còn Mẹ chỉ có lặng câm, suy niệm. Một sự đồng công tuyệt
vời: con Mẹ bị lưỡi đồng đâm thâu tỏ lộ, còn tim Mẹ tan nát vì tràn
ngập nỗi đau không ai chia sớt và không thể chia sớt.
Và chỉ khi mọi
sự hoàn tất, và tiếng hát Ha-lê-lui-a vang lên thì mới tỏ lộ ra tim
Mẹ: Ðấng Ðồng Công Cứu Chuộc. Mẹ nên mẫu
gương tuyệt với cho mỗi người trong việc từ bỏ mình bằng hai tiếng "xin
vâng". Con đường thập giá là con đường từ bỏ chính mình, vác lấy
Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa:
Từ bỏ mình để vâng phục, từ bỏ trong vâng
phục, từ bỏ để thuộc trọn và để Thánh Ý Chúa nên trọn nơi mỗi
người. Xin
cùng cất lên tiếng ca: "Mẹ ơi, xin dạy con hai tiếng xin vâng".
TÀI LIỆU:
Năm 1498, quân Hồi
giáo Thổ-nhĩ-kỳ chiếm Lepanto, một hải cảng quan trọng tại Hy-lạp ăn
thông ra vịnh Cô-rin-tô. Suốt thời 11 Giáo Hoàng, từ Ðức
A-lê-xan-đrô VI ( 1492 – 1503 ), đến Pi-ô III ( 1503 ), Giu-li-ô II ( 1503
– 13 ), Lê-ô X ( 1513 – 21 ), A-đri-an VI ( 1522 – 23 ), Clê-men-tê VII (
1523 – 34 ), Phao-lô III ( 1534 – 49 ), Giu-li-ô III ( 1550 – 55 ),
Mac-xê-lô II ( 1555 ), Phao-lô IV ( 1555 – 59 ), Pi-ô IV ( 1559 – 65 ),
đạo binh Thánh Giá ủng hộ Giáo Hội đều thất bại không làm sao
thắng được quân Thổ.
Thời Ðức
Pi-ô V khởi sự từ 1566, các phong trào lần hạt Mai Khôi được phát
động mạnh mẽ. Ngày Chúa Nhật thứ nhất Tháng 10.1571 tại Rô-ma, Hội
Huynh Ðệ Mai Khôi tổ chức cuộc rước kiệu trọng thể tôn vinh Ðức Mẹ
Ma-ri-a. Cùng một lúc, có tin đoàn tàu ủng hộ Ðức Giáo Hoàng, gồm
có quân Tây-ban-nha, Venise và Gênes, dưới quyền chỉ huy của tướng Don
John, người Áo, đã chiến thắng quân Thổ-nhĩ-kỳ tại Lepanto. Ngày ấy
là 7.10.1571. Tuy vào các năm sau đó, quân Hồi giáo Thổ cũng
đánh trả quyết liệt, nhưng, chính yếu, họ không khôi phục được
Lepanto. Và mãi đến 1827, quân Hy-lạp mới làm chủ tình thế. Ngày nay,
giữa Hy-lạp và Thổ-nhĩ-kỳ vẫn thường xuyên có xích mích, khi thì chính
trị, khi thì quân sự.
Ðức
Giáo Hoàng Pi-ô V ( 1566 – 72, sau khi qua đời được phong thánh ngày
22.5.1712 ) đã lập lễ kính nhớ thắng trận Lepanto mà ngài gọi là "chiến thắng của chuỗi Mai Khôi",
và đặt tên Ngày 7 Tháng Mười là Lễ Ðức Mẹ Mai Khôi. Năm 1671, Ðức
GH. Clê-men-tê X ( 1670 – 76 ) cho phép cả nước Tây-ban-nha mừng Lễ Mai
Khôi, và chính Ðức Clê-men-tê XI ( 1700 – 21 ), ban hành Lễ Ðức Mẹ Mai Khôi 7.10.1716 cho
toàn Giáo Hội Công giáo khắp hoàn vũ. Sau đó, Ðức GH. Lê-ô XIII đã
ra thông điệp Quod Auctoritate ( 22.12.1885 ) công bố Năm Thánh, nhấn
mạnh đến tầm quan trọng của chuỗi Mai Khôi. Ngày 20.9.1887, ngài nâng
Lễ Ðức Mẹ Mai Khôi lên lễ nhớ bậc hai, và thêm câu "Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Môi
Khôi" vào kinh cầu Ðức Bà, gọi là Kinh Cầu Loreto ( Sách Mục Lục
Sàigòn, tr. 84 ).
Nhiều giáo hữu vào Hội Ðạo Binh Ðức Mẹ – Legio Ma-ri-ae, đã
biết danh Thánh Lu-y Ma-ri-a Mông-pho – Louis Marie Grignion de Montfort (
Thủ Bản Legio Ma-ri-ae, 107, tr. 77 – 78 ). Thánh nhân là "hội viên tuyên truyền mạnh mẽ về
Hội Mai Khôi, hội của người tín hữu mỗi tuần tối thiểu lần hột Mai
Khôi 150 kinh" hay ba chuỗi Mai Khôi. Theo Thủ Bản Legio Ma-ri-ae (
số 605, tr. 372 ), đây là "một hội
có nhiều ân xá nhất, ta cần vào để hưởng cho hết các ơn ích của
chuỗi Môi Khôi." Thánh Mông-pho đã tường thuật, theo tu sĩ Alan de
la Roche, việc Ðức Mẹ truyền cho Thánh Ðô-mi-ni-cô rao giảng chuỗi Mai
Khôi như sau:
"Khi thấy tội lỗi quá nặng nề của nhân dân và của quân rối
An-bi-gen-xi-an ( Albigeois ), Thánh Ðô-mi-ni-cô vào rừng gần Toulouse,
Pháp, và cầu nguyện liên miên ba ngày, ba đêm, xin Chúa nguôi cơn
giận. Người hãm mình, đánh tội cho đến ngất xỉu. Lúc đó, Ðức Mẹ, có
ba thiên thần chầu quanh, hiện ra, phán bảo: "Này Ðô-mi-ni-cô, con có
biết Ba Ngôi Thiên Chúa chí thánh muốn dùng vũ khí nào để cải thiện
thế gian chăng ?"... "Thưa Mẹ, Mẹ biết ý Chúa muốn hơn con biết vì Mẹ
ở kề bên Chúa Giê-su, Con Mẹ, và Mẹ đồng công chuộc tội loài
người chúng con. Mẹ nói: "Phương cách chính là Lời Chào Mừng của
Thiên sứ, đá tảng của Tân Ước. Nếu con muốn đạt đến tâm hồn cứng
cỏi của người tội lỗi và vượt thắng họ, thì phải rao giảng Kinh Kính
Mừng đó."
Ðô-mi-ni-cô
trỗi dậy, sốt sắng tìm gặp những người tội lỗi, bằng cách đi thẳng
tới nhà thờ chính tòa Toulouse. Bổng có những thiên thần bí mật rút
chuông triệu tập dân chúng tề tựu. Khi Ðô-mi-ni-cô bắt đầu giảng
thì bão táp nổi lên, trái đất rung chuyển, mặt trời trở nên tối
tăm, các tia chớp lòe sáng và sấm sét nổ vang khiến cho mọi người
hoảng sợ. Nỗi lo sợ càng mãnh liệt khi dân chúng nhìn thấy Ðức Bà
hiện ra, giơ hai tay lên trời ba lần, xin Thiên Chúa trừng phạt họ,
nếu họ không chịu trở lại, cải thiện đời sống, và chạy đến khẩn
cầu Mẹ Thiên Chúa hộ phù. Thánh Ðô-mi-ni-cô cầu nguyện và rao
giảng chuỗi Mai Khôi, rồi cùng với nhịp hùng hồn của người, bão táp
lặng dần. Nhân dân thành Toulouse nghe lời người, cùng nhau lần hạt
Mai Khôi và thống hối, trở về với Chúa. Ðược Chúa Thánh Thần soi
sáng và Ðức Mẹ dạy bảo, Thánh Ðô-mi-ni-cô rao giảng chuỗi Mai Khôi
suốt đời ngài, vừa giảng vừa lần hạt Mai Khôi, làm gương sáng cho
dân Chúa, cho kẻ tội lỗi cũng như cho người theo bè rối, từ thành
nọ đến thành kia suốt miền Nam nước Pháp.
Chuỗi Mai Khôi ngày
nay mở đầu có một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng tôn vinh Ba Ngôi
Thiên Chúa với lòng Tin-Cậy-Mến và kinh Sáng Danh vinh quang Chúa Cha
và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Với 15 suy ngắm Mầu Nhiệm
Vui-Thương-Mừng và lời nguyện Fatima ( Lạy Chúa Giê-su xin tha tội... ), chuỗi Mai Khôi, vừa
đọc vừa ngắm là cách cầu nguyện hoàn hảo nhất của người Công
giáo.
TRẦN VĂN TRÍ ( Theo The Secret of the Rosary )
tháng 10.2001
TÌM HIỂU Ý NGHĨA CỦA TÊN
GỌI "MAI KHÔI"
Mai Khôi, hay còn được nhiều
nơi gọi là Mân Côi, Mai Côi, Môi Khôi, Văn Côi... đều xuất xứ từ
tiếng La-tinh là Rosarium có từ
thời Trung Cổ, tiếng Ý là Rosario, tiếng Pháp là Rosaire, tiếng Anh là Rosary, có 3 nghĩa như sau: một tràng, một chuỗi, một xâu Hoa Hồng ( Rosa, Rose = Hoa Hồng ); một xâu chuỗi hạt trai, hạt đá quý
để đeo quanh cổ người phụ nữ; một
vườn Hoa Hồng.
Ngày xưa, tràng chuỗi Hoa
Hồng là một hình thức của lễ dâng lên các vị thần linh, hay một
vòng hoa quàng vào thân mình người được thiên hạ ngưỡng mộ tôn vinh.
Sang đến Việt Nam, chuỗi
Rosarium được người miền Bắc gọi là "Chuỗi Mân Côi", hoặc "Chuỗi
Văn Côi"; riêng người miền Nam và miền Trung lại gọi là "Chuỗi Môi
Khôi". Ngoài mấy cách gọi thông thường của từng địa phương nêu trên,
các cha Dòng Ða-minh chi Lyon Pháp, còn có cách gọi là "Chuỗi Mai Khôi". Cách gọi này
hiện nay được khá nhiều người dùng, nhất là các tu sĩ và giới trẻ,
đặt thành nhiều bài hát hay viết các bài suy niệm.
Vậy, phải dùng
cách gọi nào cho thật đúng trên bình diện ngôn ngữ học và việc đạo
đức thiêng liêng của người Công Giáo chúng ta ? Học giả Ðào Duy Anh
dịch chữ Rosaire của tiếng Pháp trong ba từ gọn lỏn là: "Tràng hạt
dài". Từ Ðiển Pháp-Việt của nhà xuất bản Thanh Hóa in năm 1994 dịch
ra hai nghĩa là: 1. Chuỗi hạt lớn có khoảng 150 hạt, tràng hạt.
2. Kinh lần tràng hạt.
Tổng
hợp các từ điển Việt-Nam, Hán-Việt và Trung-Hoa, chúng ta không tìm
được từ ngữ nào là "Mân Côi". Vậy từ đâu mà có tên gọi này,
cũng như đã có những cách đọc trại ra, na ná giống nhau ? Thật ra, "Mân" là tên một thứ đá rất đẹp, bên ngoài có vân như ngọc nhưng lại
không có giá trị bằng ngọc. Có nơi lại gọi loại đá này là "Văn" có nghĩa là có vân, một
thứ đá có vân đẹp. Còn "Môi"
hay đọc đúng chính âm là "Mai"
lại là tên một thứ ngọc quý màu
đỏ. "Côi", hay còn đọc là "Khôi"
chính là tên một thứ đá kém giá
trị hơn ngọc ( danh từ ). Ngoài ra, còn một nghĩa khác nữa là hiếm, quý, lạ ( tính từ ). Nếu
ghép thành "Mai Côi", chúng ta còn có thêm ý nghĩa là: một loài hoa rất thơm, sắc đỏ hoặc
trắng, nhánh có gai, ngày nay người ta dùng hoa này chưng cất lấy
hơi tẩm ướp vào rượu để sản xuất ra một thứ rượu quý nổi tiếng
của Trung Hoa, gọi là "Mai Côi Lộ Tửu", thường được gọi trại ra là
"Mai Quế Lộ". Riêng ông Nguyễn Văn Khôn và ông Ðào Duy Anh đều viết
đúng chữ "Mai Khôi Hoa" và giải
thích đúng là Hoa Hồng. Vậy, chúng ta có thể khẳng định các cách
gọi "Mai Côi", "Mai Khôi" hay "Môi Khôi" đều là những âm Hán
tự có nghĩa đích xác là Hoa Hồng,
trong khi cách gọi "Mân Côi" lại không bao giờ có nghĩa là Hoa Hồng,
mà chỉ là nói đến một thứ đá !
Trong
việc đạo đức sùng kính Ðức Ma-ri-a, mỗi
lời nguyện, mỗi lời kinh là
một của lễ xứng đáng, là một đóa Hồng xinh tươi, là một chuỗi Hoa
Hồng, là cả một vườn Hồng tuyệt vời mà chúng ta kính cẩn dâng lên
Mẹ. Quả là chúng ta không thể dùng từ "Mân" với nghĩa không
được cao quý trong "Mân Côi" để tìm lấy một mùi hương ngát thơm lâng
lâng bay lên tòa Thiên Chúa được.
Người
quân tử quý ngọc, nhưng lại coi thường đá Mân. Thế tại sao chúng ta
lại giữ lấy đá Mân thiếu giá trị làm một của lễ cho Mẹ Thiên Chúa
? Chúng tôi chủ trương dùng "Mai
Khôi", hay "Mai Côi", thậm
chí "Môi Khôi" là để thay thế
cho từ ngữ "Mân Côi" mà có thể vì chưa hiểu thấu đáo ý nghĩa, chúng
ta đã vô tình quen dùng một cách không xứng đáng với Mẹ Ma-ri-a. Rất
mong được các bậc học giả uyên thâm đóng góp thêm nhiều ý kiến
chính đáng hầu trang hoàng cho tòa Hoa Thơm của Mẹ.
Lm.
NGUYỄN VĂN PHƯỠNG ( OP )
Năm 1917, Ðức Mẹ đã hiện ra tại Fatima, Bồ Ðào Nha mỗi
ngày 13 trong nhiều tháng liên tiếp với lời cảnh báo chúng ta về
điều gì sẽ xảy ra nếu nhân loại không quay trở lại với Thiên Chúa.
Thông điệp của Ðức Mẹ rất đơn giản: Hãy đưa Chúa Giê-su ngự giữa
trung tâm đời ta. Hãy cầu xin lòng thương xót của ngài. Hãy hy sinh
và đền tạ vì tội lỗi nhân loại xúc phạm đến Chúa. Và hãy lần
chuỗi Mai Khôi cho hòa bình.
Thông
điệp Ðức Mẹ gởi cho chị Lucia 13.10.1917: "Ta là Ðức Mẹ Mai
Khôi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn
tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa
nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy
lần chuỗi Mai Khôi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày." Quan
trọng nhất, Mẹ Ðầy Ơn Phúc đã mang đến cho chúng ta một niềm hy
vọng. Nếu chúng ta lắng nghe ngài, và thực hiện thì lòng thương xót
của Chúa sẽ tuôn đổ trên ta.
Thánh
Pi-ô Năm Dấu Thánh cho biết: "Vũ khí của tôi là tràng hạt
Mai Khôi. Ðức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua
chuỗi Mai Khôi. Muốn làm Ðức Mẹ vui lòng và muốn được Ðức Mẹ thương
yêu hãy lần chuỗi Mai Khôi". Cha Stefano Gobbi viết: "Chuỗi
Mai Khôi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mai Khôi, bạn sẽ có
thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời
sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình
yêu và thánh ân... Chuỗi Mai Khôi là lời kinh của tôi. Những lời
kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để
khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và
của các tín hữu".
Ban tổ chức Ngày Thế
Giới Ðọc Kinh Mai Khôi cho biết trong ngày thứ bảy 6.10.2001 này trên
thế giới đã có 140 nước ghi tên tham dự. Trong năm 2001, trước làn
sóng chiến tranh đang đe dọa hòa bình thế giới và theo ý Ðức Thánh
Cha, chủ đề chính của ngày lần chuỗi Mai Khôi năm 2001 là "Cầu
cho hòa bình thế giới". Năm ngoái, 2000, chủ đề chính là "Cầu
cho những kẻ phá thai và ủng hộ phá thai".
Muốn tham gia ngày lần
chuỗi Mai Khôi toàn thế giới, trong ngày thứ bảy tới đây xin lần ít
là một chuỗi Mai Khôi và cầu nguyện cho hòa bình thế giới theo ý
Ðức Thánh Cha. Nếu có thể được, xin khích lệ những người khác cùng
làm theo. Sau cùng, xin cho ban tổ chức biết số chuỗi đã lần được để
họ rút kinh nghiệm tổ chức và quảng bá cho năm sau tốt hơn. Xin gửi
E-mail cho ban tổ chức tại địa chỉ sau đây: rosario@churchforum.org
NGUYỄN VIỆT NAM ( từ VietCatholic )
CHỨNG TỪ:
Người
ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến
ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông
muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một
trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng
ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một chữ. Chữ độc nhất ấy,
cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt
đẹp của văn sĩ. Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta
mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được cuốn sách một chữ ấy ?
Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất
vọng... Tất cả những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài
kiệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng,
cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm
súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để
diễn tả được những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì
là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng
yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát
vọng. Chữ ấy là: Ma-ri-a, tên của người Trinh Nữ đã được
thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân xứng với thiên chức làm
Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn
hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Ma-ri-a,
Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một
người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Một
ngày nọ, thánh Gio-an Ma-ri-a Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ
một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa
phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã
chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng
chắc chắn đã mất linh hồn. Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và
được Chúa soi sáng, cha đã nói: "Chồng bà đã được cứu thoát !"
Quá
ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi: "Thưa cha, làm sao
lại có thể như vậy ?" Cha Vianney cắt nghĩa: "Có Chúa ở giữa
chiếc cầu và giòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi,
ông đã làm hòa với Ngài." Bà vợ hỏi lại: "Nhưng làm sao có
thể như vậy được ?" Thánh nhân bảo: "Ðó là một ơn của Ðức
Mẹ." Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp: "Vì một hôm, trên
đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước
tượng Ðức Mẹ ở bên đường. Ðức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp
này sao ?"
Trích sách LẼ SỐNG
CÂU TRUYỆN:
LÁ THƯ GỬI CHÚA GIÊ-SU
Bé Quang năm nay mới
được 6 tuổi, gia đình khá giả, rất hiếu động và nghịch ngợm, đang còn
học lớp Giáo Lý Khai Tâm ở Nhà Thờ Thái-hà. Một buổi chiều đi dạo
với mẹ ở bờ Hồ Tây, Hà-nội, bé thấy một cậu bé trạc tuổi mình
đang thích thú đạp chiếc xe đạp nhỏ xíu, đàng sau có gắn thêm hai
chiếc bánh con con để giữ thăng bằng. Bé Quang vội níu lấy tay mẹ và
nũng nịu xin: "Mẹ, mẹ ơi, mẹ mua cho
con một chiếc xe đạp y như thế đi mẹ !" Bà mẹ chỉ muốn trả lời
cho con cho xong chuyện nên bảo: "Con
à, nếu con muốn quà gì, sao con không viết thư xin với Ông Già No-en,
thế nào Ông Già No-en cũng cho con." Bé Quang tỏ ý không chịu: "Nhưng bây giờ mới là tháng 5, còn
lâu mới đến Lễ Giáng Sinh, con thì muốn có ngay chiếc xe đạp để chơi
cơ !"
Bà mẹ một lần nữa muốn khất lần vì lo
con chơi xe đạp có thể bị ngã, nguy hiểm... Bà sực nhớ có lần nghe
giảng trong lễ thiếu nhi, cha xứ DCCT Thái Hà có khuyến khích các
cháu viết thư cho Chúa Giê-su, bà liền bảo con: "À này, sao con không thử viết thư xin Chúa Giê-su nhỉ ?"
Bé Quang không nài nỉ gì thêm nữa. Tối hôm ấy, trước khi đi
ngủ, Quang loay hoay lấy giấy bút ra để viết thư cho Chúa Giê-su. Bé
viết thật ngắn gọn như thế này: "Chúa
Giê-su kính yêu, con là một đứa bé ngoan và con muốn Chúa thưởng cho
con một chiếc xe đạp Chúa nhé. Con cưng của Chúa, Bé Quang"
Viết xong, bé Quang đọc đi đọc lại lá thư, gãi gãi đầu
ngẫm nghĩ rồi quyết định xé đi, rồi bậm môi viết lá thư khác: "Chúa Giê-su kính yêu, thỉnh thoảng đôi
lúc con là một đứa bé ngoan, con muốn xin Chúa khích lệ con bằng cách
tặng cho con một chiếc xe đạp..."
Chưa kịp ký tên thì không biết nghĩ ngợi thế nào, bé Quang
lại xé lá thư và vít một lá thư khác nữa: "Chúa Giê-su kính yêu, thú thật với Chúa là con cũng chưa
ngoan lắm đâu, con chỉ hứa là sẽ ngoan hơn, Chúa có chịu tặng cho con
một chiếc xe đạp, được không ạ ?"
Lần này bé Quang cũng vẫn thấy chưa ổn. Bé không biết
phải viết làm sao để thuyết phục được Chúa ban cho mình món quà hấp
dẫn ấy. Ðang băn khoăn do dự thì bất giác, bé nhìn lên bàn thờ Chúa
có đặt một pho tượng Ðức Mẹ La-vang nho nhỏ. Bé mừng rỡ kê ghế
trèo lên, đỡ lấy pho tượng Ðức Mẹ, hôn cung kính rồi đem xuống, chạy
về giường, giấu luôn Ðức Mẹ dưới chiếc gối của mình.
Lần này, bé Quang hăm hở lấy một tờ giấy mới, nắn nót
viết lá thư: "Chúa Giê-su kính yêu,
nếu Chúa còn muốn trông thấy Mẹ, xin Chúa gửi ngay cho con một chiếc
xe đạp để chuộc lại Mẹ. Ðứa con nghịch ngợm của Chúa, Bé Quang !"
Bạn ơi, có một
lúc nào đấy, bạn thưa với Chúa Giê-su rằng: "Chúa ơi,
này đây con đem Mẹ về giấu tận đáy lòng con, trong trái tim con, vì
con nhớ ngày xưa, khi sắp chịu chết trên Thánh Giá, Chúa đã trao phó Ðức
Mẹ cho người môn đệ Chúa yêu dấu đặc biệt rằng: "Ðây là mẹ của
con" Và kể từ đó, người môn đệ đã rước Mẹ về nhà mình..."
QUANG UY sưu tầm,
trích NỐI LỬA CHO ÐỜI số 4
THÔNG TIN:
THÔNG TIN VỀ EM SINH VIÊN NGUYỄN THÀNH CÔNG
Như trong GOSPELNET số 5 từ
tháng 4.2001, gia đình ông TRẦN NGỌC BÁU đã trợ giúp 300.000 VND cho bạn NGUYỄN
THÀNH CÔNG,
khi ấy là sinh viên năm thứ 1 Ðại Học Bách Khoa, khoa Ðịa Chất – Dầu
Khí. Hiện nay bạn Công đã lên năm thứ 2, hoàn cảnh gia đình rất
nghèo, lại đông anh em, dù đã cố gắng đi dạy kèm ( gia sư ) nhưng
cũng chỉ được khoảng 500.000 VND cộng với số tiền người anh lo liệu
thêm, mới đủ một nửa số học phí phải đóng cho học kỳ 1. GOSPELNET
đã trích quỹ thêm 500.000 VND để bạn Công an tâm nỗ lực học tập. Kính xin quý độc giả gần
xa, mỗi người một chút, hoặc một vị ân nhân nào đó nhận trợ giúp
"trọn gói" cho bạn Công trong học kỳ 2 là 1.100.000 VND. Hiện nay, bạn
Công đã về trọ tại số 116 / 10 / 3 A Bis đường Tô Hiến Thành, F. 15,
Q. 10, Sài-gòn. Ðiện thoại nhờ nhắn: 08.8.625.369.
THÔNG TIN VỀ CHỊ PHẠM THỊ NGHĨA CẦN CÓ MỘT XE
LĂN
Chúng tôi vừa nhận được E-Mail của Sr. Tuyết Trinh, Dòng Ða-minh
Rosa Lima trình bày một hoàn cảnh ngặt nghèo: chị PHẠM THỊ NGHĨA,
sinh ngày 4.10.1966, hiện ngụ tại Giáo Xứ Thánh Gia, ấp Bình Tân,
huyện Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai, gia đình rất nghèo lại đông anh em, chị
Nghĩa bị sốt tê liệt từ nhỏ, chân tay bị teo, di chuyển rất khó khăn,
rất cần được trợ giúp một chiếc xe lăn có cần đẩy để tìm cách
buôn bán lặt vặt phụ với cả nhà. GOSPELNET xin trích khoản tiền 1.700.000
VND từ nguồn trợ giúp của Nhóm Help The Poor để nhờ bạn MK
Phan Tấn Hiển mua tặng chị Nghĩa một chiếc xe lăn có cần đẩy. Giấy
biên nhận số tiền 1.000.000 VND và thư cám ơn, chúng tôi sẽ
nhờ chị Thiên Hương ( Giáo Xứ Hòa Hưng ) chuyển đến cho cha Trịnh Tuấn
Hoàng ( OFM ) và Nhóm Help The Poor.
THÔNG TIN THÊM VỀ
ANH YA NIM
Sáng
thứ tư 3.10.2001, chúng tôi vừa nhận được từ các soeurs Dòng Ða-minh
Rosa Lima hai tấm ảnh chụp anh YA NIM ( xin xem GOSPELNET số 28 )
lúc đang điều trị vết lở loét ở lưng và mông, và đang ngồi trên
chiếc xe lăn mua từ khoản tiền được Nhóm Help The Poor trợ
giúp. Giấy biên nhận số tiền 1.000.000 VND và thư cám ơn, chúng
tôi sẽ nhờ chị Thiên Hương ( Giáo
Xứ Hòa Hưng ) chuyển đến cho cha Trịnh Tuấn Hoàng ( OFM ) và Nhóm Help
The Poor.
THÔNG TIN VỀ GIA ÐÌNH CHỊ PHẠM THỊ BÌNH Ở MIỀN
BẮC
Cha
Nguyễn Huy Tảo vừa gửi vào cho GOSPELNET trường hợp gia đình chị
PHẠM THỊ BÌNH ở Giáo Xứ Ðại Lãm, thôn Tam Dị, xã Ðại Lãm, huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, thuộc Giáo Phận Bắc Ninh. Vợ chồng chị Bình
có tất cả 9 người con, được xếp vào diện túng đói thường xuyên, thu
nhập một năm tối đa được khoảng 5.000.000 VND nhờ vào một sào ruộng,
chăn nuôi nhỏ và đi làm thuê làm mướn, những người con lớn đã phải
bỏ học để làm ruộng và đi ở giúp việc, chỉ còn các cháu bé là
được đi học nhưng hết sức vất vả mà vẫn không đủ tiền đóng học
phí. Nay chị Bình lại mới phát hiện bị bệnh U Hạch, phải vào
Viện Ung Thư để chạy chữa bằng phương pháp Hóa Trị Liệu với khoản chi
phí là 3.000.000 VND.
Chúng
tôi đã xin chuyển 200 USD từ khoản trợ giúp của cha Trịnh
Tuấn Hoàng và Nhóm Help The Poor để chị Bình có thể nhập viện
ngay. Biên nhận và thư cám ơn có chữ ký và con dấu của cha sở đã
được gửi vào Nam để chuyển cho Nhóm Help The Poor.
THÔNG TIN VỀ CÁC KHOẢN TIỀN ÂN NHÂN MỚI
GIÚP
Ngày 29.9.2001, anh Phạm Văn Lượng đã mang đến cho chúng tôi số
tiền 100.000 VND của chị ÐINH THỊ NHÀN ( Giáo Xứ Tân Phú
Hòa ) nhờ GOSPELNET tặng cho gia đình 2 em bé tàn tật là TRẦN THỊ
THÚY TRÀNG và TRẦN MINH NHỰT ở Giáo Xứ Cái Trầu của cha
Ðặng Xuân Ðồng, tỉnh Sóc Trăng.
Ngày 1.10.2001,
nhân mừng Lễ Thánh Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su, một Linh Mục ẩn danh
đã tặng cho quỹ GOSPELNET số tiền 500.000 VND để trợ giúp cho
người nghèo. Chúng tôi đã trích quỹ thêm để có được 1 triệu trao
cho soeur Hồng Quế trong chương trình Bảo Vệ Sự Sống, chuyển đến
trợ giúp cho một chị tên H. 26 tuổi, có người yêu chết vì tai nạn
bất ngờ, chị đã chấp nhận giữ lại bào thai và nay đã vừa mới sinh cháu
bé nặng 3,5 Kg tại bệnh viện Từ Dũ, chị cũng quyết định sẽ giữ đứa
bé và nuôi nấng mặc dù hoàn cảnh chị chỉ có một thân một mình.
Nguyện xin Thánh Nữ Tê-rê-xa luôn cầu bầu cùng Chúa cho gia đình bé
nhỏ đơn chiếc của chị.
NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO:
XÊ-ÐĂNG, MIỀN
ÐẤT HỨA ( tiếp theo )
Ngày 11.2.1998
Vế lại Daktô, trung tâm Miền Ðất Hứa. Tôi
đến thăm các cấp chính quyền huyện. Cuộc tiếp xúc đầu tiên. Ông bí
thư mời tôi ăn bữa cơm trưa. Bữa cơm thanh đạm lại nói lên được sự
chân tình. Lần đầu tiên ông tiếp cận với một Linh Mục và đã thẳng
thắn nêu lên vài thắc mắc về con người Linh Mục.
Lạy Chúa, hôm
nay tuy có khác nhưng khung cảnh vẫn là một với Cv 8, 26 – 36:
Phi-líp-phê đã chạy đến gặp quan thái giám trên xe ngựa. Lạy Chúa,
xin ban cho con một tâm rộng mở để con luôn mở rộng
cho mọi người mà con gặp trên nẻo đường con đi.
Ngày 16.2.1998
Làng Dak Kang Pêng. Nghe tin vài cụ bà, lão
lai tài tận, muốn gặp Linh Mục trước khi qui hồi tiên tổ. Ðếm theo
vài lon nước. Qua chợ mua vài ổ bánh mì. Ðường đi không khó nhưng
ngòng ngoèo quanh co. Thung lũng sâu những ngọn đồi đã thành nương
rẫy, thưa thớt điểm vài bóng cây Kơ-nia cao vút. Thôn làng nhà tranh
vách nứa 560 nhân khẩu. Vài cụ già an phận chờ chết không chút
buồn phiền. Vài em bé đang sốt mê man. Một bà mẹ đã ẵm em bé hai
tháng tuổi đứng chờ đón tôi giữa nắng ban trưa.
Lạy Chúa, có
một gian nhà nhỏ ( 2m x 3m } được dành riêng cho Mình Thánh Chúa. Con
và 5 đại diện đã vào đây quỳ gối hát thờ lạy Chúa. Tiếng hát
chúng con như mất hút giữa Núi Rừng này nhưng xin hòa lời ca cùng
Giáo Hội Hoàn Vũ.
Em bé chết oan uổng. Em chăn bò, một chú
bò đá trúng chân em, làm đứt mạch máu. Ðèo heo hút gió, vô phương
cấp cứu, máu ra nhiều và em an giấc nghìn thu.
Lạy Chúa, nếu
con có phương tiện tiếp ứng thì em bé này hãy còn ớ dương gian. Xin
cho con phương tiện phục vụ và niềm vui dọc ngang, ngang dọc, xẻ núi
dời non.
Người mẹ lâm bồn cần cấp cứu. Một người
mẹ thôn làng Turia chuyền bụng đã 3 ngày. ''Ðẻ không ra, đang ôm
cột nhà la làng xóm''. Dân làng cấp báo. Mượn chiếc xe con của
Tòa Giám Mục. Người mẹ được khiêng ra đường lộ. Lên xe, những nét
mặt buồn, lặng lẽ nhìn theo. Bệnh viện Kontum đã cứu nguy người mẹ.
Một người con trai Rừng Núi ra đời.
Lạy Chúa, con
vui mừng làm việc này để đền đáp lại công ơn người mẹ đã sinh ra
con với bao lo toan thiếu thốn.
Người nghèo của Gia-vê. Hai người mẹ tuồi
35, kẻ bị thần kinh tọa, người viêm đại tràng Tiền mất tật còn.
Cũng không ai màng tới những người con bạc mệnh này. Cúi dầu khóc,
họ xin tiền xe về 1àng, mang theo nỗi buồn không hết bệnh.
Lạy Chúa, mặt
Chúa đang tái mét, chân lê bước, con chỉ có chút tiền tiển chân
Chúa về làng đấy thôi.
Ngày 2.3.1998
Thôn làng Kon Tu pêng và Kon Tu yôp. Pêng
là trên, Yôp là dưới. Sông Pơkô: giòng sông hung hãn, những tảng
đá, đen sậm, to nhỏ, nghênh ngang. Khiêng chiếc Honda qua sông cứ số 1
số 2 từ từ băng qua đồi non, thung lũng. Kon Tu yôp 28 năm không bóng
người Linh Mục. Những người trẻ chưa hề biết Linh Mục. Trong niềm tin,
họ vui mừng đón tiếp Linh Mục chân tình cởi mở. Họ sốt sắng dọn
mình chịu các Bí Tích. Ché rượu đãi khách. Mỏi mệt đường dài. Rượu
làm tôi bừng tỉnh. Khí phách bùng lên, tâm thần minh mẫn, gân cốt
hết rã rời. À, giờ đây tôi mới hiểu cái ma lực. Một chú bé lững thững
chạy lại ba nó. Người cha thản nhiên cầm cần rượu đút vào miệng con
mình. Ðứa nhỏ hút một hơi dài rồi chạy đi chơi. Con suối ngòng ngoèo
như con rắn quấn chặt thôn làng. Núi đồi làm con suối như gãy khúc,
chảy thành thác ghềnh. Tôi hứa yểm trợ họ một máy bơm nườc để
trồng cà phê và một thủy diện một Kilo-volt để đem lại một đổi mới
và một niềm vui.
Và lạy Chúa,
con chỉ là người quản lý để tiếp nhận từ tay người khác để rồi chuyển
tải đến cho những con người mà con không bao giờ biết.
Làng Kan Tu Pêng có chú Nôm, Gíao Lý Viên
từ năm 1942 tới giờ. Già ốm ngồi một chỗ nhưng vẫn rao giảng Lời.
Cuốn Kinh và đôi kính vẫn bên đầu giường. Con người đáng kính và
đáng khâm phục. Và một máy bơm nước 16 mã lực cho Kan Tu Pêng này.
Thời gian trôi nhanh, nắng nhạt dần, tôi trở lại Gan sông, làn nước
đen thẩm, ngọn núi chênh vênh như bức màng đen khép lại không gian.
Mọi người chúng tôi không ai bảo ai, đều nín lặng. Cúi đầu cám tạ
Ðấng Hóa Công Lời kinh Lạy Cha lại vang lên bên giòng Pơkô... "Nước
Cha trị đến... hằng ngày dùng đủ... khỏi mọi sự dữ. Amen". Bàn
tay Linh Mục và bàn tay những người con Núi Rừng siết chặt rồi lại
chia tay.
Lạy Chúa con
nhớ cuộc chia tay của Thánh Phao-lô năm nào trên bờ cũng có lẽû
cũng giống cuộc chia tay cùa con hôm nay. Con buồn. Nỗi buồn
man mác của người mục tử...
Dak Rao kuen và chiếc cầu treo. Thôn làng
cách Kontum 45 cây số ngã Daktô. Một cây cầu treo cao lơ lững trên
sông Pơkô. Qua cầu mới vào được làng. Tôi dang loay hoay chụp mấy
bức hình thì phải quay về Kontum. "Ðường đi không khó vì ngăn
sông cách núi, nhưng khó vì lòng người..."
Ngày
7.3.1998
Chú Nôm qua đời. Con người đã từng bao năm
rao giảng Lời, sống như mọi người giữa anh em mình. Hôm nay người con
Núi Rừng đã về cùng Chúa sau một lần gặp được Linh Mục.
Có thể đây
là lời cầu nguyện của Chú Nôm: Lạy Chúa, xin cho con được ra
đi vì mắt con đã thấy...
Heo rừng và người mẹ. Tin từ Kon Tu Pêng:
Nghe tin heo rừng về ăn mì nương rẫy, anh A Thup, thợ săn rành nghề,
mang súng đi rình. 5 giừ sáng mù sương dày đặc. A Thup nghe tiếng động
có bóng đen thấp thoáng như heo ủi gốc cây mì. Ðoàng ! Một tiếng rú
kinh hồn như ma quái. A Thup hồn xiêu phách lạc, ba chân bốn cẳng về
kêu làng xóm. Dân làng vác mác và xà gạc chạy đến nơi. Một người
mẹ nằm chết. Ðó chính là Y Siu. Nàng lên nương sớm, đào củ về cho
con ăn đỡ đói. Giờ đây, con nàng không có củ ăn mà cũng chẳng còn
sữa bú !
Lạy Chúa, khi
nghe câu chuyện con sực nhớ lời ca: Chúa có tình yêu thương vời
vợi... mãi mãi Chúa là Cha nhân ái, là Mẹ hiền nuôi sống con. Con
tin Chúa vẫn nuôi con cái Y Siu. Lạy Chúa, Ngài là Tình Thương, là Mẹ hiền. Amen.
Ngày 12.3.1998
Dak Kang Yôp. Tôi dến thăm làng này lần
đầu. Sắc tộc Xê-đang Rơngao. Ðất quanh làng được trung thu trồng cao
su. Dân làng sau này sẽ là công nhân. Phần đất còn lại là đồi núi
cao và thung lũng sâu. Với 3 thanh niên và hai già làng tôi đi qua
mật ngọn núi, xuống thung lùng sâu tìm suối nước dẫn thủy nhập đồi.
Ðúng ngọ, trở về. Ðến lưng chừng núi, tôi không còn đủ sức, tim
đập liên hồi, chân tay bủn rủn, mắt hoa đôm đốm, trán toát mồ hôi
lạnh, miệng đắng, nước miếng keo sệt. Tôi quỵ ngưòi nằm soài dưới
đất. Một thanh niên cầm tay kéo tôi lên khỏi núi. Họ vẫn thường đi
trên đường núi dốc này, ngày mùa hãy còn mang trên vai 20 ký lúa,
bắp, mì.
Lạy Chúa, con
đường này Chúa đã đi qua khi vác Thập Tự Giá. Hôm nay con mới cảm
nghiệm phần nào. Xin cho con yêu thương và kính trọng những ai đang đói
khổ, lao lực.
Một bà già đã đi 50 cây số về Kontum để lo
việc linh hồn. Quả đúng như vậy. Bà sốt sắng dọn mình chịu các Bí
Tích. Ngả mình ngủ qua đêm và không còn thức dậy nữa.
Lạy Chúa, xin
cho bà được nghỉ yên vì bà đã tin vào Chúa suốt cả cuộc đời.
Khánh thành Nhà Thờ Thăng Thiên. Tọa lạc
trên một khu tam giác ngay ngã ba trung tâm thị xã Pleiku. Nguy nga, hai
gian cánh như hai bàn tay mở rộng đón tiếp mọi người. Mặt tiền có
hình Alpha và Omega. Mái tôle lạnh xanh biếc hài hòa với Cao Nguyên
núi đồi. Có hành lang rộng đi quanh. Sân rộng. Ðường đi trải đá và
thảm cỏ, điểm thêm vài chậu bonsai bản địa. Hôm nay, hai Giám Mục
Giáo Phận và Linh Mục đoàn làm lễ cung hiến Nhà Thờ. Nhà Thờ đầu
tiên được cung hiến.
Lạy Chúa, con rất thán phục người anh em con đã xây cất Nhà
Thờ này cho Chúa ngự. Nhưng con sực nhớ rằng Chúa cũng chẳng khinh
chê và đang ngự trong con, trong những người con của Núi Rừng mênh
mông này.
Năm Thánh, người người hành hương về Ðất
Tổ Giáo Phận, tôi hôm nay hành hương xuyên suốt miền Ðầt Hứa: Kontum
– Dak Hà – Daktôâ – Ngọc Hồi – Dak Glei, nhìn lại vết chân các vị thừa
sai tiền bối: thôn làng, cầu treo, núi đồi, nhà rông. Thác ghềnh
mỗi nơi mỗi cảnh, thiên hình vạn trạng các bộ tộc: Jeh, Striêng,
Xê-đang, Ha-lâng... 16g tôi dặt chân lên miền Dak Glei, điểm cuối của
Giáo Phận. Thông reo như Ðà Lạt, se lạnh về chiều. Dân cư nằm dài
theo một can đường chân núi. Bên một con sông và một cánh đồng nho
nhỏ mỗi ngày có một chuyến xe khách Kontum – Dak Glei... 16g40 hạ sơn,
anh em Ya-tun nam phụ lão ấu túa ra đứng đón người Linh Mục đi qua để
được xưng tội. Chiếc cầu treo dài đong đưa vì kẻ qua người lại. Ðường
rừng trong đêm tối thật khó đi. Ðúng 23g00 tới nhà, 300 cây số đi về
trên chiếc Honda.
Lạy Chúa, xin
ban cho con một ý chí mạnh mẽ hầu con được kiên vững trong gian nguy
và Iao nhọc.
Gần 100 anh em giáo dân bộ tộc Jeh ở huyện
Dak Glei về chuẩn bị dự lễ Phục Sinh. Gần 70 dọïn mình lãnh Phép Rửa
và Rước Lễ lần đãu. Họ phải đi bộ hàng 20 cây số mới có chiếc xe
leo lên. Tôi phải dùng thông dịch viên để làm việc với bộ tộc này.
Tại sao họ tin Chúa. Tôi chỉ biết rằng Ðức Tin là ơn nhưng không Chúa
ban.
Cả ngàn người sống màn trời chiếu đầt.
Nóng oi ả. Ðóng kịp cái giếng sâu 36m với chiếc bơm hỏa tiễn, giải
quyết được khâu an sinh cho bao nhiêu con người. Hoa nhân ái của một
con người hảo tâm vô danh nơi dương thế mà lại hữu danh trên Quê
Trời... Ðêâm về khuya, tôi cố gắng khui nắp các vỏ lon nước Bò Húc
để bà con dùng. Vỏ lon được bà con tận tình yêu thích nên nó biến
mất tiêu.
Lạy Chúa, xin
ban cho con chỉ có một niềm vui là giúp anh em con bớt khốn cùng hơn
và họ có được niềm vui nào đó trong tâm hồn.
Ðêm vọng Phục Sinh, bên Tòa Cáo Giải suốt
cả ngày vẫn có người chờ đến lượt mình. Gần bốn năm ngàn người đã
về, ngồi nằm la liệt khắp vườn Nhà Thờ. Ðêm Thánh huyền nhiệm,
đứng bên cạnh Ðức Giám Mục, tôi cất cao lời công bố ''Aùnh Sáng
Chúa Ki-tô'' cho tám ngàn người con của Núi Rừng bằng thổ ngữ
Bahnar. Tôi hát lên Bài ca Exultet hoành tráng. Ðức Giám Mục ban Phép
Thánh Tẩy cho gần 100 anh em tân tòng gồm các bộ tộc Jeh, Xê-đang,
Bahnar. Nhiều người đã cao niên.
Lạy Cha, ước
chi ngọn lửa này vươn lên như hương trầm nghi ngút, và nhập hội hoa
đăng với tinh tú bầu trời Cao Nguyên.
6 giờ chiều nay, trận mưa giông đầu mùa.
Nhà Thờ Kon Jodreh mà tôi có dịp nói vào Lễ Khánh Thành, nay một cơn
gió lốc đã làm đổ nát tan tành trong giây lát. May không phải giờ
kinh nguyện. Chỉ có Yă ( nữ tu ) Gabriel, người duy nhất chứng kiến
thảm cảnh. Yă là một y sĩ kỳ cựu, giàu kinh nghiệm, luôn hiện diện
bên đồng bào mình.
Hỡi Ma-ri-a,
xin thuậl lại trên đường đi, cô đã thấy gì ? Thấy mồ
trống Ðức Ki-tô, Phục Sinh vinh hiển thiên thu khải hoàn. Chính tôi đã thấy Ðức Ki-tô
Phục Sinh trên mọi nẻo đường Rừng. Nếu Người không sống lại thì
Rừng vần vắng lặng cô liêu. Nhưng hôm nay Rừng âm vang lời ca
Ha-lê-lui-a. Nhiều kẻ lin và sẳn sàng chịu khốn khó vì Người. Chính
tôi đã thấy Ðức Ki-tô Phục Sinh trên mọi nẻo đường Rừng. Qua những
trang bút ký, tôi muốn kể lại: tôi
đã từng gặp Ngài... Lạy Ðức Ki-tô Phục Sinh, xin ban niềm vui, lẽ
sống vĩnh hằng cho những ai nâng đỡ cuộc đời Linh Mục con, cho những
anh em Linh Mục cùng lớp với con, cho thân bằng cố hữu và... Amen. Alleluia, Alleluia !
Tôi đưa xe tới bệnh viện chở người con gái
Kon Dau Yôp, xuất viện với bệnh nan y. Ðến ngõ cụt đường rừng, đã
có sẵn 10 thanh niên chờ khiêng cán. Vài người phụ nữ bà con chạy
lại, nhìn nhau, khóc kể. Những lời nói líu lo đầy thương mến. Tiếng
chim khứu từ xa vọng lại, và tiếng suối reo. Tôi ơứng lặng người
giữa không gian mênh mông. Giữa Trời và Ðất, khẩn cầu cho đứa con
Núi Rừng. Ðến bên chị, tôi trao Mình Thánh Chúa lần cuối cùng. Chị
nói lời cám ơn ( điều mà người thiểu số ít khi nói ) hai bàn tay giơ
lên như muốn nắm lấy bàn tay người mục tử. Ðoàn người khiêng chị đã
khuất dần sau những rặng núi.
Lạy Chúa, con
trở về nhưng Chúa đang cùng đi với họ. Xin cho cô gái giảm bớt đau
đớn và đưa cô về Thiên Ðàng. Amen.
Chiếu hôm nay, tôi làm phép cho 20 đôi hôn phối.
Nhiều người mẹ vẫn mang con sau lưng hay bồng con đang bú mớm lên làm
Phép Hôn Phối. Một em bé chạy lại nắm váy mẹ, người mẹ một tay
nắm lấy tay chồng đọc lời thề ước, một tay nắm lấy váy sợ nó tụt
ra.
Lạy
Chúa, ngày xưa Chúa là khách dự tiệc Ca-na, nhưng hôm nay trong nguyện
đường nhỏ bé này, Chúa là Chủ hôn ban muôn vàn ân phúc.
Làm phép Nhà Nguyện Konhring Rowel. Sau 1972,
làng Konhring, một nhánh trong bộ tộc Xê-đang di tản vào Buôn Ma
Thuột vùng Phước An. Sau 1975, họ phân đi nhiều nơi sinh sống: Quảng
Nhiêu, Buôn Hồ, Biển Hồ Pleiku, về làng cũ, và một phần tại Kontum.
Ðó là Konhring Rowel nằm trong vùng dân tộc Bahnar. Cha Gio-a-kim Nên đứng
ra tạo dựng một ngôi Nhà Nguyện nho nhỏ.
Như dân
Ít-ra-en, bên sông Ba-bi-lon, ngồi khóc nhớ Si-on. Bên con sông Dak Pla,
Konhring Rowel vẫn nhớ về quê cũ miền Xê-đang...
Dòng Ảnh Vảy Phép Lạ tròn 50 tuổi. Dòng
Ðịa Phận dành cho các chị em dân tộc thiểu số gồm Bahnar, Xê-đang,
Rơngao, Jrai. Mục đích dùng huấn luyện thanh thiếu niên dân tộc để
xây dựng những gia đình mới và đào tạo ơn gọi. Hiện nay có gần 70
chị em tuyên khấn từng năm một. Một Hồng Ân Chúa ban cho Giáo Phận
Kontum. Dòng Nữ Tu dân tộc thiểu số duy nhất tại Việt Nam.
Một người mẹ thôn làng Konhring chết tại
bệnh viện. Chở xác về, tôi đến đúng lúc đóng nắp quan tài. Nhiều
người nam nữ khóc kể thảm thiết. Giây liên kết gia đình bà con của
những con người dân tộc xem ra khắng khít lạ lùng. Hằng ngày sống có
nhau, chia sẻ cho nhau từng con cá, miếng thịt, hạt cơm. Mỗi tối họ
ngồi quanh bếp lửa lần lượt kể chuyện cho nhau nghe. Vui cười hay khóc
với nhau...
Lm. Si-môn PHAN VĂN BÌNH, Giáo Phận Kontum (
Còn tiếp )