Sơ lược tiểu sử
Ðức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn
Sơ lược tiểu sử Ðức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn
Ðức Hồng y Trịnh Văn Căn sinh ngày 19/03/1921 tại làng Bút Ðông, xã Trát Bút (nay là xã Châu Giang), huyện Duy Tiên, Hà Nam.
Người là con trai duy nhất của cụ Phêrô Trịnh Văn Ðiền và bà Anna Nguyễn Thị Thảo, đều là người xứ Bút Ðông. Từ năm 1922, thân phụ qua Lào kiếm việc làm hợp sở thích, hành nghề Y tá rồi qua Thái Lan ở Thị xã U-Bôn, mãi đến năm 1932 mới theo người bạn đồng hương trở về quê nhà. Sau đó, ông bà sinh thêm một gái là Miều. Khoảng 1952, làng Bút Ðông bị Pháp ném bom, cơ ngơi bị bình địa, cụ ông đã qua đời, cụ bà phải lên Hà Nội với cô con gái. Năm 1954, bà cụ phải theo con gái - Cô Miều - di chuyển vào Nam. Ngày 19-10-1974, Bà cố gặp lại Ðức cha Trịnh Văn Căn tại Rôma. Do sự sắp xếp của Ðức ông Hasseler, người Ðức, Giám đốc Caritas quốc tế.
Ði tu
Ngày 29-06-1929, chú Trịnh Văn Căn theo Thầy Phêrô Nguyễn Ðức Tín xuống Nam Ðịnh tá túc thụ giáo với linh mục xứ Nam Ðịnh Pédebidau (tên VN: Hoá).
Năm sau, 1930, Thầy Phêrô Tín chịu chức linh mục, về giúp xứ Kẻ Vôi, đưa cậu đệ tử theo, cho học trường Thường Tín. Năm 1931, đỗ bằng Sơ học Yếu lược Pháp-Việt. Từ đấy bắt đầu cuộc sống học tập tu trì tại trường Tập Hà Nội trong 3 năm.
Ðầu niên khoá 1934-1935, vào Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, đời linh mục Binet (Cố Ninh) làm giám đốc, trong 5 năm. Sau 5 năm giúp xứ Yên Mỹ, một xứ đạo nhỏ trải dài bên sông Hồng, năm 1941, Thầy được gọi về học Ðại Chủng viện Liễu Giai do các linh mục Xuân Bích điều hành dưới quyền Linh mục Giám đốc Palliard (Lý).
Ngày 19-12-1946, chiến tranh chống Pháp toàn quốc bùng nổ, Ðại Chủng viện đóng cửa, thầy tản cư về quê Bút Ðông rồi lên Ðại Ơn với Cha Phêrô Tín một thời gian.
Khoảng tháng 3-1947, thầy tìm đường lên Hà Nội trở về Ðại Chủng viện.
Bấy giờ Giám mục Hà Nội là Ðức cha Francois Chaize (Thịnh) gửi Trịnh Văn Căn và vài thầy khác vào lớp Thần học ở dòng Chúa Cứu Thế tại ấp Thái Hà, dưới quyền linh mục Giám đốc Gagnon (Nhân) học nhờ một năm. Ðầu năm học 1948, Ðại Chủng viện giáo phận đón nhận đông đảo các sinh viên trở về học tại số 40 phố Nhà Chung Hà Nội, Linh mục Vuillard (Cố Huy) làm Giám đốc.
Thời gian làm linh mục (1949-1963)
Ngày 03-12-1949, tại Nhà thờ Chính toà Hà Nội, Giám mục Chaize truyền chức linh mục cho Thầy Giuse Trịnh Văn Căn cùng với các Thầy Hoàng Quốc Chương, Nguyễn Tùng Cương, và Ðỗ Tông. Ðây là khoá phong chức đặc cách vì hoàn cảnh đặc biệt trong chiến tranh.
Tân Linh mục Trịnh Văn Căn được bổ nhiệm về xứ Hàm Long, làm phó cho Linh mục Chánh xứ Giuse Trịnh Như Khuê.
Ngày 15-08-1950, Linh mục Trịnh Như Khuê được Toà Thánh cử làm Giám mục Hà Nội thì Linh mục Trịnh Văn Căn cũng rời Hàm Long lên Toà Giám mục nhận chức thư ký của tân Giám mục. Qua năm sau, 1951, kiêm luôn Phó xứ Nhà thờ Chính toà (Chánh xứ là Linh mục Nguyễn Huy Mai), kiêm luôn phó Giám đốc Trường Trung học Dũng Lạc, Giám đốc là Linh mục Phêrô Nguyễn Huy Mai.
Tháng 08-1952, Linh mục Chánh xứ Nguyễn Huy Mai được bổ nhiệm Giám đốc Tiểu Chủng viện Piô XII, Linh mục Trịnh Văn Căn lên Chánh xứ kiêm Tổng quản miền Hà Nội. Với cương vị Chánh xứ, linh mục Trịnh Văn Căn thực hiện nhiều công trình. Có hai công trình lớn:
* Xây nhà nguyện trong khuôn viên bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt-Ðức) khánh thành ngày 01-05-1958.
* Trùng tu Nhà thờ Chính toà Hà Nội. Ðây là ngôi thánh đường cổ kính được xây cất từ năm 1884 (hoàn thành năm 1888) dưới thời Giám mục Puginier (Phước, 1835-1892).
Năm 1959, Linh mục Trịnh Văn Căn được cử làm Cha Chính giáo phận, vẫn kiêm Chánh xứ nhà thờ Chính tòa đồng thời kiêm luôn xứ Kẻ Sét.
Thời gian làm giám mục (1963-1979)
Ngày 02-06-1963, lễ Hiện Xuống, một sự kiện bất ngờ xảy ra tại nhà thờ Lớn, người ta chứng kiến lễ nghi tấn phong giám mục cho Linh mục Giuse Trịnh Văn Căn do Ðức Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê chủ lễ. Mọi người bỡ ngỡ vì không được thông báo gì cả. Hôm sau, 03-06-1963, Toà Tổng Giám mục Hà Nội ra thông cáo cho giáo phận, trong đó nêu lý do vội vàng truyền chức cho Ðức cha phó vì Ðức Tổng Giám mục bỗng nhiên đôi mắt bị loà, có thể bị mù. (Theo Giám Mục Nguyễn Văn Sang, trong "Kỷ niệm về Ðức Hồng y Giuse-Maria Trịnh Văn Căn", 1990, tr. 23-24).
Ngày 21-09-1974, Ðức Cha Trịnh Văn Căn rời Hà Nội sang Roma, thay mặt Ðức Tổng Giám mục, tham dự Hội đồng Giám mục thế giới, khai mạc ngày 27-09-1974. Ngài đã đọc bài tham luận trình bày vắn tắt 4 điểm về tình hình hoạt động của Giáo hội miền Bắc. Cũng trong chuyến phó hội Roma này, ngài gặp lại bà thân mẫu tại Roma sau 20 năm cách biệt.
Ngày 06-08-1978, Ðức Giáo hoàng Phaolô VI tạ thế, Ðức Hồng Y Trịnh Như Khuê sang Roma dự cuộc bầu tân Giáo Hoàng là Ðức Gioan Phaolô I. Rồi kế tiếp dự bầu cử Ðức Gioan Phaolô II.
Về Hà Nội, Ðức Hồng y Trịnh Như Khuê qua đời đột ngột ngày 27-11-1978. Tổng Giám mục phó Giuse Trịnh Văn Căn với quyền kế vị, trở thành Tổng Giám mục Hà Nội.
Thời gian làm hồng y (1979-1990)
Ngày 02-05-1979, tức là chỉ 6 tháng sau khi kế nhiệm, Toà Thánh nâng lên chức Hồng y Tổng Giám mục Giuse Trịnh Văn Căn. Trung tuần tháng 09-1979, Ðức cha lên đường sang Roma nhận chức Hồng y. Ngày 30-06-1979, tại thánh đường Phaolô VI ở Roma, Ðức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trao mũ đỏ cho tân Hồng y Trịnh Văn Căn, ngày 02-07-1979 lễ trao nhẫn Hồng Y. Ngày 08-07-1979, tân Hồng Y đến nhận Nhà thờ Maria in Via.
Sau khi trở về ngài khẩn trương tiếp xúc với chính quyền và Ban Tôn giáo trung ương để thu xếp công việc, được thủ tướng chính phủ chấp thuận về thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam. Ngày 03-01-1980. Ðức Hồng Y đưa đơn chính thức xin phép nhà nước cho các Giám mục Việt Nam được tập trung "Cấm phòng" ở Hà Nội, họp trù bị.
Từ 24-04 đến 01-05-1980, có 33 Giám mục trong cả nước về Hà Nội dự đại hội thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam. Ngài trở thành chủ tịch ủy ban thường vụ Hội đồng giám mục Việt Nam.
Trong 27 năm làm Giám mục, Ðức cha Trịnh Văn Căn truyền chức cho 9 Giám mục miền Bắc.
Tháng 06-1988: ngài kiêm Giám quản Tông toà Tổng Giáo phận Huế sau khi Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Ðiền qua đời.
Ðầu 1990, Giám quản Tông toà thêm 3 giáo phận Hưng Hoá, Thái Bình và Thanh Hoá.
20 giờ 30 ngày 18-5-1990, Ðức Hồng Y qua đời vì bệnh nhồi máu cơ tim và áp huyết đột ngột. Ðức Hồng Y hưởng thọ 69 tuổi. Ngài là vị Hồng Y thứ hai của Giáo hội Việt Nam trong 11 năm.
Lễ an táng cử hành long trọng sáng ngày 23-05-1990 do Ðức Hồng y Roger Etchegaray đặc sứ của Ðức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Có 20 Giám mục Việt Nam, 120 linh mục và khoảng 80.000 giáo dân dự lễ an táng của ngài.
Sự nghiệp
* Khởi xướng thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam có ý nghĩa lớn lao là kết hợp được các giám mục trong một tổ chức để phối hợp công cuộc mục vụ cho có kết quả, đồng thời đặt cơ sở cho những hoạt động hữu hiệu khác trong tương lai.
* Xúc tiến việc phong thánh cho các vị chân phúc tử đạo Việt Nam: mặc dù phải chịu nhiều áp lực, đau khổ, nhưng cuối cùng vấn đề phức tạp và tế nhị này đã được giải quyết với ý nghĩa thuần tuý tôn giáo. Ngày 19-6-1988, Ðức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chính thức tuyên phong Thánh cho 117 vị này.
* Dịch toàn bộ bộ kinh thánh ra tiếng Việt: Năm 1972, ngài khởi công dịch Tân ước. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng tới năm 1975 xuất bản được 5.000 cuốn. Năm 1978, Ðức cha tiếp tục chuẩn bị dịch Cựu Ước. Cuối năm 1988, bản dịch Cựu ước hoàn thành. Ðặc điểm của các cuốn Kinh Thánh này là việc sử dụng ngôn ngữ thông thường, lời văn bình dị dễ hiểu. Ðây là một trong những tác phẩm dịch Kinh Thánh ra tiếng Việt vào loại sớm ở Việt Nam.
* Ngài có một công trình lớn là sưu tầm, chỉnh lý, bổ sung, hệ thống hoá và phổ biến rộng rãi những bài văn cổ dâng hoa. Ngài là người đầu tiên bỏ nhiều công sức ghi nhạc, sửa lời những bài văn quý tản mát, mai một theo thời gian, xuất bản được 7 bộ dâng hoa và một số bài hát dâng hoa đi đôi với các bài văn. Ðây là tư liệu đáng trân trọng cho những ai nghiên cứu âm nhạc dân tộc và sự hội nhập văn hoá của Công giáo Việt Nam vào dòng âm nhạc dân tộc. Ngoài ra ngài còn dịch một số ài hát tiếng Latinh sang tiếng Việt.