Sơ lược tiểu sử
Ðức Cha Phêrô Maria Nguyễn Năng
Sơ lược tiểu sử Ðức Cha Phêrô Maria Nguyễn Năng.
Ðức Giám mục Phêrô Maria Nguyễn Năng sinh năm 1910 tại xứ Kẻ Gai, hạt Xã Ðoài, xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, thuộc Giáo phận Vinh, là là con thứ năm trong gia đình thuần nông. Cha của Giám mục Nguyễn Năng tên là Nguyễn Văn Ðang, qua đời năm 1957 tại Kẻ Gai thọ 89 tuổi và mẹ là bà Nguyễn Thị Vừa, chết năm 1964 cũng tại Kẻ Gai thọ 84 tuổi. Ngài có một người chị ruột tên là Nguyễn Thị Hợi đã chết và hai người em trai: Nguyễn Hảo chết tại quê và em trai thứ hai là Nguyễn Xuân Lập, sau đổi tên là Nguyễn Thiết Thạch.
Lúc còn nhỏ, cậu bé Nguyễn Năng đi học chữ Hán và chữ Quốc ngữ và luôn đã tỏ ra là một người nết na, đức hạnh. Năm 1921, linh mục Kiên (Nguyễn Ðồng Quê) quản xứ Lưu Mỹ, hạt Bảo Nham nhận làm nghĩa tử được hai năm thì linh mục Kiên qua đời. Linh mục Giuse Dy từng quen biết và phụ giúp linh mục Kiên nhận cậu bé Nguyễn Năng và cho đi học tại Tiểu Chủng viện Xã Ðoài vào năm 1924. Suốt thời gian học tại Chủng viện, cậu chủng sinh Nguyễn Năng được Giám đốc Chủng viện tên Văn (Père Le Gourierec), và các linh mục giáo sư chủng viện như linh mục Gioan Baotixita Trần Hữu Ðức, linh mục Phaolô Nguyễn Ðình Nhiên, các thầy giáo và anh em đồng hương yêu mến phục vì đức độ nết na và chăm chỉ học hành.
Tháng 5 năm 1931, mãn Tiểu Chủng viện, Ðức Giám mục Eloy Bắc sai ngài về giúp Sở Quản lý của Cố Laygue Kính đặc trách nhà Lẫm, coi sóc vấn đề lúa má, tài sản Nhà chung Xã Ðoài.
Tháng 8 năm 1935 hết hạn thực tập, thầy Nguyễn Năng được gọi về Ðại chủng viện Xã Ðoài, ngài lần lượt lãnh nhận chức cắt tóc, các chức nhỏ, chức phó tế và cuối cùng được thụ phong linh mục do Ðức Giám mục Eloy Bắc đặt tay truyền chức tại nhà thờ chính tòa Xã Ðoài vào ngày 23 tháng 12 năm 1941.
Thời gian làm Linh mục
Sau một tháng nghỉ ngơi sau khi thụ phong linh mục, ngài được sai phụ trách Giáo xứ Voi (Hưu Lễ) hạt Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Nhận giáo xứ đầu tiên trong đời linh mục, vì nhận thấy nhiều giáo dân đói nghèo, ngài đi xin khắp nơi lương thực đem về cứu đói đồng bào, không phân biệt lương giáo. Vì Lạc Sơn là giáo họ thuộc Giáo xứ Voi, giáo dân tuy đông mà chưa có nhà thờ nên ngài tìm cách và kiến tạo được một nhà thờ cho giáo họ này.
Vì phải lăn lộn vất vả phục vụ, ngài trở nên già yếu, màu da hoá ra xám đen, đều làm mọi người thương xót. Vì thế, năm 1944, ngài được đổi đi phụ trách Giáo xứ Dũ Yên cũng trong hạt Kỳ Anh. Khi biết nhà xứ sụp nát, ngài bỏ ra hai năm, kiếm tìm phương tiện, vận động tiền của, nhân công, để làm mới nhà xứ Dũ Yên.
Năm 1946 ngài làm linh mục Quản hạt Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Ðến nhiệm sở tại đây không cần lo về lương thực, vật chất, tuy thế phải lo giải quyết êm đẹp các công việc với chính quyền. Năm 1952, khắp nơi trong Giáo phận, Công giáo bị phong trào Việt Minh ghét bỏ, các linh mục bị bách hại tù đày. Linh mục Cát, nguyên Quản lý Giáo phận bị bắt, Giám mục Giám quản đành đem ngài về thay thế và ngài xoay xở đóng tô nộp thuế cho chính quyền...
Thời gian làm Giám mục
Ðang lúc Giáo phận chịu nhiều khó khăn thì Ðức Giám mục chính tòa Gioan Baotixita Trần Hữu Ðức qua đời vào ngày 5 tháng 1 năm 1971. Cùng ngày hôm đó, Tòa Thánh loan tin bổ nhiệm linh mục Phêrô Maria Nguyễn Năng làm Giám mục chính tòa Kế vị. Tân Giám mục sau đó được tấn phong tại Hà Nội ngày 12 tháng 3 năm 1971. Ðức Giám mục Chủ phong là Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê, hai vị phụ phong là Ðức giám mục Phêrô Khuất Văn Tạo, Giám mục chính tòa Giáo phận Hải Phòng và Ðức Tổng giám mục Phó Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Maria Trịnh Văn Căn. Cũng như vị tiền nhiệm, Ðức tân Giám mụ cai quản giáo phận Vinh trong hoàn cảnh hoang tàn.
Một tuần sau lễ tấn phong, ngày 19 tháng 3 năm 1971, phát ngôn viên văn phòng báo chí Tòa Thánh xác nhận về lễ tấn phong cho Ðức tân giám mục Phêrô Maria Nguyễn Năng theo sự cho phép của Tòa Thánh. Trước đó, thông tin bổ nhiệm Ðức tân giám mục không được công bố trong bản tin thường ngày của Vatican.
Năm 1976 với sự yêu cầu của các linh mục và giáo dân và được sự cho phép của nhà nước, Ðức cha Phêrô Maria Nguyễn Năng đồng ý với chương trình tái thiết nhà thờ Chính Toà Xã Ðoài. Với sự cộng tác của linh mục Quản lý Phaolô Maria Cao Ðình Thuyên, công trình đã được khởi đầu năm 1977. Công việc đã hoàn thành và Thánh đường được khánh thành và cung hiến vào ngày 3 tháng 3 năm 1979. Một ngày sau khi khánh thành và cung hiến nhà thờ chính tòa, vào ngày 4 tháng 3 năm 1979, là lễ tấn phong cho Ðức tân Giám mục Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp, tân Giám mục Giáo phận Vinh.
Thời gian ngài cai quản giáo phận gắn liền với thời kỳ khó khăn nhất của Giáo phận Vinh, với phong trao di cư, sơ tán, hồi cư, bom đạn tan hoang vật chất và tinh thần. Ngài qua đời ngày 6 tháng 7 năm 1978, thọ 68 tuổi, làm giám mục 7 năm. Ðức Giám mục Phêrô Maria Nguyễn Năng được ghi nhận là người dịu hiền, yêu thương và khiêm tốn. Sự qua đời của ngài được nhận định xuất phát từ nguyên nhân là ngài phải lo lắng quá nhiều về việc quản lý giáo phận Vinh trong thời kỳ khó khăn nhất của giáo phận, cũng như vào thời làm quản lý giáo phận và sau đó là làm giám mục giáo phận.
Vài nét về giáo phận Vinh trong thời gian gặp nhiều khó khăn
Ngày 31/7/1950, Tòa Thánh đã bổ nhiệm cha Gioan Baotixita Trần Hữu Ðức làm Giám quản Tông Tòa Giáo phận, và ngày 19/8/1951, bổ nhiệm ngài làm Giám mục Ðại diện Tông tòa. Vị giám mục người Việt tiên khởi của Giáo phận Vinh phải đối mặt với những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua: cấm đoán, bắt bớ, tù đày... Trong bối cảnh đó nhiều người Công giáo Vinh, kể cả linh mục và tu sĩ, đã lên đường di cư vào Nam. Hội Dòng Phanxicô cũng đã lần lượt rời khỏi Vinh.
Nhìn chung, so sánh với các giáo phận khác ở miền Bắc, số người Công giáo Vinh di cư chiếm tỷ lệ không nhiều. Tuy vậy, đó cũng là một cuộc "chảy máu nội lực". Sau di cư là những căng thẳng do cải cách ruộng đất của chính quyền miền Bắc. Rồi trước thực tế không thể nào khác, người Công giáo phải chấp nhận sống trong tình thế thường được gọi là "Giáo Hội thầm lặng". Một "Giáo Hội thầm lặng" nhưng luôn luôn sống dưới sự dẫn dắt của Ðức cha Gioan Baotixita Trần Hữu Ðức, vị giám mục mà theo ông Nguyễn Thế Thoại - một nhân sỹ Công giáo Huế đã sống gần ngài - viết: "Ðức tính của ngài hiền từ, khiêm tốn, nhã nhặn... và tất cả những ai tiếp xúc với ngài đều không thể quên được dung mạo, cử chỉ, ngôn ngữ của ngài phát ra những đức tính siêu phàm của Phúc Âm: thật thà mà khôn ngoan, ôn tồn mà cứng rắn, dịu dàng mà can đảm, hiền hậu mà kiên quyết, luôn bình tĩnh trước phong ba và thản nhiên trong đau khổ...".
Năm 1960, khi hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập, Giáo phận Vinh trở thành giáo phận Chính tòa. Ngày 15/3/1963, cha Phaolô Nguyễn Ðình Nhiên được tấn phong giám mục phó và vẫn ở Ðại Chủng viện với nhiệm vụ là giám đốc. Trong thời kỳ chiến tranh, khu vực Nhà chung Xã Ðoài bị trúng bom, Ðức cha Nhiên bị trọng thương. Ngày 24/3/1969 Ðức cha Nhiên qua đời. Ðức cha Trần Hữu Ðức tiếp tục lèo lái con thuyền Giáo phận cho tới ngày được Chúa gọi về, ngày 8/1/1971.
Ngày 15/3/1971, Ðức cha Phêrô Nguyễn Năng được tấn phong Giám mục. Ngài lãnh đạo giáo phận trong thời gian 8 năm. Trước những khó khăn chồng chất, chiến tranh, đổ nát điêu tàn, sinh hoạt tôn giáo bị nhiều cấm đoán... Ðức cha Phêrô chưa thể làm được gì nhiều. Ngài vừa khởi công xây dựng lại nhà thờ Chính toà thì đã phải ra đi đột ngột vào ngày 6/7/1978, hưởng thọ 68 tuổi và cha quản lý Phaolô Cao Ðình Thuyên tiếp tục công việc này.
Dù giữa muôn vàn khó khăn gian khổ, nhưng Giáo phận Vinh vẫn luôn phát triển nhờ sự hiện diện của các giám mục kế tiếp nhau và sự cộng tác tích cực của các linh mục. Tiểu Chủng viện Xã Ðoài vẫn liên tục hoạt động từ năm 1948-1968. Ðại Chủng viện Xã Ðoài vẫn tiếp tục âm thầm đào tạo các chủng sinh từ tháng 2/1952 cho tới năm 1981. Từ năm 1954-1975, Giáo phận Vinh có thêm hơn 50 linh mục và luôn là giáo phận có đội ngũ linh mục đông đảo nhất ở miền Bắc.