Ðức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Ðiền
Người Tiểu Ðệ Khó Nghèo
Ðức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Ðiền Người Tiểu Ðệ Khó Nghèo. (1921-1988)
Thi Chương
LTS. Cha Charles De Foucauld (Pháp, 1858-1916) được phong Chân Phước 13-11-2005. Nhiều người Việt Nam đã theo Dòng của Cha. Trong đó có Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền. Báo Giáo Xứ Việt Nam dành số đầu năm 2006 về Chân Phước thời danh này. Ðức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Ðiền là người Việt Nam đầu tiên theo tu Dòng Tiểu Ðệ (1955) và cũng là người đầu tiên trong Dòng được chọn làm giám mục (1960). Khẩu hiệu Giám Mục Ngài chọn là ''Mọi sự cho mọi người'' (Omnia omnibus). Trong khi lý tưởng của Dòng Linh mục Charles de Foucault là sống và phục vụ người nghèo theo tinh thần: ''Hiện diện với Chúa và hiện diện với nhân loại''. Một vinh dự cho Việt Nam và của Dòng Tiểu Ðệ.
Cả đời và nhất là sau 1975, Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền đã làm tròn nhiệm vụ người chủ chăn, như lời phát biểu của ngài trong thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới ở Roma (1971) và còn ghi lại trong bức tâm thư gửi cho linh mục tu sỹ và giáo dân Huế: Ðã có những giám mục chịu chết vì bênh vực quyền lợi Hội Thánh. Nhưng ngày nay có giám mục nào dám chịu chết để bênh vực quyền lợi con người không? (Thư mục vụ 19-10-1985). Hơn nữa, cũng trong thư này, Ngài còn xác định quyết tâm: ''Như các Tông Ðồ ngày xưa và các Thánh Tử Ðạo trải qua các đời, tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn luật pháp của con người.'' Ðáng thán phục con người quả cảm cao thượng, nên gương sáng cho thế hệ hôm nay.
Trên Ðường Theo Chúa
Phần đầu cuộc đời của Ðức Cha Nguyễn Kim Ðiền theo thời gian từ đi tu tới làm linh mục, đuợc ghi nhận là người đạo đức, khiêm tốn, xuất sắc. Phần sau, từ khi chọn tu Dòng Tiểu Ðệ đến làm giám mục, Ðức Cha càng nổi bật hơn nữa, một người rất mực chân tu và cương nghị trong chức vụ tông đồ. Hai điểm nổi bật trong đời tu của ngài là say mê Thánh Thể và sống khó nghèo. Chầu Thánh Thể là cử chỉ thân tình với Chúa, là lẽ sống, lẽ sống, sức mạnh và là lý tưởng cuộc sống. Con đường chứng nhân Tin Mừng giữa người nghèo, ước nguyện trở thành anh em của mọi người trong cái tầm thường bình dị của cuộc sống để chia sẻ thông cảm với những người bị bỏ quên.
Ðức Cha Philipphê Nguyễn Kim Ðiền sinh ngày 21-3-1921, tại Long Ðức, Trà Vinh. Cụ thân sinh là viên chức trong hội đồng giáo xứ. Năm 1928, gia đình chuyển về sinh sống ở Gia Ðịnh. Năm 1985, tại Gia Ðịnh, bà cố ngài qua đời, nhưng Ðức Cha không được về dự đám táng. Năm 1930, chú Philipphê Ðiền nhập tu chủng viện Sàigòn. Thụ phong linh mục ngày 21-9-1947. Sau đó, được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Sàigòn. Ðến năm 1949, Cha làm giám đốc chủng viện.
Năm 1955, với hoài bão chia sẻ với người nghèo, Cha Ðiền xin gia nhập Dòng Tiểu Ðệ của Cha Charles de Foucault. Chủng viện Sàigòn hết sức bỡ ngỡ và kính phục về quyết định tu dòng của cha giám đốc. Cha được gởi sang làm tập sinh bên sa mạc Sahara, bên Phi Châu. Nơi đây, Cha Charles de Foucault sống tu rất khổ hạnh và qua đời. Sau thời gian tu luyện ở El-Abiodh (Sahara) và Saint Maximin, ngày 12-11-1956, Cha Ðiền chính thức nhận ''Áo Dòng Tiểu Ðệ Phúc Âm''. Trong nhật ký, Cha ghi: Tôi tạ lỗi cùng hết thảy, vì đã đặt mọi người trước sự đã rồi, nhận áo dòng với Paul và đồng tuyên khấn tại hang toại đạo thánh nữ Domitille, trước mặt Ðức Cha de Provenchère, Cha Voillaume, Chị Madeleine, Chị Jeanne và 10 Chị Tiểu Muội khác. Thú thật nghi lễ này và niềm phúc lạc kia đã vượt ngoài sự ước đoán của tôi. Tôi chỉ biết vâng theo.
Năm 1957 Cha Ðiền trở về Việt Nam, sống ẩn dật chung với anh em, lúc ở Bàn Cờ, đạp xe ba bánh, quanh khu chợ Cầu Muối, hay làm khu khuân vác ở bến tàu. Có thời gian cha lên Kata giúp đồng bào thượng, ở Di Linh. Thời gian ở Sàigòn, tiếng thơm và lòng đạo đức của linh mục khó nghèo này, được nhiều người biết, nên cha được mời giảng phòng cho nhiều dòng tu, chủng viện, ngay cho cả tuần tĩnh tâm của các linh mục Sàigòn.
Từ 1959-1960: về Bình Thủy, Cần Thơ, cha dựng một căn nhà lá, trách nhiệm hướng dẫn anh em mới nhập dòng. Nhật ký tháng 2-1957, ngài viết về những ngày đầu ở Cần Thơ: Hôm ấy là ngày 7-2, một xe nhỏ đưa bốn anh em Minh, Tân, Tạo và tôi từ Sàigòn về Cần Thơ và bỏ chúng tôi trước căn nhà trống, không vách cửa, cất vội trên thửa đất nhà chung. Với vài mảnh ván mang từ Bảo Lộc về, chúng tôi dựng tạm một bàn thờ để dâng thánh lễ. Qua ngày sau, chúng tôi thuê đất trồng trọt, sửa soạn lại nhà cửa. Sau một tuần nhà huynh đệ được hoàn thành. Từ đây, người Tiểu Ðệ Phúc Âm Nguyễn Kim Ðiền rao giảng bằng đời sống giữa đồng bào nghèo với nghề đạp xích lô và xe ba bánh.
Anh em Tiểu Ðệ đang vui trong nếp sống đơn sơ, khó nghèo. Hôm ấy, anh em đang kéo lưới bắt cá ven sông, Cha Ðiền nhận được điện thư chọn ngài làm Giám Mục. Ðó là ngày 24-11-1960, đánh dấu Giáo Hội Việt Nam đã trưởng thành, Tòa Thánh thiết lập 3 giáo tỉnh tại Việt Nam: Hànội, Huế và Sàigòn. Ðức Giáo Hoàng Gioan 23, đã chọn và đặt cử Cha Philipphê Ðiền làm Giám Mục Cần Thơ, thay Ðức Cha Nguyễn Văn Bình lên làm Tổng Giám Mục Sàigòn. Ngày 22-1-1961, Ðức Cha thụ phong giám mục tại nhà thờ chính tòa Sàigòn. Và nhận chức cai quản giáo phận Cần Thơ, ngày 3-4-1961. Bút ký ngày 8-12-1960, việc được chọn làm giám mục, ngài cho là tin buồn, và viết: ''Hôm nay tôi báo cho anh chị em biết một tin buồn: tôi được chọn làm giám mục Cần Thơ thế Ðức Cha Bình trở thành Tổng Giám Mục Sàigòn, vì Hội Ðồng Giám Mục được thiết lập tại Việt Nam... Một Tiểu Ðệ được chọn làm giám mục. Chân thành mà nói tôi khổ tâm và không thể hiểu nổi. Ðại diện giáo quyền nói rằng tôi không thể khước từ. Tôi xin chấp nhận sứ mệnh này như lời mời đón nhận Thánh Giá... Anh em thân mến, hãy cầu nguyện hơn bao giờ hết cho tôi lúc này. Mong anh chị em hiểu rằng tôi mãi mãi là một tiểu đệ của anh chị em. Lại thêm một lần đơn độc.''
Trách Nhiệm, Bổn Phận Và Thử Thách
Từ 11-1963, sau cuộc đảo chính, Ðức Tổng Giám Mục Martino Ngô Ðình Thục phải sống lưu vong. Ngày 30-9-1964 Tòa thánh đặt cử Ðức Cha Nguyễn Kim Ðiền làm giám quản giáo phận Huế. Và ngày 11-3-1968, Ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Huế. Tình hình chiến tranh ngày càng ác liệt. Huế trải qua ba lần khói lửa điêu tàn, Tết Mậu Thân (1968) và mùa hè đỏ lửa (1972) và biến cố 1975. Ðức Cha luôn tại chỗ, và đứng ra tổ chức cứu trợ đồng bào không phân biệt tôn giáo.
Sau 1975, cộng sản đã gán ghép và coi ''người công giáo là công dân hạng hai''. Ðặc biệt về mặt tư tưởng, trước chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền, Ðức Tổng Giám Mục đã lên tiếng bênh vực:
- Quyền tự do tín ngưỡng: trong hai thư 19-4-1977, và 24-4-1977, ghi lại những lời tuyên bố trong hai buổi tham khảo ý kiến và di chúc gởi tổng giáo phận Huế, 19-10-1985.
- Quyền tự do đào tạo linh mục. Các thư ngày 17-5-1979, và ngày 15-12-1979.
- Quyền tự do đi lại. Thư 10-1981 (hành hương La Vang), thư ngày 25-3-1988 (đi Roma ad limina).
- Quyền tự do tư tưởng và thông tin. Thư ngày 3-7-1986 về buổi làm việc với công an nhà nước về vụ bề trên Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Trương Thị Lý.
- Sự nguy cơ của Giáo Hội. Thư ngày 19-10-1983 gửi Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, và thư gửi cho tổng Giáo Phận Huế
- Nhân quyền, quyền được hiến pháp nhà nước bảo vệ. Thư gửi chủ tịch quốc hội, ngày 11-4-1986.
Những gì xảy ra sau 1975?
1. Trung tâm hành hương La Vang
Trung tâm hành hương La Vang là cái gai của chính quyền. Từ 8-1981, công an bắt đầu cấm hành hương La Vang. Tháng Tư-1981, Ðức Cha viết thư cho giáo dân, cổ võ lòng sùng kính Ðức Mẹ và tổ chức hành hương La Vang vào tháng 5 và tháng 8. Sau các cuộc hành hương này, Ðức Cha bị công an hạch tội 4 lần và gán ghép tội: không xin phép, và chống lại, không thi hành quyết nghị tôn giáo 297 của nhà nước. Sau đó, được biết tháng 10-1981, nhà nước không cho phép Ðức Cha qua Roma tham dự họp đại hội do Bộ Truyền Giáo tổ chức (13-10-1981), vì lý do ''không tích cực với cách mạng''.
Từ đây, công an tìm cách ngăn chận không cho ai đến kính viếng hay cầu kinh. Ðiển hình ba trường hợp sau:
- Ngày 12 và 14-8-1982, công an chận giáo dân họ Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp do một cha Dòng Chúa Cứu Thế hướng dẫn.
- Ngày 20-11-1982, mười chủng sinh đi hành hương La Vang, bị bắt và kết án tù ba năm.
- Ngày 13-8-1987, Cha Nguyễn Văn Lý và Cha Nguyễn Văn Hoàng dẫn một số giáo dân từ Ðốc Sơ, Huế ra hành hương La Vang bị công an chận lại bắt trở về.
2. Cộng sản âm mưu lập ''Giáo Hội Tự Trị''.
Từ 10 đến 14-11-1984, Ðại hội ''Các người Công Giáo yêu nước'' đã họp tại Hà Nội, với 299 đại biểu toàn quốc. Hà Nội có 25 người, Miền Nam có 38, Huế chỉ có Linh mục Nguyễn Văn Bính. Bản điều lệ được toàn thể chấp nhận. Một ủy ban chỉ đạo gồm 75 người. Ðức Cha đã ngăn cấm Cha Bính. Nhưng cha này cứ đi. Nên Ðức Cha đã treo chén cha Bính.
Các Giám Mục Việt Nam rất dè dặt về việc thành lập ủy ban này, ''nhưng phần đông không dám ra mặt'' (Actualité Religieuse dans le monde, N. 21, Mars 1985). Ðức Tổng Giám Mục Philipphê Ðiền nghĩ rằng trong những vấn đề quan trọng, Giáo Hội phải chối bỏ tất cả hợp tác có nguy hiểm cho Giáo Hội trong tương lai. Nên ngài công khai lên tiếng chống đối việc thành lập ủy ban này. Ðức Cha đã viết lá thư phản đối vụ này, gừi Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, chủ tịch Ủy ban chuẩn bị đại hội này (19-10-1983).
3. Chủng viện Hoan Thiện bị đóng cửa vào tháng 12-1979.
Từ 1977, nhiều quyết định của nhà nước gây khó khăn sự sống còn của các chủng viện: hạn chế đi lại, áp đặt hộ khẩu, công tác thủy lợi, chứng minh nhân dân ''công dân tốt''. Chương trình và giáo sư do nhà nước kiểm soát... Ủy ban nhân dân Bình Trị Thiên ban hành hai sắc lệnh: số 284/Qd/NC (ngày 16-3-1979) và số 2342/QD/UB (ngày 13-12-1979): chủng viện Hoan Thiện bị hoán đổi thành trường của nhà nước. Mặc dầu bị phản đối, ngày 19-12-1979 chủng viện bị tịch thu.
4. Trường hợp hai nữ tu Trương Thị Lý và Trương Thị Nông.
Trên đường về Sàigòn, ngày 17-10-1985, công an Bình trị Thiên đã lục soát túi và bắt một số thư trong túi của nữ tu Trương Thị Lý, bề trên dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế và nữ tu Trương Thị Nông, cùng đi. Ðồng thời công an đột nhập trụ sở Dòng ở 55 Trần Phú và Ðoàn Hữu Trưng, tịch thu sách vở và tư trang. Hai chị bị kết án tội ''gián điệp''. Chị Lý bị giam 8 tháng, Chị Nông 10 tháng. Ðức Cha Ðiền lên tiếng xác nhận hai nữ tu này có trách nhiệm chuyển thư của ngài. Những thư này hoàn toàn thông tin và thuần túy tôn giáo. Hai nữ tu này chỉ là người thừa lệnh. Ðức Cha cho rằng đây là một bắt bớ tôn giáo, vi phạm nhân quyền và tôi rất làm vinh dự nhận lãnh tất cả biện pháp xữ lý vì tôn giáo vì nhân quyền (Thư số 7/86 TTGMH, 3-7-1986).
Chứng Nhân Anh Hùng Của Chúa Kitô (2Tm 2,3)
Trước thái độ cứng rắn này, công an đã làm khó dễ, dọa nạt, tìm cách hạn chế sinh hoạt mục vụ Giám mục của Ngài. Ngày 11-4-1984, Ðức Cha viết thư cho Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Quốc Hội cho biết ngài bị công an Bình Trị Thiên gọi đi làm việc trong 120 ngày, với sở công an từ 5-4-1988 đến 15-10-1984. Nội dung những ngày làm việc về ba cáo trạng: chống đối quyền hành nhà nước, có thái độ phản động, và tỏ ra lòng tự kiêu quá đáng. Ðức Cha bị quản thúc tại nhà, không có quyền đi lại trong giáo phận. Trong thư gửi giáo phận, 19-10-1985, Ðức Cha viết: Tuy nhiên, nếu luật pháp đi ngược với ý Trời, chà đạp các quyền của con người, trong đó quyền tối thượng, thì như trong biên bản làm với công an Bình Trị Thiên ngày 15-10-1984, tôi đã khẳng định: ''Như các thánh Tông Ðồ ngày xưa và các thánh Tử Ðạo trải qua các đời, tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn luật pháp con người.'' Dĩ nhiên hậu quả sẽ là tù tội và chết chóc... Giờ đây, chỉ còn một việc là tôi tha thiết xin anh chị em cám ơn Chúa với tôi, đồng thời tăng thêm và tiếp tục cầu cho tôi được tuyệt đối trung thành với Chúa và trung thành cho đến hơi thở cuối cùng...
Ngày 3-7-1966, ngài viết thơ cho Ủy Ban Nhân Dân thành phố Huế về lý do thông tin cho Tòa Thánh và Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam: ''Là con cái của Giáo Hội và với cương vị Tổng Giám Mục, tôi có quyền và bổn phận thông báo tin tức về sinh hoạt địa phận, tin tức anh em... cho Tòa Thánh. Ðây là quyền làm người của tôi và cũng là thi hành bổn phận giám mục của tôi. Nếu nhà nước cho việc này là phạm luật pháp nhà nước, thì tôi cho rằng tôi bị bách hại vì lý do tôn giáo và là nạn nhân của việc không tôn trọng nhân quyền."
Thư thứ ba gửi cho giáo phận, viết 17-10-1984, phổ biến 21-10-1984, sau 120 ngày ''làm việc'' Ðức Cha viết: "Mặc dầu tôi không xứng đáng, nhưng Thần Khí khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi đi hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa (Cv 20, 23-24)."
Những Ngày Cuối Cùng
Ðức Cha bị quản thúc tại tòa giám mục vì không chịu nhượng bộ đòi hỏi của chính quyền. Dĩ nhiên không được phục hồi quyền công dân. Tháng 5-1987, Ðức Cha vẫn không được ra khỏi thành phố Huế. Lá thư cuối cùng ngày 25-3-1988, Ngài viết cho tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, về những khó khăn mục vụ: "Với tư cách là Tổng Giám Mục Huế, tôi có phận sự thăm viếng các Giám Mục thuộc giáo khu của tôi. Tôi có trách nhiệm vùng đất từ Lăng Cô đến Ðồng Hới. Thế mà từ 1984, sau khi bị làm việc 120 ngày, tôi không được ra khỏi chu vi thành phố, để ban phép Thêm Sức và để thăm viếng con chiên theo bổn phận chính yếu của một Giám Mục. Từ tháng 5-1987, tôi tưởng được hồi phục mọi quyền công dân. Ngờ đâu trong thực tế, tôi vẫn không được ra khỏi thành phố Huế để hoàn tất bổn phận một Giám Mục. Làm sao tôi có thể thuyết phục được những người Công giáo dưới quyền tôi về chính sách tự do của chính phủ? Thư gửi đi. Không có trả lời. Và sau đó Ðức Cha được Chúa gọi về trời thưởng công xứng đáng.
Tháng 7-1988, Ðức Tổng Giám Mục được phép vào Sàigòn chữa bệnh, nhưng Ngài cảm thấy e ngại lo lắng, nên ngài xin trú tại tòa giám mục Sàigòn, có bác sỹ riêng. Trước khi qua đời một tuần, vì tình trạng sức khỏe yếu kém và sa xút trầm trọng, Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền được đưa vào bệnh viện Nguyễn Trãi (4-6-1988), rồi chuyển qua Thống Nhất (7-6-1988) và sau cùng vào Chợ Rẫy.
Ðức Cha qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy, thứ Tư 8-8-988, lúc 12g20, vì bệnh tim. Trước đây, Ðức Cha có bệnh thận, máu cao và đau nhức cột sống. Ðức Cha qua đời 10 ngày trước khi đại lễ phong Thánh cho 117 Anh Hùng Tử Ðạo Việt Nam, bên Roma (19-6-1988). Ðức Cha hưởng thọ 67 tuổi, với 41 năm linh mục và 25 năm giám mục, trong đó 22 năm phục vụ giáo phận Huế. Ðược biết ngày 6-6-1988, Bộ Truyền Giáo nhận được thư của Ðức Cha Ðiền xin Tòa Thánh giúp nếu ngài được phép sang Âu châu chữa bệnh. Bộ Truyền Giáo trả lời thuận. Chưa kịp, thì Ðức Cha qua đời (8-6-1988). Trong thời gian ở bệnh viện và bên giường lúc qua đời, người em của Ðức Cha là nữ tu dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán là Nguyễn Thị Thủy (Dì Sáu) luôn có mặt.
Thánh Lễ An Táng
Linh cữu của Ðức Tổng Giám Mục chuyển từ nhà thương Chợ Rẫy về quàn tại tòa tổng giám mục Sàigòn. Ngay tại đây có thánh lễ đồng tế, vào 5 giờ chiều. Sáng thứ bảy, 11-6-1988, di quan ngài được rước ra nhà thờ chính tòa Sàigòn để làm lễ. Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình chủ lễ, cùng với 8 Giám Mục, một Ðan Viện, và 300 linh mục đồng tế. Sau lễ, xe tang chở linh cữu về Huế. Trên đường về, nghỉ tại đèo Cù Mông. Về đến Lăng Cô, lúc 4 giờ chiều 12-6-1988. Hai bên đường giáo dân ứng trực đọc kinh kính viếng. Tới Ðá Bạc có đoàn xe đạp hộ tống và đến Phú Bài có đoàn xe honda tiếp nối. Lúc 18g, xe tang tới An Cựu, thắp đuốc và đoàn rước vĩ đãi về tòa tổng giám mục. Các linh mục tu sỹ làm giờ canh thức. Sáng 13-6-1988, giáo phận phục tang. Các giáo xứ lần lượt đến kính viếng. Chiều, 5g, di quan đến nhà thờ chính tòa Huế. Từ đây, mỗi giờ có một thánh lễ cho đến 24 giờ ngày 14-6-1988. Giáo dân khắp nơi kéo về nhà thờ Phú Cam, để dự lễ an táng vào 15-6-1988. Thánh lễ bắt đầu 9 giờ. Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình chủ lễ, cùng đồng tế có 8 Ðức Cha và hơn 100 linh mục. Nhà thờ dẹp hết ghế để đại diện các xứ có chỗ vào trong nhà thờ. Còn dân chúng đứng ngoài. Thánh lễ, điếu văn... chấm dứt vào lúc 11 giờ. Sau đó, quan tài rước qua bên phải phía trong nhà thờ để chôn cất. Nhưng vì giáo dân quá sùng bái, mãi 3 giờ chiều mới hạ huyệt. Tang lễ thật nghiêm trang và cảm động, chưa bao giờ thấy ở Huế.
Viết lại đôi nét về Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền, trong những ngày chào mừng Chân Phước Charles de Foucault. Nhận thấy nơi Ðức Cha, người con của Chân Phước, có nhiều điểm giống nhau: Khó nghèo và luôn tranh đấu cho công bằng xã hội. Với niềm hy vọng và nguyện xin ''Kẻ gieo trong đau thương sẽ gặt hái trong vui mừng''. Bởi vì Ðức Cha đã làm tròn sứ mệnh được trao phó: ''Anh em sẽ nhận sức mạnh Thần Khí của Người ngự xuống trên anh em. Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giudê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất'' (Cv 1, 7-8).
Theo Linh mục Paul Cheval, bạn dòng và cùng khấn một lượt với Ngài đã chứng minh: Ðức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Ðiền đã hiến dâng cả mạng sống như là chủ chăn giám mục vẫn luôn là Tiểu Ðệ, để phục vụ cho chân lý và công bình trong những hoàn cảnh khó khăn của quê hương Việt Nam. Sau 1975, dư luận trong và ngoài nước, ai cũng biết đến tinh thần hy sinh bất khuất của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền. Như ngày 19-6-1985, phân khoa đại học Tuebingen, bên Ðức, đã trao tặng Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền bằng tiến sỹ danh dự, vì Ngài đã chứng minh cuộc sống của mình qua nhiều thử thách gian lao trong sự nghiệp phụng vụ quê hương và Giáo Hội. Ðức Cha bị phao vu kết án là gián điệp cho ngoại bang. Ðức Cha Ðiền vắng mặt trong buổi nhận bằng, nên Ðức Cha phụ tá Franz Josef Kuehnle, giáo phận Stutgart Rottenburg, đại diện nhận thay (Báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận Hội Công Giáo Việt Nam tại Ðức Số 3, 1-1986, tr.3).
- - - - - - - - - -
Tài liệu viết bài
- Nguyệt san Dân Chúa Âu Châu, số 54. 11-1986, ttr. 21-23. Thư của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền. Viết năm 1985 và 1986.
- Nguyệt san Dân Chúa Âu Châu, số 75. 10-1988, tr. 15. Lễ an táng Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền
- Linh Mục Hồng Phúc. Kính nhớ Ðức Cha Nguyễn Kim Ðiền. Dân Chúa Âu Châu, số 76. 11-1988, ttr. 25-27.
- Linh mục Paul Ðào. Chứng nhân tử đạo: Tranh đấu cho tự do tôn giáo. Dân Chúa Âu Châu. Số 231, 1-2002. ttr. 28-31.
- Eglise d'Asie, số 49, 15-6-1988.
Thi Chương
(Nguồn Giáo Xứ Việt Nam Paris)