Sơ lược tiểu sử

Ðức Cha Ða Minh Hoàng Văn Ðoàn, OP.

 

Sơ lược tiểu sử Ðức Cha Ða Minh Hoàng Văn Ðoàn, OP.

Ðức cha Ðaminh Hoàng Văn Ðoàn sinh ngày 05-11-1912 tại Thôn Ðông, làng Trà Lũ Ðoài thuộc giáo xứ Phú Nhai, giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Ðịnh.

Thân phụ là cụ Hoàng Văn Nhu, một nhà Nho uyên thâm, sinh được 12 người con (7 trai, 5 gái) mà Hoàng Văn Ðoàn là người con thứ hai trong gia đình được cha mẹ đặt tên là Thứ.

Cậu Thứ hiền lành đạo đức, thông minh chăm học và sớm có chí hướng đi tu làm linh mục, được Cha già Ða Minh Lịch nhận làm nghĩa tử, đổi tên là Ðoàn.

Năm 1927, cậu Ðoàn lên 15 tuổi, được vào Tiểu chủng viện Ninh Cường, cùng năm với người bạn quê ở An Lập, Thái Bình, là Giuse Trương Cao Ðại, sau này làm Giám mục Hải Phòng.

Năm 1932, vào Giáo Hoàng chủng viện Nam Ðịnh do các linh mục Ða Minh điều khiển. Học 3 năm Triết lý, Thầy Ðoàn tỏ ra có trí tuệ xuất sắc và lòng đạo đức vượt trội.

Năm 1935, Thầy xin gia nhập dòng Ða Minh tại Quần Phương cùng với hai người bạn là Giuse Trương Cao Ðại và Micae Tuần. Ngày 31-08-1936 Thầy Ðoàn được khấn dòng tại Quần Phương. Qua đầu năm sau, Thầy cùng một số Thầy khác được sang Hương Cảng học tại Rosaryhill, một trung tâm đào tạo tu sĩ dòng Ða Minh cho châu Á.

Năm 1938, bề trên dòng lại gửi Thầy đi du học Pháp, vào trường dòng Saulchoir, nơi đào tạo sinh viên của 15 quốc tịch trên thế giới.

Năm 1939 Thầy lại được đi Paris, học tại nhà dòng Etoiles đồng thời theo lớp văn chương ở đại học Sorbonne, một đại học đường nổi tiếng lâu đời của nước Pháp.

Cũng năm 1939 Thầy được khấn trọn đời tu sĩ dòng Ða Minh và ngày 24-12-1939 được phong chức linh mục tại Paris do Ðức Hồng Y Verdier chủ phong.

Sau đó, linh mục Hoàng Văn Ðoàn tiếp tục học thêm và đỗ Tiến sĩ Thần học, Cử nhân Thánh kinh, năm 1944.

Trong 2 năm sau chiến tranh, 1945-1946 ở Pháp, linh mục Hoàng Văn Ðoàn giảng dạy tiếng Hy lạp, Do thái và La tinh tại nhà dòng thánh Maximin và tại Collège Sète, đồng thời làm Tuyên úy cho Việt kiều lao động tại Pháp. Cha còn nhận chăm sóc giúp đỡ những người được gọi là "tội lỗi" trú ngụ tại nhà Grotte de Sainte Baume để sám hối đền tội. Cha còn thường đi thuyết giảng hoặc diễn thuyết ở các nơi như Pronille, Vienne, Grenoble, La Voule-sur-Rhône và nhất là ở Sanatorium Thorenc.

Năm 1946, sang Roma ngụ tại đại học Angelico của dòng Ða Minh để theo học ở viện Institulum Biblicum, học chuyên sâu tiếng Semetico (tiếng Do thái), đỗ Cử nhân Triết học. Và đặc biệt, cha là người Việt Nam đầu tiên lấy được bằng tốt nghiệp ngôn ngữ Semetico và Tú tài Kinh Thánh ở Roma, báo Observator Romano viết bài ca tụng cha Hoàng Văn Ðoàn.

Cuối năm 1946, cha rời Roma về Việt Nam giữa lúc khói lửa chiến tranh Việt-Pháp lan tràn khắp cả nước. Cha phải lưu trú ở Hải Phòng. Giám mục Hải Phòng bấy giờ là Ðức cha Francisco Gomez (Lễ) nhờ linh mục Hoàng Văn Ðoàn nhận quyền Chính xứ họ đạo Hồng Gai vì giáo phận thiếu linh mục.

Giáo xứ Hồng Gai, một giáo xứ nghèo, nằm phía cực Ðông Bắc biên giới Việt-Hoa. Khi linh mục Hoàng Văn Ðoàn vui vẻ đến nhận xứ thì giáo dân đã tan tác tha phương vì chiến sự, ngôi nhà thờ trên Núi Ðạo đã bị quân đội Tưởng Giới Thạch tàn phá khi tràn qua biên giới tiến vào miền Bắc, chỉ còn thấy mấy bức vách chơ vơ hoang tàn...

Cha Hoàng Văn Ðoàn nổ lực xây lại nhà thờ, Nhà Chung, tập họp giáo dân, củng cố các hội đoàn, giáo dục tình tương thân tương trợ cho giáo dân. Cha còn củng cố các phường trống, phường trắc, phường bát âm để hỗ trợ và tăng phần sống động trang trọng các nghi lễ tôn giáo. Cha vận động mở trường dạy chữ, dạy giáo lý cho thiếu nhi. Cha chăm lo đời sống cho giáo dân, kiếm công ăn việc làm cho họ.

Là một tu sĩ Dòng và là giáo sư đại học nhưng khi ở cương vị linh mục Chính xứ, cha phát huy năng lực trí tuệ và nhiệt tâm phục vụ giáo dân trong giáo xứ trách nhiệm của mình.

Ngày 12-08-1949 linh mục Hoàng Văn Ðoàn phải từ giã giáo dân Hồng Gai vì được lệnh sang Hương Cảng làm giáo sư khoa Kinh Thánh, tiếng Pháp, tiếng Hy lạp cho sinh viên tu viện Ða Minh.

Cho đến ngày 12-03-1950 Tòa thánh bổ nhiệm linh mục Hoàng Văn Ðoàn làm Giám mục Hiệu tòa Sacca, Ðại diện Tông tòa lãnh đạo giáo phận Bắc Ninh, kế nhiệm Ðức cha Artaraz (tên VN : Chỉnh) qua đời ngày 21-12-1947 tại Tây ban nha.

Ðức cha Hoàng Văn Ðoàn là vị Giám mục Việt Nam tiên khởi của giáo phận Bắc Ninh và là vị Giám mục người Việt Nam đầu tiên của dòng Ða Minh cống hiến cho Giáo hội.

Lễ tấn phong Giám mục được cử hành tại Roma, ngày 03-09-1950.

Lãnh đạo giáo phận Bắc Ninh trong bối cảnh khói lửa chiến tranh Việt-Pháp dần đi vào những giai đoạn quyết liệt từ 1947-1950-1954. Tỉnh Bắc Ninh nằm trong vùng chiến sự. Khu Tòa Giám mục Bắc Ninh chỉ còn một đống gạch vụn, Ðức cha phải trú trong phòng mặc áo của nhà thờ Chính tòa, tòa nhà duy nhất tồn tại.

Ðức cha ra tay tái thiết. Sau hai chuyến sang Hoa Kỳ năm 1950 và 1952, Ðức cha có một nguồn tài chính để xây lại nhà Chung, trường Trung học Vinh sơn Liêm, lập ấn quán Chơn phước Cẩm. Ðức cha bận tâm hơn cả là việc đào tạo hàng giáo sĩ : Tiểu chủng viện được tổ chức qui mô, một lúc tuyển chọn 8 linh mục trẻ xuất ngoại du học.

Giữa lúc giáo phận đang tiến triển nhiều mặt thì đất nước tạm chia đôi bằng hiệp định Genève, giáo dân di cư vào Nam.

Ðức cha Hoàng Văn Ðoàn nhất quyết ở lại Bắc Ninh với giáo dân còn khoảng 55,000 người, chỉ còn 1 cha dòng Ða Minh (là cha Phạm Quang Chiêu) và 6 linh mục triều. Lập trường của Ðức cha được Tòa thánh tán thưởng qua bức điện văn gọi Ngài là "người anh dũng tuyên xưng Ðức Kitô" ("vaillant confesseur du Christ"). Ðức cha còn một mình, khi ở Bắc Ninh, khi sang Xuân Hòa, kiêm nhiệm nhiều giáo xứ.

Ngày 29-09-1955, đến 5 giờ chiều Ðức cha cưỡi xe đạp lên làm lễ bổn mạng cho giáo xứ Ngọc Lâm (Bắc Giang), đoạn đường dài 15 cây số, tới nơi thì trời đã nhá nhem tối. Dân địa phương thấy một người to lớn, râu quai nón phương phi thì tưởng là một ông Tây, liền đuổi bắt, Ðức cha luống cuống té ngã gãy xương chân. Dân địa phương bắt được, mặc dù Ðức cha nói mình là người Việt và là Giám mục Bắc Ninh, nhưng họ không tin và giam Ðức cha suốt đêm ấy. Hôm sau Ðức cha bị áp giải lên Công An tỉnh Bắc Giang. Sau khi xác nhận Ðức cha đúng là người Việt, cơ quan Công An trả tự do cho Ngài.

Sau một thời gian băng bó ở Bắc Ninh trong hoàn cảnh thiếu thuốc men, phương tiện, không đi lại được, Ðức cha Trịnh Như Khuê đưa Ðức cha Hoàng Văn Ðoàn về Hà Nội. Bác sĩ Huard chiếu điện, ông khuyên Ðức cha sang Hồng Kông vì bệnh viện Hà Nội không đủ phương tiện. Chính quyền cho phép Ðức cha tự do đi Hồng Kông chữa trị. Sau 6 tháng, khi chân đã tạm ổn định, Ðức cha xin trở về giáo phận Bắc Ninh nhưng chính quyền Hồng Kông từ chối. Ðức cha đành ở lại Hồng Kông dạy Triết học và Cổ ngữ tại học viện Rosaryhill.

Tháng 10 năm 1960, theo ý Tòa thánh, Ðức cha trở về miền Nam Việt Nam, nhận chức Giám đốc Giáo hoàng chủng viện Albert Phú Nhuận, đồng thời dạy Triết học ở đại học Ðà Lạt.

Còn giáo phận Bắc Ninh, từ khi Ðức cha Hoàng Văn Ðoàn rời khỏi, Ðức cha Phêrô Khuất Văn Tạo (1902-1977), Giám mục Hải Phòng kiêm nhiệm Giám quản. Cho tới năm 1963, Tòa thánh bổ nhiệm linh mục Phaolô Phạm Ðình Tụng làm Giám mục Chính tòa Bắc Ninh. (Theo LM. Bùi Ðức Sinh, "Dòng Ða Minh trên đất Việt", Tập II, Sàigòn 1967, tr. 235-237).

Ngày 18-01-1963 Ðức cha Hoàng Văn Ðoàn nhận được sắc lệnh Tòa thánh bổ nhiệm làm Giám mục Chính tòa Qui Nhơn thay Giám mục Phạm Ngọc Chi (1909-1984) ra nhận giáo phận Ðà Nẵng. Ngày 29-04-1963 tại tu viện Albert Phú Nhuận, tỉnh dòng Ða Minh tổ chức tiệc tiễn đưa Ðức cha Hoàng Văn Ðoàn. Tham dự có Khâm sứ Tòa thánh Salvator Asta, Ðức Ông De Nittis, Bề trên giáo phận Sàigòn linh mục Trần Thanh Khâm, Ðức cha Trương Cao Ðại...

Hôm sau, 30-04-1963 Ðức cha Hoàng Văn Ðoàn đáp máy bay ra Qui Nhơn nhậm chức. Cùng đi, có Khâm sứ Tòa thánh, Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình (1910-1995), Tổng Giám mục Ngô Ðình Thục (1897-1984)...

Giáo phận Qui Nhơn từ đây chỉ gồm 3 tỉnh: Quảng Ngãi, Bình Ðịnh và Phú Yên, Ðức cha Hoàng Văn Ðoàn tiếp tục hoàn chỉnh những công trình mà Ðức cha Phạm Ngọc Chi đã thực hiện từ tháng 07-1957.

Sức khỏe của Ðức cha ngày càng suy giảm, nhất là đôi mắt ngày càng yếu gần như mù lòa, Ðức cha Ða Minh Hoàng Văn Ðoàn từ trần ngày 20 tháng 05 năm 1974 tại Tòa Giám mục Qui Nhơn, thọ 62 tuổi với 24 năm làm Giám mục, trong đó có 5 năm Giám mục Bắc Ninh, 11 năm Giám mục Qui Nhơn.

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page