Bộ Giáo Luật
The Code of Canon Law
Bản dịch việt ngữ của:
Ðức Ông Nguyễn Văn Phương, Linh Mục Phan Tấn Thành, Linh Mục Vũ Văn Thiện, Linh Mục Mai Ðức Vinh
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Quyển II: Dân Chúa
Phần III: Các Tu Hội Dòng Tận Hiến
Và Các Tu Ðoàn Tông Ðồ
Tiết 1:
Các Hội Dòng Tận Hiến
Thiên 2:
Các Dòng Tu
Ðiều 607: (1) Ðời sống tu trì, xét vì là sự hiến dâng hoàn toàn bản thân, biểu lộ trong Giáo Hội cuộc kết hôn huyền diệu mà Thiên Chúa đã thiết lập như dấu chỉ của đời sau. Như vậy tu sĩ hoàn tất sự trao hiến toàn vẹn tựa như hy lễ dâng cho Thiên Chúa, nhờ đó tất cả cuộc đời của họ trở nên việc liên lỉ thờ phượng Thiên Chúa trong đức ái.
(2) Dòng tu là một hội xã trong đó các phần tử tuyên giữ các lời khấn công khai, trọn đời hay tạm thời, nhưng lặp lại khi mãn hạn tùy theo luật riêng, và sống chung đời huynh đệ.
(3) Việc các tu sĩ làm chứng công khai cho Ðức Kitô và cho Giáo Hội bao hàm sự xa cách thế tục, theo một hình thức riêng thích hợp với đặc tính và mục tiêu của mỗi dòng.
Chương I: Các Nhà Dòng - Việc Thành Lập Và Giải Tán Các Nhà Dòng
Ðiều 608: Cộng đồng tu sĩ phải ở trong một nhà được thành lập hợp lệ, dưới quyền của Bề Trên được chỉ định theo quy tắc của luật. Mỗi nhà phải có ít là một nguyện đường, tại đó cử hành và lưu trữ Thánh Thể như trung tâm đích thực của cộng đồng.
Ðiều 609: (1) Các nhà của các dòng được thành lập do nhà chức trách có thẩm quyền chiếu theo hiến pháp, sau khi đã được Ðức Giám Mục giáo phận thỏa thuận bằng giấy tờ.
(2) Ðể thành lập một nữ đan viện, cần có thêm phép của Tòa Thánh.
Ðiều 610: (1) Khi thành lập các nhà dòng, cần để ý đến ích lợi của Giáo Hội và của dòng tu, và phải bảo đảm tất cả những gì cần thiết để các phần tử có thể sống đời tu thích đáng, đúng với mục đích riêng và tinh thần của dòng.
(2) Không nên lập một nhà dòng nếu không thể dự trù được các nhu cầu của các phần tử sẽ được chu cấp tương xứng.
Ðiều 611: Sự thỏa thuận của Giám Mục giáo phận cho lập một nhà dòng bao hàm quyền lợi:
1. được sống theo đặc tính và mục đích riêng của dòng;
2. được thi hành các công tác riêng của dòng hợp với quy tắc của luật, tuy phải tôn trọng các điều kiện đặt ra trong sự thỏa thuận;
3. đối với dòng giáo sĩ, được có một nhà thờ, miễn là giữ quy định của điều 1215 triệt 3, và được thi hành các tác vụ chức thánh, hợp với các điều luật định.
Ðiều 612: Cần phải có sự thỏa thuận của Giám Mục giáo phận khi nhà dòng được xử dụng vào một hoạt động tông đồ khác với hoạt động đã định khi lập nhà. Nhưng sự thỏa thuận ấy không cần nếu sự thay đổi chỉ liên hệ tới tổ chức và kỷ luật nội bộ, miễn là tôn trọng các luật lệ của việc thành lập.
Ðiều 613: (1) Nhà dòng của các Kinh Sĩ và đan sĩ ở dưới sự cai quản và săn sóc của Bề trên riêng được gọi là "tự trị" (sui juris), trừ khi hiến pháp ấn định cách khác.
(2) Theo luật, Bề Trên của một nhà "tự trị" được coi là Bề Trên Cao Cấp.
Ðiều 614: Các nữ đan viện được kết nạp với một dòng nam thì vẫn duy trì cách sống và cai quản riêng chiếu theo hiến pháp. Các quyền lợi và nghĩa vụ hỗ tương cần được xác định thế nào để việc kết hợp có thể mang lại thiện ích thiêng liêng cho đôi bên.
Ðiều 615: Giám Mục giáo phận được ủy thác trông coi đặc biệt, chiếu theo quy tắc của luật, đan viện tự trị nào mà ngoài Bề Trên riêng, họ không còn Bề Trên cấp cao nào khác, và cũng không được kết hợp với một dòng nam, vì đó mà Bề Trên của dòng nam được hưởng trên đan viện một quyền hành thực sự, được xác định trong hiến pháp.
Ðiều 616: (1) Một nhà dòng đã được lập hợp lệ có thể bị giải tán do Bề Trên tổng quyền theo quy tắc hiến pháp, sau khi đã bàn hỏi Giám Mục giáo phận. Các tài sản của nhà bị giải tán sẽ do luật riêng dự liệu, với điều kiện là phải tôn trọng ý muốn của các người sáng lập và dâng cúng, cũng như các quyền lợi thủ đắc hợp lệ.
(2) Tòa Thánh dành quyền giải tán nhà duy nhất của dòng. Trong trường hợp này, Tòa Thánh cũng dành quyền định đoạt tài sản của nhà ấy.
(3) Sự giải tán một đan viện tự trị nói ở điều 613, là việc thuộc thẩm quyền của tổng hội, trừ khi hiến pháp định cách khác.
(4) Sự giải tán một nữ đan viện tự trị là việc thuộc quyền của Tòa Thánh, tuy phải tuân theo các quy tắc hiến pháp trong vấn đề tài sản.
Chương II: Việc Cai Trị Trong Dòng
Mục I: Các Bề Trên và hội đồng cố vấn
Ðiều 617: Các Bề Trên thi hành nhiệm vụ của mình và hành sử quyền hành chiếu theo quy tắc của luật phổ quát và luật riêng.
Ðiều 618: Trong tinh thần phục vụ, các Bề Trên hãy hành sử quyền hành đã lãnh nhận từ Thiên Chúa qua tác vụ của Giáo Hội. Vì vậy, các vị hãy tỏ ra ngoan ngoãn với ý Chúa trong khi chu toàn nhiệm vụ, cai trị các người thuộc quyền như những người con của Chúa, biết tôn trọng nhân vị của các người ấy qua việc xúc tiến sự vâng lời tự nguyện, vui lòng lắng nghe họ và cổ xúy sáng kiến của họ nhằm thiện ích của dòng và của Giáo Hội, tuy vẫn duy trì quyền của Bề Trên quyết định và truyền khiến điều gì phải làm.
Ðiều 619: Các Bề Trên hãy tận tâm thi hành nhiệm vụ của mình, và cùng với các phần tử được giao phó, hãy tìm cách xây dựng trong Ðức Kitô một cộng đồng huynh đệ, trong đó mọi người tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Vì vậy các Bề Trên hãy nuôi dưỡng các phần tử với lương thực thường xuyên của lời Chúa và dẫn đưa họ tới cử hành phụng vụ. Các Bề Trên hãy làm gương cho họ về việc trau dồi nhân đức và tuân hành lề luật và truyền thống của Dòng; chu cấp tương xứng các nhu cầu của họ, săn sóc và viếng thăm các người bệnh, sửa trị các người ngỗ nghịch, an ủi những người nhút nhát, nhẫn nại với hết mọi người.
Ðiều 620: Bề Trên cao cấp là những Bề Trên cai trị toàn dòng, một tỉnh của dòng, hay một phần tương đương với tỉnh hay một nhà tự trị, cũng như các đại diện của Bề Trên ấy. Thêm vào đó là các Viện Phụ tổng quyền và các Bề Trên của hội dòng đan tu, tuy những vị này không có tất cả quyền hành mà luật chung dành cho các Bề Trên cao cấp.
Ðiều 621: Ðược gọi là tỉnh dòng, một tổng hợp gồm nhiều nhà với nhau, đặt dưới một Bề Trên, họp thành một phần trực tiếp của dòng, được nhà chức trách hợp pháp thành lập theo giáo luật.
Ðiều 622: Bề Trên tổng quyền có quyền hành trên mọi tỉnh dòng, nhà dòng và tu sĩ, chiếu theo luật. Các Bề Trên khác có quyền hành trong giới hạn của nhiệm vụ.
Ðiều 623: Ðể các phần tử có thể được đặt hay bầu cách hữu hiệu vào một nhiệm vụ, họ cần trải qua một thời gian thích đáng kể từ lúc khấn trọn đời hay vĩnh viễn. Thời gian ấy được ấn định do luật riêng hoặc, nếu là Bề Trên cao cấp, do hiến pháp.
Ðiều 624: (1) Chức vụ Bề Trên phải được thiết lập với một nhiệm kỳ rõ rệt và thích hợp, tùy theo bản chất và nhu cầu của dòng, trừ khi hiến pháp định cách khác về Bề Trên tổng quyền và Bề Trên nhà tự trị.
(2) Luật riêng phải xác định các quy tắc thích hợp để các người làm Bề Trên, được giao với nhiệm kỳ xác định, không ở trong chức vụ cai trị quá lâu mà không cách quãng.
(3) Trong khi tại chức, họ có thể bị bãi chức và thuyên chuyển sang chức vụ khác vì những lý do mà luật riêng đã định.
Ðiều 625: (1) Bề Trên tổng quyền được chỉ định bằng việc bầu cử theo quy tắc của hiến pháp.
(2) Việc bầu cử các Bề Trên đan viện tự trị nói ở điều 615 và các Bề Trên tổng quyền của dòng thuộc luật giáo phận sẽ được chủ tọa bởi Giám Mục tại nơi trụ sở chính.
(3) Các Bề Trên khác được thiết lập theo quy tắc của hiến pháp, bằng cách là nếu họ được bầu, thì cần được phê chuẩn do Bề Trên cao cấp có thẩm quyền; nếu họ được Bề Trên đặt, thì trước đó cần phải có sự thăm dò ý kiến cách xứng hợp.
Ðiều 626: Các Bề Trên khi trao chức vụ, và các phần tử khi bầu cử, phải giữ các quy tắc của luật phổ quát và luật riêng, và phải tránh hết mọi hình thức lạm dụng và thiên tư, và, không nhắm gì khác ngoài Thiên Chúa và thiện ích của dòng, họ hãy đặt hay bầu những người mà họ xét thấy trong Chúa thực là xứng đáng và có khả năng. Ngoài ra trong các cuộc bầu cử, họ hãy tránh việc vận động phiếu trực tiếp hay gián tiếp, cho mình hay cho người khác.
Ðiều 627: (1) Theo quy tắc hiến pháp, các Bề Trên phải có hội đồng cố vấn riêng, và Bề Trên hãy nhờ đến sự cộng tác của họ trong khi thi hành chức vụ.
(2) Ngoài những trường hợp luật chung đã định, luật riêng phải xác định những trường hợp nào đòi hỏi sự thỏa thuận hay tham khảo để hành vi được hữu hiệu theo quy tắc của điều 127.
Ðiều 628: (1) Các Bề Trên nào được chỉ định vào nhiệm vụ kinh lý theo luật riêng thì phải viếng thăm các nhà và các phần tử được giao phó cho họ, vào thời kỳ đã định và chiếu theo các quy tắc của luật riêng.
(2) Giám Mục giáo phận có quyền và nghĩa vụ kinh lý, kể cả về phần kỷ luật tu trì:
1. các đan viện tự trị nói ở điều 615;
2. mỗi nhà của dòng thuộc luật giáo phận ở trong lãnh thổ của ngài.
(3) Ðối với người kinh lý, các phần tử hãy tỏ ra lòng tín nhiệm; nếu được hỏi điều gì hợp pháp, thì phải trả lời theo sự thật và bác ái. Cấm không ai được làm cách nào để các phần tử thoát khỏi nghĩa vụ kinh lý, hoặc ngăn trở mục tiêu của việc kinh lý bằng cách nào khác.
Ðiều 629: Các Bề Trên phải cư ngụ trong nhà của mình và không được vắng nhà, trừ trường hợp đã được định bởi quy tắc của luật riêng.
Ðiều 630: (1) Các Bề Trên hãy nhìn nhận cho các phần tử sự tự do thích đáng trong việc lãnh bí tích thống hối và linh hướng, miễn là bảo toàn kỷ luật của dòng.
(2) Các Bề Trên, chiếu theo luật dòng, hãy lưu tâm sao cho có sẵn các vị giải tội cho các phần tử, để họ có thể năng xưng tội.
(3) Trong các nữ đan viện, các nhà huấn luyện, các cộng đoàn đông tu sĩ không giáo sĩ, thì nên có các vị giải tội thường xuyên do Bản Quyền sở tại phê chuẩn, sau khi đã hỏi ý kiến của cộng đoàn. Tuy nhiên họ không buộc phải xưng tội với các vị ấy.
(4) Các Bề Trên đừng nên nghe các thuộc cấp xưng tội, trừ khi chính các phần tử tự ý yêu cầu.
(5) Các phần tử hãy đến với các Bề Trên với lòng tin tưởng, và có thể thong dong và tự ý cởi mở tâm hồn. Tuy nhiên cấm các Bề Trên không được bằng bất cứ cách nào xui giục họ bày tỏ lương tâm cho mình.
Mục II: Các Ðại Hội
Ðiều 631: (1) Tổng hội giữ quyền bính tối cao trong dòng chiếu theo các quy tắc của hiến pháp. Tổng hội cần được cấu tạo cách nào để có thể thay mặt toàn dòng, và như vậy trở nên dấu chỉ thực sự của sự duy nhất trong bác ái. Tổng hội có nhiệm vụ chính là: bảo vệ gia sản của dòng đã nói ở điều 578, và xúc tiến việc thích nghi và canh tân hợp với gia sản ấy; bầu cử Bề Trên tổng quyền; bàn các vấn đề hệ trọng; cũng như ban hành các quy tắc có tính cách bó buộc tất cả mọi phần tử.
(2) Hiến pháp phải xác định thành phần và phạm vi quyền hành của tổng hội. Luật riêng cũng sẽ xác định rõ hơn thủ tục tiến hành của tổng hội, nhất là về các việc bầu cử và cách nghị sự.
(3) Dựa theo các quy tắc đã định trong luật riêng, không những các tỉnh dòng và các cộng đồng địa phương, mà cả mỗi phần tử đều có thể tự do gửi thỉnh nguyện và đề nghị lên tổng hội.
Ðiều 632: Luật riêng phải xác định tỉ mỉ những gì thuộc thẩm quyền của các đại hội khác nhau hay những hiệp nghị tương tự của dòng, nghĩa là: về bản chất, quyền hạn, thành phần, cách tiến hành và thời gian cử hành chúng.
Ðiều 633: (1) Các cơ quan tham luận hay cố vấn phải trung thành thi hành nhiệm vụ đã được trao phó dựa trên quy tắc của luật phổ quát và luật riêng. Lại nữa, các cơ quan ấy, tùy cách thức riêng, hãy biểu lộ mối quan tâm và tham gia của tất cả các phần tử vào thiện ích chung của dòng hay của cộng đồng.
(2) Trong việc thành lập và xử dụng các phương tiện tham luận hay cố vấn ấy, cần phải thận trọng khôn khéo. Sự điều hành các phương tiện ấy cũng phải phù hợp với đặc tính và mục đích của dòng.
Mục III: Tài Sản Và Sự Quản Trị Tài Sản
Ðiều 634: (1) Các dòng, tỉnh và nhà, xét vì là các pháp nhân theo luật, có khả năng thủ đắc, chấp hữu, quản trị và chuyển nhượng tài sản, trừ khi khả năng ấy đã bị loại trừ hay hạn chế do chính hiến pháp.
(2) Tuy nhiên, phải tránh bất cứ hình thức xa hoa nào, cũng như tính cách vô độ trong việc trục lợi và tích lũy tài sản.
Ðiều 635: (1) Các tài sản của các dòng, xét vì là tài sản Giáo Hội, nên cũng được chi phối bởi các quy định của quyển V về tài sản Giáo Hội, trừ khi đã minh thị dự liệu cách khác.
(2) Tuy nhiên, mỗi dòng phải ấn định các quy tắc thích hợp về sự xử dụng và quản trị tài sản, nhờ đó sự khó nghèo, hợp với đặc tính của dòng, được cổ võ, bảo vệ và biểu lộ.
Ðiều 636: (1) Trong mỗi dòng cũng như trong mỗi tỉnh có một Bề Trên cao cấp đứng đầu, phải có một người quản lý khác biệt với Bề Trên cao cấp. Quản lý được bổ nhiệm chiếu theo quy tắc hiến pháp, và điều hành việc quản trị tài sản dưới sự hướng dẫn của Bề Trên liên hệ. Nếu có thể được, cả trong các cộng đồng địa phương cũng nên có một quản lý khác biệt với Bề Trên địa phương.
(2) Vào thời kỳ và theo cách thức do luật riêng ấn định, các quản lý và các quản trị viên khác phải trình sổ sách quản trị cho nhà chức trách có thẩm quyền.
Ðiều 637: Các đan viện tự trị nói ở điều 615 cần phải trình bày sổ sách lên Bản Quyền sở tại mỗi năm một lần. Ngoài ra Bản Quyền sở tại có quyền được thông tri về tình hình kinh tế của mỗi nhà dòng thuộc luật giáo phận.
Ðiều 638: (1) Trong khuôn khổ của luật phổ quát, luật riêng có nhiệm vụ xác định những hành vi nào vượt quá mục đích và thể thức của hành vi quản trị thông thường; luật riêng cũng phải xác định những gì cần thiết để cho hành vi quản trị ngoại thường có hiệu lực.
(2) Các chi tiêu và các hành vi quản trị thông thường có thể được thực hiện cách hữu hiệu không những do các Bề Trên mà cả do các viên chức đã được luật riêng chỉ định vào vai trò ấy, trong giới hạn nhiệm vụ của mình.
(3) Ðể được hữu hiệu, việc chuyển nhượng và bất cứ nghiệp vụ nào khiến cho điều kiện tài sản của pháp nhân bị thiệt thòi, cần phải có phép bằng giấy tờ của Bề Trên có thẩm quyền, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn. Ngoài ra cần phải xin phép Tòa Thánh nếu là một nghiệp vụ vượt quá số tiền đã được Tòa Thánh ấn định cho từng vùng, hoặc nếu là các đồ vật đã biếu Giáo Hội nhằm thực thi một lời khấn, hoặc nếu là các đồ vật quý giá vì giá trị nghệ thuật hay lịch sử.
(4) Ngoài ra, các đan viện tự trị nói ở điều 615 và các dòng thuộc luật giáo phận còn cần sự thỏa thuận bằng giấy tờ của Bản Quyền sở tại nữa.
Ðiều 639: (1) Nếu một pháp nhân mắc nợ và nghĩa vụ, cho dù đã có phép của Bề Trên, thì pháp nhân ấy phải lãnh trách nhiệm.
(2) Nếu một phần tử mắc nợ và nghĩa vụ dựa trên tài sản riêng tư của mình với phép Bề Trên, thì chính đương sự phải đích thân chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu đương sự thực hiện một nghiệp vụ cho dòng do ủy nhiệm của Bề Trên, thì dòng chịu trách nhiệm.
(3) Nếu một tu sĩ kết ước không có phép của Bề Trên, thì chính đương sự phải đích thân lãnh trách nhiệm, chứ không phải pháp nhân.
(4) Tuy vậy, luôn luôn có thể xử dụng tố quyền để đòi lại người đã hưởng lợi lộc tài sản nhờ việc kết ước.
(5) Các Bề Trên dòng hãy thận trọng đừng cho phép kết nợ: trừ khi biết chắc chắn rằng với lợi tức thường xuyên, họ có thể trả tiền lời và hoàn lại số vốn trong thời hạn không quá lâu, bằng cách trả dần.
Ðiều 640: Các dòng tu, chiếu theo hoàn cảnh địa phương, hãy cố gắng nêu cao chứng tá phần nào cách tập thể về bác ái và khó nghèo; tùy theo khả năng, họ hãy dùng tài sản để đóng góp vào nhu cầu của Giáo Hội và giúp đỡ người nghèo.
Chương III: Việc Thu Nhận Các Tuyển Sinh Và Huấn Luyện Các Phần Tử
Mục I: Việc Thu Nhận Vào Tập Viện
Ðiều 641: Việc thu nhận các tuyển sinh thuộc thẩm quyền của các Bề Trên cao cấp, chiếu theo các quy tắc của luật riêng.
Ðiều 642: Các Bề Trên hãy cẩn thận ý tứ, chỉ nên thu nhận những ai đã đủ tuổi cần thiết, có sức khỏe, tính nết thích hợp, các đức tính đầy đủ của kẻ trưởng thành hầu có thể theo đuổi nếp sống tu trì riêng biệt của dòng. Nếu cần, việc chứng minh sức khỏa, tính nết và sự trưởng thành có thể nhờ đến các chuyên viên, miễn là giữ các quy tắc của điều 220.
Ðiều 643: (1) Việc thâu nhận những người sau đây sẽ vô hiệu:
1. ai chưa tới mười bảy tuổi trọn;
2. người đã lập gia đình, bao lâu giá thú còn hiệu lực;
3. kẻ hiện đang bị ràng buộc với một hội dòng tận hiến hay tu đoàn tông đồ, đừng kể trường hợp dự liệu ở điều 684;
4. kẻ vào dòng vì vũ lực, sợ hãi trầm trọng hay lường gạt; hoặc kẻ nào mà Bề Trên phải nhận cũng với tình trạng tương tự;
5. kẻ giấu diếm việc mình đã gia nhập một hội dòng tận hiến hay một tu đoàn tông đồ.
(2) Luật riêng có thể thiết lập các ngăn trở khác của việc thu nhận, kể cả chi phối sự hữu hiệu, hoặc đặt thêm các điều kiện khác.
Ðiều 644: Các Bề Trên không được thu nhận làm tập sinh: các giáo sĩ giáo phận trước khi hỏi ý Bản Quyền riêng của đương sự; hoặc những người mắc nợ nần không trả nổi.
Ðiều 645: (1) Các tuyển sinh, trước khi được nhận vào năm tập, cần phải xuất trình giấy chứng nhận đã lãnh bí tích rửa tội và thêm sức, cũng như chứng nhận tình trạng thong dong.
(2) Nếu tuyển sinh là giáo sĩ, hoặc đã được thu nhận vào một hội dòng tận hiến khác, hay một tu đoàn tông đồ hoặc chủng viện, thì cần thêm giấy chứng nhận của Bản Quyền sở tại liên hệ hoặc của Bề Trên cao cấp của hội dòng, tu đoàn hay của giám đốc chủng việc.
(3) Luật riêng có thể đòi hỏi các tài liệu khác chứng minh tuyển sinh có khả năng và không mắc ngăn trở.
(4) Nếu thấy là cần, các Bề Trên cũng có thể thu thập tin tức cách khác, cho dù phải giữ kín.
Mục II: Năm Tập Và Việc Huấn Luyện Tập Sinh
Ðiều 646: Mục tiêu của năm tập, khởi đầu của đời sống trong dòng, là để các tập sinh hiểu rõ hơn ơn gọi thiên triệu, cách riêng ơn gọi đặc biệt của dòng, thử nghiệm lối sống của dòng, rèn luyện lòng trí của mình theo tinh thần của dòng, cũng như được trắc nghiệm về ý định và khả năng của mình.
Ðiều 647: (1) Việc thành lập, di chuyển và giải tán tập viện phải được thực hiện do nghị định, bằng giấy tờ, của Bề Trên tổng quyền với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn.
(2) Ðể được hữu hiệu, năm tập phải được thực hiện trong một nhà được chỉ định cách hợp lệ để làm tập viện. Trong trường hợp đặc biệt và ngoại lệ, Bề Trên tổng quyền, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn, có thể cho phép một tuyển sinh qua năm tập tại một nhà khác của dòng, dưới sự điều khiển của một tu sĩ từng trải, giữ vai trò giám tập.
(3) Bề Trên cao cấp có thể cho phép đoàn tập sinh lưu trú một thời gian tại một nhà khác của dòng do chính vị ấy chỉ định.
Ðiều 648: (1) Ðể được hữu hiệu, năm tập phải kéo dài mười hai tháng trong chính cộng đồng tập viện, trừ trường hợp quy định ở điều 647, triệt 3.
(2) Ðể kiện toàn việc huấn luyện các tập sinh, hiến pháp có thể quy định thêm thời gian nói ở triệt 1, một hay nhiều thời gian thực tập tông đồ ngoài cộng đồng tập viện.
(3) Năm tập không được kéo dài quá hai năm.
Ðiều 649: (1) Ðừng kể những quy tắc của các điều 647, triệt 3 và 648, triệt 2, sự vắng mặt khỏi tập viện quá ba tháng, dù liên tục hay cách quãng, sẽ làm năm tập vô hiệu. Sự vắng mặt quá mười lăm ngày phải được bù lại.
(2) Với phép của Bề Trên cao cấp, việc khấn lần đầu có thể dời lên trước, nhưng không được quá mười lăm ngày.
Ðiều 650: (1) Mục đích của năm tập đòi hỏi các tập sinh phải được huấn luyện dưới sự điều khiển của một giám sư, dựa theo chương trình huấn luyện mà luật riêng đã định.
(2) Việc điều hành các tập sinh dành riêng hoàn toàn cho giám sư, dưới quyền hành của các Bề Trên cao cấp.
Ðiều 651: (1) Giám tập phải là phần tử của dòng, đã khấn trọn đời và được chỉ định hợp lệ.
(2) Nếu cần, có thể đặt thêm các phụ tác giám sư. Những người phụ tác tùy thuộc giám sư trong việc điều khiển tập viện và chương trình huấn luyện.
(3) Những người đảm trách việc huấn luyện tập sinh phải là những phần tử đã được chuẩn bị chu đáo, và không phải bận bịu với các công tác khác, ngõ hầu có thể chu toàn phận sự cách bền vững và có hiệu quả.
Ðiều 652: (1) Giám tập và các vị phụ tá có nhiệm vụ nhận định và trắc nghiệm ơn gọi của các tập sinh; rèn luyện họ dần dần để sống đời trọn lành theo bản chất của dòng.
(2) Các tập sinh phải được hướng dẫn để phát huy các đức tính nhân bản và Kytô giáo. Họ cần được đưa vào đường trọn lành sung mãn nhờ việc cầu nguyện và từ bỏ mình. Họ cần được chỉ bảo cách chiêm ngắm mầu nhiệm cứu chuộc, đọc và suy gẫm Kinh Thánh. Họ cần được chuẩn bị vào sự thờ phượng Chúa trong phụng vụ. Họ cần được học hỏi về đời sống tận hiến cho Thiên Chúa và cho nhân loại trong Ðức Kitô qua các lời khuyên Phúc Âm. Họ cần được dạy dỗ về đặc tính, tinh thần, mục đích, kỷ luật, lịch sử, đời sống của dòng, và cần được thấm nhuần lòng yêu mến Giáo Hội cùng các vị Chủ Chăn Giáo Hội.
(3) Các tập sinh, ý thức trách nhiệm của mình, hãy cộng tác tích cực với giám sư để đáp lại ơn Chúa gọi một cách trung thành.
(4) Về phía mỗi phần tử của dòng, họ hãy tìm cách hợp tác vào việc huấn luyện tập sinh bằng gương mẫu đời sống và bằng lời cầu nguyện.
(5) Năm tập, theo như điều 648, triệt 1 đã định, phải được dành riêng cho việc huấn luyện. Vì vậy các tập sinh không nên bận rộn với việc học hành và các công tác nào khác không giúp trực tiếp vào việc huấn luyện ấy.
Ðiều 653: (1) Tập sinh có thể tự do bỏ dòng. Nhà chức trách có thẩm quyền trong dòng cũng có thể loại bỏ tập sinh.
(2) Khi mãn thời gian tập, tập sinh sẽ được thâu nhận khấn tạm nếu được xét thấy là có khả năng; còn không, thì sẽ bị loại. Nếu còn hoài nghi về khả năng, Bề Trên cao cấp có thể kéo dài thời gian thử luyện, dựa theo luật riêng, nhưng không được quá sáu tháng.
Mục III: Sự Tuyên Khấn
Ðiều 654: Do việc tuyên khấn, các phần tử khấn hứa công khai giữ ba lời khuyên Phúc Âm. Họ được tận hiến cho Chúa qua tác vụ của Giáo Hội, được gia nhập vào dòng, với những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định.
Ðiều 655: Việc khấn tạm phải được thực hiện trong kỳ hạn mà luật riêng ấn định, không dưới ba năm và không trên sáu năm.
Ðiều 656: Ðể việc khấn tạm được hữu hiệu, thì cần:
1. người khấn đã được ít là mười tám tuổi trọn;
2. năm tập hữu hiệu;
3. được thu nhận cách thong dong và hợp luật do Bề Trên có thẩm quyền, với ý kiến của hội đồng cố vấn;
4. phát biểu ra ngoài, và không bị ảnh hưởng của vũ lực, sợ hãi trầm trọng hay lường gạt;
5. được Bề Trên hợp pháp, hoặc đích thân hoặc nhờ người khác, tiếp nhận.
Ðiều 657: (1) Khi đã mãn kỳ hạn khấn, tu sĩ nào tự ý xin và được xét thấy có khả năng thì sẽ được nhận lặp lại lời khấn hoặc khấn trọn đời. Nếu không thì phải bỏ dòng.
(2) Tuy nhiên, nếu thấy tiện, Bề Trên có thẩm quyền, tùy theo luật riêng, có thể kéo dài thời gian khấn tạm, với điều kiện là tất cả thời gian mà một phần tử bị ràng buộc bởi lời khấn tạm không được quá chín năm.
(3) Việc tuyên khấn vĩnh viễn có thể dời lên trước kỳ hạn khi có lý do chính đáng, nhưng không được quá ba tháng.
Ðiều 658: Ðừng kể các điều kiện đã nói ở các điều 656, số 3, 4 và 5, cùng các điều kiện khác mà luật riêng thêm vào, thì, để việc tuyên khấn vĩnh viễn được hữu hiệu, cần người khấn:
1. đã được ít là hai mươi mốt tuổi trọn;
2. đã tuyên khấn tạm thời ít là ba năm, miễn là không phương hại đến điều 657, triệt 3.
Mục IV: Việc Huấn Luyện Các Tu Sĩ
Ðiều 659: (1) Sau khi đã tuyên khấn lần đầu, việc huấn luyện tất cả các phần tử trong mỗi dòng phải được tiếp tục, nhằm giúp họ sống đời tu riêng của dòng cách sung mãn hơn và chu toàn sứ mạng của dòng cách hoàn hảo hơn.
(2) Bởi vậy, luật riêng phải ấn định chương trình và thời hạn của việc huấn luyện ấy, xét theo các nhu cầu của Giáo Hội, và các điều kiện của nhân loại và thời cuộc, theo như mục đích và đặc tính của dòng đòi hỏi.
(3) Việc huấn luyện các phần tử chuẩn bị lãnh chức thánh được chi phối bởi chương trình học vấn riêng của dòng.
Ðiều 660: (1) Sự huấn luyện phải có hệ thống, thích hợp với trình độ của các phần tử, bao gồm lãnh vực thiêng liêng và tông đồ, đạo lý và thực hành. Nếu thấy tiện, có thể lấy các bằng cấp đạo và đời.
(2) Trong suốt thời gian huấn luyện này, đừng nên trao cho các phần tử những chức vụ và công tác nào làm ngăn trở việc huấn luyện.
Ðiều 661: Các tu sĩ hãy chăm chỉ tiếp tục việc huấn luyện thiêng liêng, đạo lý và thực hành trong suốt cuộc đời. Các Bề Trên hãy cung cấp cho họ các phương tiện và thời giờ cần thiết cho việc ấy.
Chương IV: Các Nghĩa Vụ Và Quyền Lợi Của Các Dòng Và Của Các Phần Tử
Ðiều 662: Các tu sĩ hãy đặt mẫu mực tối cao của đời sống nơi việc theo dõi Ðức Kitô, như đã được đề ra trong Phúc Âm và diễn tả trong hiến pháp của dòng mình.
Ðiều 663: (1) Sự chiêm ngắm các thực tại thần linh và sự kết hợp liên lỉ với Thiên Chúa phải là nhiệm vụ đầu tiên và chính yếu của hết mọi tu sĩ.
(2) Các phần tử hãy cố gắng hết sức để hàng ngày tham dự lễ Misa, lĩnh nhận Mình Thánh Chúa và thờ lạy chính Thiên Chúa hiện diện trong bí tích Thánh Thể.
(3) Họ hãy để dành thời giờ cho việc đọc Sách Thánh và tâm nguyện; cử hành xứng đáng phụng vụ giờ kinh theo quy định của luật riêng -- đừng kể nghĩa vụ của các giáo sĩ đã nói ở điều 276, triệt 2 số 3 --; và thực hành các việc đạo đức khác.
(4) Ðối với Ðức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, gương mẫu và Người che chở đời sống tận hiến, họ hãy tỏ lòng sùng kính đặc biệt, kể cả bằng việc đọc kinh Mân Côi.
(5) Họ hãy trung thành giữ việc cấm phòng hàng năm.
Ðiều 664: Các tu sĩ hãy ra sức hoán cải nội tâm về với Chúa, xét mình hằng ngày và năng lĩnh bí tích thống hối.
Ðiều 665: (1) Các tu sĩ hãy ở nhà dòng của mình và giữ đời sống chung. Họ không được vắng nhà nếu không có phép của Bề Trên. Nếu phải vắng nhà lâu ngày, thì Bề Trên cao cấp, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn và với lý do chính đáng, có thể cho phép một phần tử sống ngoài nhà của dòng, nhưng không quá một năm, trừ khi vì lý do chữa bệnh, học hành hay hoạt động tông đồ nhân danh dòng.
(2) Các Bề Trên hãy ân cần tìm kiếm phần tử nào vắng nhà cách bất hợp pháp với chủ ý thoát khỏi quyền hành Bề Trên; Bề Trên hãy giúp đỡ họ trở về và bền đỗ với ơn gọi của mình.
Ðiều 666: Trong việc xử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, các tu sĩ phải giữ sự thận trọng cần thiết, tránh những gì có hại đến ơn gọi riêng và nguy hiểm cho đức khiết tịnh của người tận hiến.
Ðiều 667: (1) Trong tất cả mọi nhà dòng phải giữ nội vi, do luật riêng ấn định phù hợp với đặc tính và sứ mạng của dòng. Luôn luôn phải dành riêng một vài phần của nhà chỉ cho các phần tử.
(2) Luật nội vi phải được giữ ngặt hơn trong các đan viện sống đời chiêm niệm.
(3) Các nữ đan viện sống thuần túy chiêm niệm phải giữ nội vi "giáo hoàng", nghĩa là theo các quy tắc do Tòa Thánh đã ra. Các nữ đan viện khác hãy giữ nội vi thích ứng với đặc tính riêng đã được xác định trong hiến pháp.
(4) Khi có lý do chính đáng, Giám Mục giáo phận có năng quyền vào trong nội vi của các nữ đan viện tọa lạc trong lãnh thổ giáo phận. Khi có lý do trầm trọng, Giám Mục giáo phận, với sự đồng ý của Bề Trên, có năng quyền cho phép những người khác vào trong nội vi, và cho các nữ đan tu ra khỏi nội vi trong thời gian thực là cần thiết.
Ðiều 668: (1) Trước khi tuyên khấn lần đầu, các phần tử phải nhượng lại việc quản lý tài sản riêng cho ai mà mình muốn; và nếu hiến pháp không nói gì khác, thì họ được tự do định đoạt về việc xử dụng và hưởng dụng các tài sản ấy. Ít là trước khi khấn vĩnh viễn, các phần tử phải làm chúc thư, với giá trị đối với cả dân luật.
(2) Họ cần có phép Bề Trên có thẩm quyền, chiếu theo quy tắc của luật riêng, để thay đổi các định đoạt nói trên khi có lý do chính đáng, cũng như để thi hành bất kỳ hành vi nào trong phạm vi tài sản.
(3) Bất cứ vật gì tu sĩ thủ đắc do công lao riêng hoặc với danh nghĩa của dòng thì thủ đắc cho dòng. Những gì tu sĩ nhận được bằng bất cứ cách nào với danh nghĩa hưu bổng, trợ cấp và bảo hiểm thì được thủ đắc cho dòng, trừ khi luật riêng ấn định cách khác.
(4) Kẻ nào phải khước từ hoàn toàn các tài sản chiếu theo bản chất của dòng, thì phải làm sự khước từ ấy trước khi khấn vĩnh viễn, với hiệu lực kể từ ngày khấn. Nếu có thể được, việc từ khước nên làm theo thể thức có giá trị trước dân luật. Ðiều này cũng áp dụng với người nào ước ao khước từ toàn phần hay bán phần các tài sản khi khấn vĩnh viễn, chiếu theo luật riêng, với phép của Bề Trên tổng quyền.
(5) Người nào do lời khấn đã khước từ hoàn toàn các tài sản chiếu theo bản chất của dòng thì mất khả năng thủ đắc và sở hữu; do đó các hành vi làm ngược lại lời khấn khó nghèo sẽ vô hiệu. Những gì thủ đắc sau khi đã khước từ đều thuộc về dòng, dựa trên các quy tắc của luật riêng.
Ðiều 669: (1) Như dấu chỉ của sự tận hiến và làm chứng cho sự khó nghèo, các tu sĩ phải mặc tu phục của dòng, theo hình thức quy định trong luật riêng.
(2) Nếu dòng không có tu phục riêng, thì các tu sĩ giáo sĩ sẽ mặc y phục giáo sĩ theo quy tắc của điều 284.
Ðiều 670: Dòng phải cung cấp cho các phần tử hết mọi phương tiện cần thiết, chiếu theo hiến pháp, để đạt tới mục đích của ơn gọi.
Ðiều 671: Các tu sĩ không nên nhận lãnh các phận sự và chức vụ ngoài dòng khi không có phép của Bề Trên hợp pháp.
Ðiều 672: Các tu sĩ bị ràng buộc bởi các quy định của các điều 277, 285, 286, 287, và 289. Ngoài ra, các tu sĩ giáo sĩ còn phải giữ các quy định của điều 279, triệt 2. Trong các dòng giáo dân thuộc luật giáo hoàng, các Bề Trên cao cấp có thể ban phép nói ở điều 285, triệt 4.
Chương V: Hoạt Ðộng Tông Ðồ Của Các Dòng
Ðiều 673: Hoạt động tông đồ của các tu sĩ tiên vàn hệ tại việc chứng tá của đời tận hiến. Họ có bổn phận hun đúc đời sống chứng tá nhờ lời cầu nguyện và việc đền tội.
Ðiều 674: Các dòng sống đời thuần túy chiêm niệm luôn luôn giữ một phần cao trọng trong nhiệm thể của Ðức Kitô; bởi vì họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ ngợi khen tuyệt vời; họ trang điểm dân Chúa với những hoa trái trù phú của sự thánh thiện; họ thúc đẩy dân Chúa bằng gương sáng và làm nó phát triển nhờ sự phong nhiêu tông đồ kín nhiệm của mình. Vì lẽ ấy, dù nhu cầu hoạt động tông đồ thật là khẩn cấp, nhưng các phần tử của các dòng ấy không thể được gọi hoạt động hợp tác vào các công việc mục vụ khác.
Ðiều 675: (1) Hoạt động tông đồ làm nên phần cốt yếu của các dòng chuyên biệt tông đồ. Vì vậy toàn thể đời sống của các phần tử phải được thấm nhuần tinh thần tông đồ, và toàn thể hoạt động tông đồ phải được chất chứa tinh thần tu trì.
(2) Hoạt động tông đồ phải luôn luôn bắt nguồn từ việc kết hợp mật thiết với Chúa và củng cố, hun đúc việc kết hợp ấy.
(3) Hoạt động tông đồ cần được thực hiện nhân danh và với sự ủy nhiệm của Giáo Hội, cũng như trong sự thông hiệp với Giáo Hội.
Ðiều 676: Các dòng giáo dân, dù nam hay nữ, tham gia vào nhiệm vụ mục vụ của Giáo Hội và phục vụ nhân loại bằng nhiều cách khác nhau qua những công tác từ thiện về phần thiêng liêng hay thể xác. Vì vậy họ hãy trung thành duy trì ơn gọi riêng của họ.
Ðiều 677: (1) Các Bề Trên và các phần tử hãy trung thành duy trì sứ mạng và các công tác riêng của dòng. Tuy nhiên, họ hãy biết thích ứng chúng các khôn ngoan chiếu theo nhu cầu của thời thế và địa phương, kể cả bằng việc xử dụng các phương tiện mới mẻ và thích ứng.
(2) Các dòng nào có các hiệp hội giáo dân được kết nạp, thì hãy giúp đỡ họ cách chuyên cần đặc biệt, để họ được thấm nhuần tinh thần tinh túy của dòng.
Ðiều 678: (1) Trong các lãnh vực coi sóc các linh hồn, cử hành phụng vụ công khai, và các hoạt động tông đồ khác, thì các tu sĩ phải thuộc quyền của các Giám Mục: họ phải tỏ ra lòng suy phục và kính cẩn với các ngài.
(2) Trong khi hoạt động tông đồ bên ngoài, các tu sĩ cũng còn tùy thuộc các Bề Trên riêng của mình, và phải trung thành với kỷ luật của dòng. Các Giám Mục không nên bỏ qua việc thúc bách nghĩa vụ ấy, khi gặp hoàn cảnh.
(3) Trong sự điều hành hoạt động tông đồ của các tu sĩ, các Giám Mục giáo phận và các Bề Trên dòng cần phải tiến hành với sự trao đổi ý kiến giữa đôi bên.
Ðiều 679: Khi có lý do trầm trọng, Giám Mục giáo phận có thể ngăn cấm một phần tử của dòng không được lưu trú trong giáo phận, nếu Bề Trên cao cấp đã được thông báo mà không chịu áp dụng biện pháp. Tuy nhiên phải lập tức trình sự việc lên Tòa Thánh.
Ðiều 680: Giữa các dòng khác nhau và giữa các dòng với giáo sĩ triều, cần phải cổ võ sự hợp tác có tổ chức, cũng như sự phối hợp tất cả các công tác và hoạt động tông đồ dưới sự lãnh đạo của Giám Mục giáo phận, tuy phải tôn trọng đặc tính, mục đích của mỗi dòng và luật thành lập cơ sở.
Ðiều 681: (1) Các công tác được Giám Mục giáo phận ủy thác cho các tu sĩ thì ở dưới quyền hành và sự chỉ đạo của Giám Mục ấy, tuy phải duy trì quyền của các Bề Trên của các tu sĩ theo quy tắc của điều 678, các triệt 2 và 3.
(2) Trong những trường hợp ấy, phải ký hợp đồng giữa Giám Mục giáo phận với Bề Trên có thẩm quyền trong dòng. Trong hợp đồng ấy, đừng kể các khoản khác, cần phải xác định cách minh thị và tỉ mỉ những công tác, và chế độ tài sản.
Ðiều 682: (1) Khi phải trao một giáo vụ trong giáo phận cho một tu sĩ, thì chính Giám Mục là vị bổ nhiệm, sau khi có sự đề cử hay ít là đồng ý của Bề Trên có thẩm quyền.
(2) Tu sĩ nói trên có thể bị bãi chức đã được trao phó hoặc tùy ý của nhà chức trách đã ủy thác chức vụ sau khi đã báo cho Bề Trên của tu sĩ, hoặc tùy ý Bề Trên sau khi đã báo cho kẻ ủy thác, mà không cần có bên kia thỏa thuận.
Ðiều 683: (1) Trong thời gian kinh lý mục vụ hay trong trường hợp cần thiết, Giám Mục giáo phận có thể, tự mình hay nhờ người khác, thanh tra các nhà thờ và nhà nguyện có giáo dân thường xuyên lui tới, các học đường và các cơ sở khác có tính cách tôn giáo và bác ái về tinh thần hay vật chất đã được ủy thác cho các tu sĩ. Nhưng Giám Mục không được thanh tra các học đường chỉ dành riêng cho các học sinh của dòng.
(2) Nếu nhận thấy có lạm dụng nào, và sau khi đã khuyến cáo Bề Trên dòng mà không có kết quả, thì Giám Mục có thể dùng quyền hành của mình để đối phó.
Chương VI: Các Phần Tử Rời Bỏ Dòng
Mục I: Việc Di Chuyển Sang Dòng Khác
Ðiều 684: (1) Một phần tử đã khấn vĩnh viễn không thể chuyển từ dòng mình sang dòng khác nếu không có phép của Bề Trên tổng quyền của hai dòng với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn của mỗi vị.
(2) Sau khi đã được thử luyện một thời gian ít là ba năm, đương sự có thể được nhận khấn vĩnh viễn trong dòng mới. Nếu đương sự không muốn khấn hay không được các Bề Trên có thẩm quyền chấp nhận cho khấn, thì phải trở về dòng cũ, đừng kể khi đã nhận được đặc quyền hồi tục.
(3) Ðể một tu sĩ thuộc một đan viện tự trị có thể chuyển sang một đan viện tự trị thuộc cùng một dòng hay cùng liên hiệp hay liên minh, thì điều kiện cần và đủ là sự thỏa thuận của Bề Trên cao cấp của cả hai đan viện và của công hội đan viện muốn nhận, đừng kể khi luật riêng quy định thêm các điều kiện khác. Nhưng không đòi hỏi phải khấn lại.
(4) Luật riêng phải xác định thời kỳ và cách thức thử luyện mà một người phải trải qua trước khi khấn trong dòng mới.
(5) Sự di chuyển sang một tu hội đời hay sang một tu đoàn tông đồ, hoặc từ hai nơi đó sang một dòng, cần phải có phép của Tòa Thánh.
Ðiều 685: (1) Cho đến khi được khấn trong dòng mới, các quyền lợi và nghĩa vụ mà đương sự có trong dòng cũ bị đình chỉ; còn các lời khấn thì vẫn có hiệu lực. Tuy nhiên, kể từ lúc bắt đầu thử luyện, đương sự buộc phải tuân hành luật riêng của dòng mới.
(2) Do việc khấn trong dòng mới, đương sự được sát nhập vào dòng mới; từ lúc ấy, chấm dứt các lời khấn, quyền lợi và nghĩa vụ trước đây.
Mục II: Việc Ra Khỏi Dòng
Ðiều 686: (1) Bề Trên tổng quyền, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn, khi có lý do trầm trọng, có thể cho phép một tu sĩ đã khấn vĩnh viễn được xuất viện, nhưng không quá ba năm; nếu là giáo sĩ, cần có sự thỏa thuận của Bản Quyền sở tại nơi đương sự phải lưu trú. Việc triển hạn đặc quyền xuất viện hay ban một đặc quyền quá ba năm được dành riêng cho Tòa Thánh, hoặc cho Giám Mục giáo phận nếu là dòng giáo phận.
(2) Ðối với các nữ đan tu, việc ban đặc quyền xuất viện được dành riêng cho một mình Tòa Thánh.
(3) Theo lời yêu cầu của Bề Trên tổng quyền với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn, sự xuất viện có thể bị cưỡng bách do Tòa Thánh, nếu là tu sĩ thuộc dòng giáo hoàng, hay do Giám Mục giáo phận, nếu tu sĩ thuộc dòng giáo phận; nhưng cần phải có lý do trầm trọng và phải bảo vệ lẽ phải và bác ái.
Ðiều 687: Các phần tử xuất viện được coi như không bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ bất khả kham với hoàn cảnh sinh sống mới. Ðương sự phải tùy thuộc sự coi sóc của các Bề Trên dòng của mình, và kể cả của Bản Quyền sở tại, nhất là khi đương sự là giáo sĩ. Ðương sự có thể mặc y phục của dòng, trừ khi trong đặc quyền đã định cách khác. Nhưng đương sự không có quyền bầu cử và ứng cử.
Ðiều 688: (1) Kẻ muốn ra khỏi dòng khi mãn hạn khấn, có thể bỏ dòng.
(2) Trong thời gian khấn tạm thời, vì lý do trầm trọng xin rời bỏ dòng, thì Bề Trên tổng quyền, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn, có thể ban đặc quyền bỏ dòng, nếu là dòng thuộc luật giáo hoàng. Trong các dòng thuộc luật giáo phận và trong các đan viện tự trị nói ở điều 615, đặc quyền bỏ dòng, để được hữu hiệu, cần được châu phê bởi Giám Mục của nhà mà đương sự được bổ nhiệm.
Ðiều 689: (1) Khi một phần tử đã mãn hạn khấn tạm thời, nếu có lý do chính đáng, thì Bề Trên cao cấp có thẩm quyền, sau khi đã bàn với hội đồng cố vấn, có thể loại bỏ đương sự, không cho khấn tiếp.
(2) Tật bệnh thể chất hay tâm linh, cho dù mắc phải sau khi khấn, khiến cho đương sự không có khả năng sống trong dòng, theo sự thẩm định của các chuyên viên, làm thành nguyên nhân để đương sự không được lặp lại lời khấn hay tuyên khấn vĩnh viễn, miễn là bệnh ấy không mắc phải do sự chểnh mảng của dòng hay do một công tác làm trong dòng.
(3) Tuy nhiên, nếu trong thời kỳ khấn tạm, tu sĩ đâm ra mất trí, thì cho dù không có khả năng để tuyên lời khấn mới, song đương sự không thể bị trục xuất khỏi dòng.
Ðiều 690: (1) Kẻ nào, sau khi mãn năm tập hay hết hạn khấn, đã ra khỏi dòng cách hợp lệ, thì có thể được thu nhận trở lại mà không buộc phải làm lại năm tập, do phép của Bề Trên tổng quyền với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn. Nhưng Bề Trên tổng quyền sẽ chỉ định một thời gian thử luyện thích hợp trước khi khấn tạm và khấn vĩnh viễn, dựa theo quy tắc của các điều 655 và 657.
(2) Bề Trên đan viện tự trị cùng với hội đồng cố vấn cũng có năng quyền như vậy.
Ðiều 691: (1) Ai đã khấn vĩnh viễn thì không được xin đặc quyền ra khỏi dòng khi không có lý do rất trầm trọng đã suy xét trước mặt Chúa. Ðương sự sẽ đệ đơn lên Bề Trên tổng quyền; vị này sẽ chuyển đơn lên nhà chức trách có thẩm quyền, kèm theo ý kiến riêng của mình và của hội đồng cố vấn.
(2) Việc ban đặc quyền nói trên được dành riêng cho Tòa Thánh đối với các dòng thuộc luật giáo hoàng; đối với các dòng thuộc luật giáo phận, thì đặc quyền cũng có thể ban do Giám Mục của giáo phận nơi tọa lạc của nhà tu sĩ được bổ nhiệm.
Ðiều 692: Ðặc quyền bỏ dòng, một khi đã được ban hợp lệ và thông tri cho đương sự, đương nhiên mang theo sự miễn chuẩn các lời khấn cũng như tất cả các nghĩa vụ phát xuất từ việc tuyên khấn, đừng kể khi đương sự bác bỏ đặc quyền ngay chính lúc được thông tri.
Ðiều 693: Nếu đương sự là giáo sĩ, thì đặc quyền không được ban trước khi tìm được một Giám Mục muốn nhận đương sự nhập tịch vào giáo phận hoặc ít là nhận thử nghiệm. Trong trường hợp được nhận thử nghiệm, thì mãn hạn năm năm, đương sự được đương nhiên nhập tịch vào giáo phận, trừ khi bị Giám Mục từ chối.
Mục III: Sự Trục Xuất Các Phần Tử
Ðiều 694: (1) Các phần tử sau đây được kể như đương nhiên bị trục xuất:
1. kẻ đã lìa bỏ tỏ tường về đức tin Công Giáo;
2. kẻ đã kết hôn hoặc mưu toan kết hôn, dù là hôn nhân dân sự.
(2) Trong các trường hợp ấy, sau khi đã thu thập các bằng chứng, Bề Trên cao cấp cùng với hội đồng cố vấn không phải chần chừ gì để tuyên bố sự kiện, ngõ hầu sự trục xuất trở thành minh bạch theo pháp lý.
Ðiều 695: (1) Một phần tử phải bị trục xuất do các trọng tội đã nói ở các điều 1397, 1398 và 1395; trừ khi nào đối với trọng tội nói ở điều 1395, triệt 2, Bề Trên xét thấy sự trục xuất không cần thiết và đương sự có thể sửa mình, cũng như việc bồi thường và sửa chữa gương mù có thể được thỏa mãn cách khác.
(2) Trong các trường hợp ấy, sau khi đã thu thập bằng chứng về sự kiện và sự quy trách, Bề Trên cao cấp sẽ thông báo cho đương sự biết sự tố cáo và các bằng chứng; cùng dành cho đương sự khả năng biện hộ. Tất cả hồ sơ cùng với chữ ký của Bề Trên cao cấp và lục sự, và kèm theo các câu trả lời do đương sự viết và ký, sẽ được chuyển lên Bề Trên tổng quyền.
Ðiều 696: (1) Một phần tử cũng có thể bị loại vì các lý do khác, miễn là các lý do ấy trầm trọng, xuất hiện ra ngoài, có thể quy trách và có thể chứng minh theo pháp lý, tỉ như: thường xuyên chểnh mảng các nghĩa vụ của đời tận hiến; nhiều lần vi phạm các lời khấn; cố chấp bất tuân các chỉ thị hợp pháp của Bề Trên trong vấn đề can hệ; gây gương mù trầm trọng phát sinh từ tác phong có lỗi của đương sự; cố chấp bênh đỡ hay truyền bá các học thuyết đã bị kết án bởi quyền giáo huấn của Hội Thánh; công khai tán trợ các ý thức hệ nhiễm mùi duy vật hay vô thần; vắng nhà bất hợp pháp -- theo nghĩa đã nói ở điều 665, triệt 2 -- kéo dài 6 tháng; các lý do trầm trọng tương tự mà luật riêng của dòng có thể đã xác định.
(2) Trong những trường hợp nói ở điều 696, nếu Bề Trên cao cấp, sau khi đã bàn với hội đồng cố vấn, xét rằng phải xúc tiến thủ tục trục xuất, thì:
1. hãy thu thập và bổ túc các bằng chứng;
2. khuyên bảo đương sự bằng giấy tờ hay trước mặt hai nhân chứng với lời cảnh cảo minh thị sẽ tiến hành sự trục xuất nếu đương sự không sửa mình; đương sự cần biết rõ nguyên nhân và được tự do biện hộ. Nếu lời khuyên bảo không có công hiệu, thì trong khoảng cách ít là mười lăm ngày sau, phải lặp lại lời khuyên bảo.
3. nếu lời khuyên bảo lần sau cũng không có công hiệu mà Bề Trên cao cấp, cùng với hội đồng cố vấn, nhận thấy rõ sự ngoan cố của đương sự cũng như những lời biện hộ không đủ, thì, sau khi đã qua mười lăm ngày kể từ lời khuyên bảo thứ hai không có hiệu quả, tất cả hồ sơ được gởi lên Bề Trên tổng quyền, với chữ ký của Bề Trên cao cấp, của lục sự, cùng với những câu trả lời của đương sự và chữ ký của người ấy.
Ðiều 698: Trong tất cả mọi trường hợp nói ở điều 695 và 696, phải luôn luôn tôn trọng quyền lợi của đương sự được liên lạc thẳng với Bề Trên tổng quyền và trực tiếp trình bày với ngài các lời biện hộ.
Ðiều 699: (1) Bề Trên tổng quyền, cùng với hội đồng cố vấn, sẽ tiến hành, cách tập đoàn, việc cân nhắc cẩn thận các bằng cớ, lý chứng và biện hộ. Ðể thủ tục được hữu hiệu, cần phải có ít là bốn nhân viên của hội đồng cố vấn. Qua việc bỏ thăm kín, nếu họ quyết định trục xuất, thì sẽ thảo nghị định trục xuất. Nghị định này, để được hữu hiệu, cần phải bao gồm, ít là sơ lược, các lý do về luật pháp cũng như về sự kiện.
(2) Trong những đan viện tự trị, nói ở điều 615, quyền quyết định việc trục xuất thuộc Giám Mục giáo phận. Bề Trên phải đệ hồ sơ, được hội đồng cố vấn chấp thuận, lên Giám Mục.
Ðiều 700: Nghị định trục xuất và hồ sơ phải được chuyển lên Tòa Thánh, và nghị định chỉ có hiệu lực khi được Tòa Thánh phê chuẩn. Nếu là dòng thuộc luật giáo phận, việc phê chuẩn thuộc quyền Giám Mục của giáo phận nơi tọa lạc nhà mà đương sự được bổ nhiệm. Ðể nghị định được hữu hiệu, cần phải nêu rõ quyền lợi của đương sự được thượng cầu lên nhà chức trách có thẩm quyền trong vòng mười ngày kể từ lúc nhận được thông trị. Việc thượng cầu có hậu quả đình chỉ.
Ðiều 701: Do sự trục xuất hợp lệ, đương nhiên chấm dứt các lời khấn cũng như các quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh từ việc tuyên khấn. Tuy nhiên nếu đương sự là giáo sĩ, thì không được thi hành chức thánh cho đến khi nào tìm được một Giám Mục nhận họ vào giáo phận, sau một thời gian thử luyện theo quy tắc của điều 693, hoặc ít là cho phép họ thi hành chức thánh.
Ðiều 702: (1) Ai đã ra khỏi dòng cách hợp lệ hoặc bị trục xuất khỏi dòng cách hợp lệ, thì không được đòi hỏi gì nơi dòng về bất cứ công tác nào đã làm trong dòng.
(2) Tuy nhiên, dòng phải giữ lẽ phải và bác ái Phúc Âm đối với phần tử lìa bỏ dòng.
Ðiều 703: Trong trường hợp xảy ra gương mù trầm trọng bên ngoài hoặc trước một hiểm họa rất nguy hại cho dòng, thì một phần tử có thể bị đuổi ra khỏi nhà tức khắc, do Bêà Trên cao cấp, hoặc do chính Bề Trên địa phương với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn, nếu có nguy hiểm do việc trì hoãn. Nếu cần, Bề Trên cao cấp sẽ lo liệu lập thủ tục trục xuất theo quy tắc pháp luật, hoặc trình nội vụ lên Tòa Thánh.
Ðiều 704: Về các phần tử lìa bỏ dòng vì bất cứ lý do nào, cần phải đề cập đến trong bản tường trình lên Tòa Thánh đã nói ở điều 592, triệt 1.
Chương VII: Các Tu Sĩ Ðược Thăng Chức Giám Mục
Ðiều 705: Tu sĩ nào được thăng chức Giám Mục thì vẫn còn là phần tử của dòng, nhưng do lời khấn vâng lời, họ chỉ phải tùy thuộc duy một mình Ðức Giáo Hoàng. Tu sĩ ấy không bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ mà chính mình xét thấy cách khôn ngoan rằng chúng không thể am hợp với điều kiện mới.
Ðiều 706: (1) Tu sĩ nói trên:
1. nếu do lời khấn, đương sự mất quyền làm chủ tài sản, thì bây giờ họ được hưởng quyền xử dụng, hưởng dụng và quản trị các tài sản đến sau đó. Tuy nhiên, đối với Giám Mục giáo phận và các vị khác đã nói ở điều 381, triệt 2, thì các tài sản được thủ đắc cho Giáo Hội địa phương; còn đối với các vị khác, thì các tài sản được thủ đắc cho dòng hay cho Tòa Thánh, tùy theo dòng có khả năng chấp hữu hay không.
2. nếu do lời khấn, đương sự không mất quyền làm chủ tài sản, thì quyền dụng ích, hành dụng và quản trị các tài sản có trước đó sẽ được hồi phục. Còn các tài sản đến sau, thì được thủ đắc toàn vẹn.
3. trong cả hai trường hợp, đương sự phải xử dụng các tài sản theo ý muốn của người dâng cúng, khi chúng được thủ đắc không vì danh nghĩa cá nhân.
Ðiều 707: (1) Tu sĩ làm Giám Mục khi hồi hưu có thể chọn nơi cư ngụ cho mình kể cả ở ngoài nhà của dòng mình, trừ khi Tòa Thánh đã dự liệu cách khác.
(2) Về việc cấp dưỡng thích hợp và xứng đáng cho đương sự, trong trường hợp họ đã phục vụ một giáo phận, thì phải giữ điều 402, triệt 2, trừ khi dòng muốn lo liệu việc cấp dưỡng ấy. Nếu không, Tòa Thánh sẽ liệu cách khác.
Chương VIII: Các Hội Nghị Các Bề Trên Cao Cấp
Ðiều 708: Các Bề Trên cao cấp có thể tụ họp nhau cách hữu ích qua các hội nghị hay hội đồng, ngõ hầu hợp lực với nhau để cộng tác vào việc theo đuổi mục tiêu của mỗi dòng cách mỹ mãn hơn, tuy vẫn giữ sự tự trị, đặc tính, và tinh thần của mỗi dòng; hoặc để thảo luận các vấn đề chung; hoặc để thiết lập sự phối trí và hợp tác thích hợp đối với các hội đồng Giám Mục cũng như đối với từng Giám Mục.
Ðiều 709: Các hội nghị của các Bề Trên cao cấp cần có quy chế được Tòa Thánh phê chuẩn. Tòa Thánh là thẩm quyền duy nhất có thể thành lập hội nghị, ban cấp tư cách pháp nhân, và giữ quyền lãnh đạo tối cao của hội nghị.
(Nhóm Dịch Thuật Việt ngữ Bộ Giáo Luật)