Giải Nghĩa Lời Chúa Năm B

Những Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật

của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chúa Nhật 17 Thường Niên Năm B

Quyền Năng Của Thiên Chúa

(Sách Các Vua II 4,42-44; Thư Êphêsô 4,1-6; Tin Mừng Yoan 6,1-15)

 

Phúc Âm: Ga 6, 1-15

"Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".

Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới.

Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút". Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn.

Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.

Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Ðấng tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.

 

Suy Niệm:

Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm B

Sách Các Vua II 4,42-44; Thư Êphêsô 4,1-6; Tin Mừng Yoan 6,1-15

Chúng ta có thể nghĩ cả ba bài đọc hôm nay muốn chúng ta suy nghĩ về Thánh Thể là bánh hằng sống có sức nuôi cả nhân loại để họ được hợp nhất nên một. Nhưng không tất nhiên phải hiểu như vậy. Chúng ta cứ thử đọc lại từng bài. Sẽ có nhiều tư tưởng và chân lý phong phú không ngờ, làm giàu đời sống hằng ngày của chúng ta.

 

1. Bài Học Về Quyền Năng Của Thiên Chúa

Dĩ nhiên phụng vụ chọn đoạn sách Các Vua hôm nay để dẫn vào bài Tin Mừng. Nhưng chính đoạn sách này cũng có giá trị của nó. Và giáo lý ở đây cũng không kém phần sâu sắc.

Ðây là một câu chuyện lớn và là một phép lạ. 20 ổ bánh mà dọn được cho 100 người ăn no mà còn dư nữa. Thế mà tác giả hầu như không có một hứng thú nào khi kể lại một việc như thế. Người ta muốn ông phải thuật truyện sống động hơn và phải thêm nhiều chi tiết nữa. Phải nói người của Thiên Chúa tên là gì? Ðang ở đâu? Vì sao lúc ấy lại đang có 100 người ở tại chỗ đó? Và kẻ mang bánh từ nơi xa đến tên họ thế nào? Già hay trẻ? v.v... Dường như đây không phải là một bài thuật truyện. Tác giả viết vắn tắt và thiếu hứng khởi... đang khi lẽ ra phép lạ này phải làm ông kinh ngạc và gây chấn động, như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Người ta đã cố gắng bổ khuyết những thiếu sót trên đây bằng cách nại đến văn mạch... Quả vậy, nếu đọc nối với đoạn trên, người ta có thể xây dựng lại câu chuyện như sau:

Bấy giờ Êlisê đã trở lại Gilgal gần Yêrikô trong xứ đang có nạn đói. Con cái tiên tri (tức là môn đồ của nhà tiên tri) đang ngồi trước mặt ông để nghe thuyết giáo. Chợt một người đến. Anh ta từ Shalishah, tức khoảng 70 cây số lại đây. Anh đến dâng bánh đầu mùa cho Thiên Chúa như luật dạy (Lêvi 23,20). Êlisê dùng quyền tiên tri, tương đương với quyền tư tế, truyền lấy bánh đó cho môn đồ ăn. Họ thì đông mà lại đang đói, thì 20 cái bánh kia sẽ thấm vào đâu? Êlisê bảo cứ dọn ra, vì lời Chúa phán: chúng sẽ ăn mà còn dư nữa. Và đã xảy ra như vậy thật.

Nhưng dù có xây dựng lại câu truyện như thế chúng ta vẫn chưa giải thích được thắc mắc trên đây: tại sao một phép lạ lớn như vậy đã không khiến được ngòi bút của tác giả linh hoạt và hào hứng hơn? Cuối cùng, đọc thêm nhiều đoạn khác trong quyển sách Các Vua này, người ta mới thấy rằng: khi kể lại nhiều phép lạ trong cuộc đời của Êlisê, tác giả không muốn kể truyện, nhưng chỉ ưu tư dạy đạo... Ông coi thường các nét tả và chú ý tới giáo thuyết. Ở đây cũng như trong nhiều câu truyện về Êlisê, ông muốn làm nổi bật nhà tiên tri này lên để tỏ ra vị này không kém gì Êlia là nhà tiên tri lừng danh đã chọn Êlisê để kế nghiệp. Tác giả phải đề cao các môn đệ chứng tỏ thần trí của Êlia vẫn còn tiếp tục và phong trào tiên tri trong dân Chúa thật đáng kính phục. Bài của tác giả không muốn cho chúng ta chú trọng tới phép lạ nhưng tới các nhà tiên tri, tới quyền năng của ông, tức là tới sức mạnh của Lời Chúa trong con người được gọi làm tiên tri. Rõ ràng chính Êlisê không làm phép lạ. Ông tuyên bố: Lời Chúa phán thế này: chúng sẽ ăn mà còn dư nữa. Và đã xảy ra như vậy, thì người ta phải kết luận: Lời Chúa, tức là chính Chúa đã làm phép lạ, củng cố uy tín cho nhà tiên tri.

Như vậy câu truyện trên đây có thể được coi như là một "hạnh thánh". Tác giả không muốn làm văn khi thuật truyện. Ông quan tâm làm nổi bật tính cách thiêng thánh. Những nét tả trở thành không quan trọng. Chính sự can thiệp của Thiên Chúa vào đời sống con người là điều phải ngưỡng mộ. Ở đây, chúng ta phải bỏ hết mọi chi tiết để nhớ rằng: Thiên Chúa đã cho một người ở xa đến, mang một ít bánh nuôi sống một số đông người đang đói để tăng uy tín cho người của Thiên Chúa và cho phong trào tiên tri ở trong dân Người.

Những ý tưởng tốt đẹp của bài sách Các Vua có thể dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay.

 

2. Quyền Năng Của Chúa Ðã Tỏ Hiện

Như trên đã nói, chúng ta có thể hiểu bài Tin Mừng này về Thánh Thể. Nhưng chúng ta hãy xem câu kết: "Thấy phép lạ Ngài vừa làm, người ta nói: hẳn Ngài là vị tiên tri. Ðấng sẽ đến trong thế gian". Như vậy hiệu quả trước mắt và cũng là ý nghĩa đầu tiên của phép lạ bánh hóa ra nhiều này là mạc khải cho người ta thấy quyền năng của Ðức Yêsu, và do đó nguồn gốc cao siêu của Người. Chúng ta không chối và chúng ta sẽ làm chứng, tác giả bài Tin Mừng hôm nay khi kể lại câu truyện phép lạ đã muốn có nhiều gợi ý về Thánh Thể. Nhưng đó là ý tứ thứ hai, có sau và tựa vào ý tứ thứ nhất là mạc khải thêm về con người Ðức Yêsu.

Thật vậy, nếu đọc cả bốn sách Tin Mừng, chúng ta có thể ngạc nhiên vì việc hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng là phép lạ duy nhất được cả bốn sách cùng thuật lại. Những phép lạ khác có thể được hai hoặc ba sách cùng nói, nhưng chẳng bao giờ được bốn sách cùng kể. Ðiều này cho thấy phép lạ hóa bánh ra nhiều có giá trị đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong lời giáo huấn và đời sống của Hội Thánh thời khai nguyên.

Nhưng một truyện được bốn tác giả viết lại, không ít thì nhiều sẽ có những sắc thái và những chi tiết hơi khác nhau tuỳ theo người viết. Chẳng hạn, không có tác giả nào như Yoan đã có một bài suy tư dài theo sau bài tường thuật phép lạ. Và cũng chẳng giống ai, ông để cho một mình Ðức Yêsu đóng vai chủ động và hầu như độc diễn trong câu truyện này. Nơi ba tác giả kia, các tông đồ như được kêu mời hợp tác tích cực. Nào là có sáng kiến đến xin Ðức Yêsu cho dân về để mua thức ăn (Mt 14,15); nào là bảo dân ngồi xuống từng hàng 100 người (Mc 6,39-40); nào là cầm bánh đi phát cho người ta (Lc 9,16). Theo Yoan, một mình Ðức Yêsu làm tất cả; vì ông muốn mọi cái nhìn của chúng ta phải quy về một mình Người. Sách của ông chỉ muốn làm nổi bật một mình Ðức Yêsu: mỗi nhân vật khác chỉ đóng vai phụ.

Ở đây ông cũng nói đến tên tông đồ Philipphê và Anrê, em của Simôn Phêrô. Nhưng ông này quê quán ở Bétsaiđa, tức là địa phương mà Ðức Yêsu đang ở khi xảy ra câu truyện này. Có lẽ Người đã trao đổi với hai người địa phương để làm cho người ta thấy rõ hoàn cảnh thật là vô vọng, vì Người đã biến trước việc Người sắp làm. Họ trình Người: "200 đồng quan bánh cũng không đủ cho họ để mỗi người được một chút đỉnh". Số tiền lớn lắm chứ. Nó ngang với 200 công nhật. Bòn vét đâu cho ra nơi hoang vắng này? Và nếu có số tiền ấy, cũng mua được đâu ra bánh? Tại chỗ, nơi có khoảng 5,000 người tụ họp mà cũng chỉ có một đứa bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá. Chúng ta có thể coi em nhỏ này là "đứa bé bán bánh mì" trong vùng, vì chỉ có một mình em thôi. Và phải có Anrê quê quán ở đây mới tinh mắt nhận ra.

Nhưng ngần ấy thì thấm vào đâu! Ðó là thực trạng của hoàn cảnh lúc bấy giờ. Philipphê và Anrê đã đóng vai phụ để làm nổi bật công việc Ðức Yêsu sắp làm.

Tác giả Yoan còn chú thích: hôm ấy Ðức Yêsu vượt qua biển sang bên kia bờ; một đám đông dân chúng đi theo Người; và bấy giờ lại sắp đến lễ Vượt quan của người Dothái. Có lẽ chẳng khi nào tác giả viết một mạc khải nào lớn về Ðức Yêsu mà lại không đặt nó vào trong bối cảnh một ngày đại lễ. Ðiều này làm chứng Người có tinh thần phụng vụ; và chúng ta phải hiểu các ý tưởng của Người theo phụng vụ nữa. Ðàng khác các ngày lễ phụng vụ lại gợi lên lịch sử dân Chúa và lịch sử cứu độ. Thế nên sách của tác giả Yoan đòi được giải thích cả trong chiều hướng lịch sử thánh cũng gọi là nhiệm cục cứu thế.

Vậy ở đây, Yoan viết hôm ấy là khoảng trước lễ Vượt qua, và Ðức Yêsu vừa mới vượt biển và sang bên kia bờ, có đám đông dân chúng theo sau... Tác giả không muốn gợi lại hình ảnh một Môsê đưa dân vượt qua Biển Ðỏ sao? Và việc hóa bánh ra nhiều vào ngày trước lễ Vượt qua không muốn gợi lên ý tưởng bí tích Thánh Thể đã được thiết lập trước khi Ðức Yêsu vượt qua đời này để về cùng Chúa Cha là gì? Ý tứ phụng vụ và ám chỉ lịch sử thánh tỏ ra rõ rệt.

Chúng ta chưa vội suy nghĩ về bí tích Thánh Thể. Căn cứ vào câu kinh ngạc người ta thốt ra sau khi thấy phép lạ: "Hẳn Ngài là vị tiên tri, Ðấng sẽ đến trong thế gian", chúng ta hãy theo gợi ý của tác giả Yoan và so sánh Ðức Yêsu với Môsê.

Bấy giờ chúng ta sẽ phải nhớ lại sách Xuất hành đoạn 16 hay sách Dân số đoạn 11 kể chuyện dân Dothái sau khi vượt qua Biển Ðỏ để đi vào sa mạc. Họ nhớ bánh nhớ thịt của đất Aicập. Họ trách móc Môsê đã dẫn họ đến đây để họ chết đói, chết khát. Môsê chỉ còn biết đập đầu ăn vạ với Chúa. Ngài mà không cứu, chắc mạng ông sẽ chẳng còn. Chúa bảo ông cứ tuyên bố sẽ có thịt có bánh. Môsê phản ứng như các tông đồ hôm nay: ở nơi cô tịch này lấy đâu ra bánh ra thịt? Ðàng khác đểnuôi đám dân đông đảo này, phải mấy bầy súc vật lớn nhỏ? Nhưng rồi Chúa đã ban Manna và chim cút... khiến dân khiếp sợ quyền năng của Chúa và kính nể uy tín của Môsê. Từ đó hình ảnh một Môsê ban bánh thịt cho dân trong cơn quẫn bách, trở thành một tiêu chuẩn đển dân mơ ước về Ðấng tiên tri sẽ đến lãnh đạo dân ở thời thiên sai. Và câu truyện kể về Êlisê trong sách Các Vua muốn nói lên điều ấy. Dân trông chờ một vị tiên tri như Môsê sẽ đến dẫn đưa họ vượt qua cảnh đời đau khổ và tội lỗi để đi vào thời đại hạnh phục và sung túc.

Hôm nay vị tiên tri ấy đã đến nơi con người Ðức Yêsu. Người ngước mắt lên thấy dân, một dân đang cần được hướng dẫn. Người làm lại cử chỉ Môsê đã làm xưa, nhưng làm một cách siêu việt hẳn. Người nuôi dân một cách dễ dàng vì với năm chiếc bánh và hai con cá, Người nuôi cả khoảng 5,000 người. Mà lại còn dư, thu lại được 12 giỏ. Dân thấy ngay Người là Môsê mới, nên họ kêu lên: hẳn thật Ngài là vị tiên tri, Ðấng sẽ đến trong thế gian. Họ muốn rước Người như một Môsê đến làm vua ở đời này. Thế nên Người vội bỏ họ, và rút lui lên núi một mình.

Nếu thế thì rõ rệt, bài Tin Mừng hôm nay không có ý nói nhiều về Thánh Thể, nhưng chủ ý mạc khải Ðức Yêsu là Môsê mới, đến lãnh đạo dân; nhưng dân chưa hiểu Người... Người vượt xa Êlisê vì câu truyện bánh hóa ra nhiều của ông này thật là nhạt nhẽo sánh với phép lạ Ðức Yêsu vừa làm. Người là vị tiên tri đích thực của Thiên Chúa đến cứu độ trần gian.

Nói như vậy, chúng ta vẫn không muốn phủ nhận bài Tin Mừng hôm nay có một ý nghĩa đưa về Thánh Thể. Ðặc biệt những câu: Ðức Yêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, phát ra cho người ta... và bảo phải thu lại các vụn dư kẻo hư đi... đều là những câu văn phụng vụ Thánh Thể. Tác giả Yoan viết như vậy để đề cao bí tích Thánh Thể ở thời đại ông và để giới thiệu bài suy tư tiếp nối đoạn Tin Mừng này, mà chúng ta sẽ suy nghĩ vào các Chúa nhật sau.

Hôm nay chúng ta hãy bằng lòng với lý tưởng: Ðức Yêsu là vị tiên tri mà Cựu Ước hằng hứa hẹn và Êlisê là hình ảnh rất nhạt nhẽo; Người là Môsê mới đến lãnh đạo dân ở bình diện khác hẳn với Môsê ngày trước. Người không hóa bánh ra nhiều để nuôi dân khỏi đói như Êlisê và Môsê, nhưng để bày tỏ uy quyền của Người một cách khác thường để người ta tin Người. Tất cả những điều ấy còn thiết thực đối với chúng ta, khiến giờ đây chúng ta hãy dựa vào bài Thánh Thư để biết đáp trả như thế nào.

 

3. Chúng Ta Hãy Sống Trong Hiệp Nhất

Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy đi đứng sao cho xứng với ơn Chúa đã kêu gọi chúng ta. Lời kêu gọi này chứng tỏ ơn gọi Kitô hữu có những đòi hỏi mà chúng ta phải có thiện chí và quyết tâm thi hành. Chắc chắn những đòi hỏi đó không ít; nhưng tất cả chỉ để sống xứng với ơn gọi. Chúng ta phải nắm vững ơn gọi này là gì để biết chấp nhận và thi hành các đòi hỏi của nó.

Ðối với thánh Phaolô, ơn gọi Kitô hữu biến chúng ta nên chi thể của một thân thể duy nhất mà chính Ðức Kitô là đầu. Nó chính là ơn gọi của Israel trở thành dân Chúa, là ơn gọi dân ngoại vào hưởng sản nghiệp các lời hứa, là ơn gọi mọi người trở nên con cái Thiên Chúa. Nhưng tất cả những điều này chỉ xảy ra nhờ Ðức Kitô và trong Ðức Kitô. Thế nên, nói rằng ơn gọi Kitô hữu muốn làm cho chúng ta trở thành chi thể của một thân thể duy nhất mà Ðức Kitô là đầu, nói như vậy là nói vắn tắt và gọn gàng hơn cả. Và đó là điều mà Ðức Yêsu muốn làm trong bài Tin Mừng hôm nay và được bài sách Các Vua dẫn vào. Người muốn mạc khải Người là vị Tiên tri Thiên Chúa sai đến, để làm một Môsê mới, kết nạp mọi người nên một dân mới có sự sống mới và lý tưởng mới.

Nếu ơn gọi của chúng ta là thế, thì muốn đáp lại chúng ta hãy sống hiệp nhất là điều rất phải. Một chi thể không thể ở lẻ loi. Nó phải liên kết chặt chẽ vào thân mình. Và vì thế chúng ta phải khiêm tốn, hiền từ đại lượng và chịu đựng để duy trì sự hiệp nhất. Ðó là những đòi hỏi tất yếu không cần chứng minh. Tuy nhiên thánh Phaolô còn khai triển thêm để chúng ta thấy ơn gọi của chúng ta cao quý như thế nào.

Người nói hiện tại chúng ta đã được kêu gọi vào cùng một niềm hy vọng, tức là Nước Trời, sản nghiệp của bao lời hứa mà việc tuôn đổ Thánh Thần xuống trong chúng ta là dấu hiệu và là bảo chứng vững vàng. Chúng ta được như vậy nhờ cùng một niềm tin, một phép rửa của một Ðức Yêsu Kitô để chúng ta hết thảy được một Thiên Chúa là Cha yêu mến của tất cả mọi người.

Thánh Phaolô nhắc đến ba nhân đức Tin, Cậy, Mến và Ba Ngôi Cha, Con và Thánh Thần. Không có quan niệm và từ ngữ nào tốt đẹp hơn nữa để diễn tả ơn gọi và lý tưởng của chúng ta. Tất cả đòi hỏi chúng ta một điều, là sống hiệp nhất.

Giờ đây chúng ta đang ở trong bầu khí hiệp nhất này. Chúng ta tham dự thánh lễ để thấy Ðức Kitô đến như vị tiên tri của Thiên Chúa và như một Môsê mới. Người ban thịt máu thánh kết hợp chúng ta vào Người và khắng khít với nhau, để chúng ta được tràn đầy Thánh Thần, hầu yêu mến một Cha chúng của mọi người thắm thiết hơn và sống cuộc đời siêu nhiên, thánh thiện hơn, xứng đáng làm con Thiên Chúa. Chúng ta hãy giục lòng tin yêu mạnh mẽ để cử hành bí tích hiệp nhất của thánh lễ này hầu sau đó sẽ thể hiện tinh thần hiệp nhất sâu sắc hơn trong đời sống hằng ngày.

 

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa

của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page