Giải Nghĩa Lời Chúa Năm C
Những Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chúa Nhật 5 Phục Sinh Năm C
Một Lệnh Mới: "các con hãy yêu thương nhau"
(Công vụ tông đồ 14,21-27; Khải huyền 21,1-5; Gioan 13,31-35)
Phúc Âm: Ga 13, 31-33a. 34-35
"Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".
Suy Niệm:
Khung cảnh tiệc ly của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta có cảm tưởng phụng vụ muốn chuẩn bị lễ Chúa lên trời sắp tới. Và bài sách Công vụ được chọn để ăn ý với bài Tin Mừng cũng nói về việc các tông đồ từ giã các giáo đoàn. Nhưng trong Kitô giáo, tin tưởng và bình an tràn ngập cả những trường hợp như thế. Những cuộc ra đi kể trong các bài Kinh Thánh kia còn hứa hẹn và bảo đảm một sự sống mới trong tương lai mà bài sách Khải Huyền hôm nay đã mở ra cho chúng ta thấy. Nếu được phép trình bày lại một cách đơn giản, giáo huấn của Lời Chúa trong thánh lễ này, chúng ta có thể nói:
- Khi ra đi, Chúa đã để lại một lệnh mới.
- Các tông đồ đã thi hành.
- Một viễn tưởng về tương lai đang mở ra trước mắt mọi người.
Tức là chúng ta sẽ lần lượt suy niệm bài Tin Mừng rồi bài sách Công vụ và sau cùng đến bài Khải Huyền.
1. Một Lệnh Mới
Bài Tin Mừng ngắn, nhưng không dễ. Nó có hai phần rõ rệt, tự nhận là lời của Chúa nói với môn đệ trong bữa tiệc ly sau khi Giuđa đã bỏ bàn ăn ra ngoài.
Chúng ta còn nhớ hôm ấy Chúa tổ chức một bữa từ giã các môn đệ trước khi Người ra đi chịu chết. Theo tác giả Gioan, trong bữa ăn biệt ly ấy, Chúa đã rửa chân cho môn đệ; và báo cho họ biết một người trong bọn họ sẽ nộp Người. Lập tức họ xôn xao bàn tán: ai là kẻ phản phúc ấy? Và người nào cũng hỏi Thầy: "Có phải con không?" Giuđa Iscariốt cũng hỏi. Người trả lời: "Phải!" Nhưng không môn đệ nào nghe thấy. Sau đó, Người bảo y: "định làm gì thì làm đi". Thế là y đứng dậy, ra khỏi bàn ăn. Tác giả Gioan viết rằng: Bấy giờ trời tối. Trời tối ở bên ngoài phòng ăn và ở trong lòng Giuđa đang lao mình đi trong bóng tối... chứ ở trong phòng tiệc ánh đèn vẫn làm sáng các khuôn mặt. Và chính lúc ấy, theo lời Gioan kể, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Bây giờ Con Người đã được tôn vinh...
Ðọc vội, chúng ta có thể nghĩ Người nói như vậy để diễn tả một sự nhẹ nhõm của tâm hồn sau khi tên phản bội ra đi khuất mắt. Nhưng đọc lại chúng ta không thấy như thế. Chúng ta cũng có thể nghĩ, với những lời kia Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ về vinh quang thánh giá mà Người sắp được vì tên phản phúc đã đi làm việc của y. Người có thể thấy trước vinh quang ấy đã đến rồi, vì thật ra đối với Người mầu nhiệm thánh giá là một sự đã rồi và Người đã chấp nhận hoàn toàn khi khai mạc "giờ" của Người đã đến với bàn tiệc hôm nay. Nhưng tại sao sau đó Người lại bảo vinh quang ấy sẽ đến và Chúa Cha sẽ tôn vinh Người? Khó khăn này đã khiến các học giả đưa ra một giả thiết mà chắc chúng ta phải coi là thật.
Giả thiết này nghĩ rằng những lời Chúa Giêsu vừa tuyên bố phải được nghe sau phục sinh. Nói đúng hơn đây là những ý tưởng có sau phục sinh, nhưng đã được đem đặt lên trước. Nó không ăn ý lắm với văn mạch. Và người ta phải kết luận, nó đã được nhét vào sau. Người làm công việc này có thể biện minh rằng: đã nói đến việc Giuđa đi nộp Chúa thì phải gợi ngay đến ý tưởng vinh quang để ở đâu có mầu nhiệm tử nạn cũng có mầu nhiệm phục sinh. Chỉ có điều người ấy đã khiêm nhường đến nỗi không dám tạo ra một câu văn mới, mà chỉ dám lấy lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, một câu văn phụng vụ ca tụng Chúa Kitô, đem đặt vào chỗ này.
Nói vắn tắt hơn, những câu đầu bài Tin Mừng hôm nay không phải là những câu Chúa nói trong buổi tiệc ly. Một người đã đem những lời đó vào chỗ này để nói lên niềm tin vào Chúa phục sinh khi thấy Giuđa bỏ bàn ăn ra đi với ý định nộp Người. Và chính vì nội dung phục sinh của những lời này mà phung vụ hôm nay trích đọc cho chúng ta.
Ðức tin của Hội Thánh tuyên xưng ở đây rằng việc Ðức Giêsu chịu nộp, chịu chết đã tôn vinh Thiên Chúa, để thiên hạ thấy Chúa Cha yêu thương loài người đến nỗi đã thí ban Con Một yêu quí của Người để cứu chuộc chúng ta; cũng như để thiên hạ thấy quyền năng của Thiên Chúa sẽ phục sinh Ðức Giêsu Kitô.
Và việc này Thiên Chúa đã làm rồi. Ðức Giêsu đã chết và sống lại. Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Ðức Kitô; đồng thời chính Thiên Chúa cũng đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô trong chính mình Người khi chấp nhận sự vâng phục của Ngài mà đưa Ngài lên trên mọi danh hiệu dù ở trên trời hay ở dưới đất và trong gầm biển. Chính mầu nhiệm tử nạn phục sinh đã tôn vinh Thiên Chúa cũng như đã tôn vinh Ðức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ðức Giêsu Kitô và Ðức Giêsu Kitô đã được tôn vinh trong Thiên Chúa.
Ðó là đức tin của Hội Thánh về mầu nhiệm Phục Sinh. Nhưng chưa hết, vì mới khởi đầu. Vinh quang phục sinh sẽ chỉ tỏ hiện hoàn toàn khi Chúa Giêsu trở lại. Và vì thế bài Tin Mừng hôm nay viết: Ngay đây Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài. Chỉ bấy giờ khi Ngài trở lại trong vinh quang, tất cả vinh quang mà Thiên Chúa ban cho Ngài mới tỏ hiện hết vì bấy giờ sẽ có đầy đủ tạo vật được cứu chuộc để bày tỏ ảnh hưởng mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn phục sinh bao quát, rộng rãi và sâu xa chừng nào. Nhưng từ nay đến ngày ấy, lịch sử luôn có thể cảm nghiệm ngay đây Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài, vì Danh Ngài mỗi ngày được biết tới và được ca tụng. Nhờ đâu và thế nào, thì chúng ta có thể cứ đọc tiếp bài Tin Mừng.
Những lời này đúng là những Lời Chúa nói với bàn tiệc ly, nếu chúng ta căn cứ vào văn mạch. Hôm ấy, Chúa đã rửa chân cho môn đệ. Người con lập phép Thánh Thể. Người tâm sự với môn đệ về tình yêu thương của Người. Bầu khí thật thuận lợi để Người ban "một điều răn mới" vì chúng ta đừng quên Người mới ký một giao ước mới trong chén máu của Người. Giao ước cũ đã có nhiều giới răn. Tất cả đã qua rồi. Bây giờ khởi sự chế độ của giao ước mới, với chỉ một điều răn mà thôi, là "các ngươi hãy yêu mến nhau".
Làm sao có thể gọi là điều răn mới được? Lề luật đã dạy và vẫn dạy như thế. Có thể nói nhiều bậc thánh hiền trong các dân tộc đã chủ trương tứ hải giai huynh đệ. Làm sao Chúa Giêsu có thể bảo luật anh em yêu thương nhau là điều răn mới và là điều răn của Người.
Có người giải nghĩa rằng: Ðiều răn này mới vì đối tượng của nó là mọi người, kể cả kẻ thù. Khá Lắm! Vì thật sự đây là một nét mới và độc đáo. Tuy nhiên lối giải thích ấy cũng chưa đáng tin hoàn toàn. Tự bản chất, nó chưa có khả năng thuyết phục tức khắc. Ðã có người khuyên đọc tiếp Lời Chúa phán hôm ấy, khi Người ban điều răn mới, để thấy tính cách mới mẻ được nêu ngay trong lời nói sau đây: "Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau".
Chắc chắn rồi, Thiên Chúa, và cụ thể là Ðức Giêsu có lối yêu đặc biệt, như không có "Chúa" nào yêu như thế và không có ai đã sống ở trần gian này yêu như Ðức Giêsu Kitô. Nhưng làm sao loài người chúng ta có thẻ bắt chước được những kiểu cách ấy?
Cuối cùng có lẽ chúng ta cứ đọc hết Lời Chúa dạy hôm nay; biết đâu chân lý lại sẽ không sáng lên nơi những lời cuối cùng. Chúa bảo môn đệ: "Chính nơi đây điều này mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta, ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến nhau".
Dường như Chúa đã hứa ban cho tình yêu của môn đệ một dấu hiệu đặc biệt: ấy là khi họ yêu mến nhau thì người ta biết họ là môn đệ của Người. Và nếu vậy, chúng ta có thể nói như sau về điều răn mới của Chúa ban hôm nay. Người đang nói với môn đệ trong bàn tiệc ly, hình ảnh của Nước trời, và Người bảo họ hãy yêu mến nhau. Nhiều lúc khác, Người đã dạy người ta phải yêu thương mọi người, kể cả thù địch.
Ðó là lòng bác ái phổ cập. Ở đây có lẽ Người không nói đến tình thương phổ quát đó. Người nói đến tình yêu mến giữa các môn đệ, giữa những môn đệ, tín hữu của giao ước mới trong máu Người. Họ phải yêu mến nhau bằng một tình yêu mới, tình yêu mà Người đã biểu lộ ra cho họ khi ở với họ. Họ đã thấy, họ đã kinh nghiệm, họ vừa chứng kiến tình yêu ấy "đi đến cùng" là bỏ áo xuống, cầm thau nước đi rửa chân cho họ, tức là bỏ mạng sống mình để họ được sạch và đồng bàn Nước trời với chính Người. Người bảo họ phải yêu mến nhau như vậy, và như vậy là mới; và như vậy thì người ta biết họ là môn đồ của Người. Thế nên Gioan tác giả của bài Tin Mừng hôm nay sẽ lần viết trong thư của người để giải thích về điều răn mới. Người nói: Nơi điều này ta biết được lòng mến: là Ðấng ấy đã thí mạng mình vì ta, và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em (1Ga 3,16).
Lòng mến này nhất định mới. Nó không dễ, nên đừng lạm dụng và "đừng yêu mến bằng lời nói, bằng đầu lưỡi, nhưng là bằng việc làm thật sự" (3,18) mà việc làm ở đây không dễ...
Tuy nhiên không ai được ngã lòng. Chúa ra lệnh thì Người ban khả năng, Người đã ban khả năng dồi dào khi tuôn đổ Thánh Thần. Từ ngày đó lòng mến của điều răn mới bốc cháy mọi nơi. Hôm nay chúng ta có thể nhìn thấy nó trong con người các tông đồ của bài sách Công vụ.
2. Thi Hành Lệnh
Phaolô và Barnaba đi giảng tin mừng. Các ông trẩy đi từ Antiôkia là nơi Thánh Thần đã dạy Hội Thánh phải để hai ông đi làm công việc của Chúa. Các ông đi hết thành này đến thành khác, từ đảo này sang đảo kia; lao nhọc, khó khăn, lo lắng, thử thách, xỉ nhục, tù đày, các ông đã chịu và chịu vui vẻ vì danh Chúa và vì yêu mến các linh hồn. Thật sự các ông đã yêu dân ngoại như Chúa đã yêu các ông. Các ông đã thi hành điều răn mới. Và người ta đã nhìn nhận rõ các ông là môn đồ của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã yêu mến môn đồ cho đến cùng nên đã phó nộp mình vì họ.
Không thể bảo đời các tông đồ là sung sướng được. Thế mà vừa chân ướt chân ráo lên khỏi thuyền bè tròng trành sóng gió, các ông đã để giờ khích lệ tâm hồn người ta và khuyên nhủ họ kiên vững trong đức tin. Có thể nói, các ông đối với người ta như Chúa Giêsu đối với các ông ở bàn tiệc ly; Chúa đã quên sự chết của mình để khuyên nhủ môn đồ kiên vững. Các ông cũng đã quên mình và số phận "khổ sở" của mình để khích lệ tâm hồn các môn đồ. "Vì chưng chúng ta phải trải qua nhiều gian khổ mới vào được Nước Thiên Chúa". Các ông nói như vậy không những theo giáo lý của Chúa đã dạy phải đi vào con đường hẹp của mầu nhiệm thánh giá, mà còn theo kinh nghiệm bản thân và hiểu biết của mình. Rồi đây sói sẽ xông vào đàn chiên.
Viễn tượng ấy khiến các tông đồ đặt cho mỗi Hội Thánh một hàng niên trưởng và phó giao họ cho Chúa, Ðấng họ đã tin. Chắc chắn các ngài cũng muốn rằng bậc niên trưởng này sẽ cư xử với anh em như Chúa đã ăn ở với các môn đồ. Họ cũng chẳng phải thi hành điều răn mới và cũng là điều răn duy nhất của Chúa là họ hãy yêu mến lẫn nhau.
Phải chăng chúng tôi đã không vô tình trình bày khiến người ta có thể nghĩ điều răn mới của Chúa chỉ thi hành được trong đời sống tông đồ và nơi những người đứng đầu trong mỗi Hội Thánh? Ít nhất hết thảy chúng ta đều thấy các chức vụ trong Hội Thánh đều để thi hành bác ái, và mọi ơn gọi tông đồ đều lãnh trách nhiệm chứng tỏ lòng yêu mến của Chúa Kitô. Nhưng hết mọi tín hữu không phải là tông đồ sao? Các tông đồ nơi bàn tiệc ly đã là nền tảng của Hội Thánh mới sẽ được xây dựng lên sau ngày Chúa sống lại.
Chúng ta hết thảy đều là những viên đá sống đứng trên nền tảng các tông đồ. Các ngài đã nghe và nhận điều răn mới cho tất cả chúng ta. Và mọi người chúng ta phải thi hành điều răn mới đó. Không ai trong Hội Thánh được dửng dưng với phần rỗi của anh em và bao lâu người ta chưa hy sinh gì cho phần rỗi ấy, người ta chưa thi hành điều răn mới của Chúa và chưa chứng tỏ là môn đệ của Người.
Và điều này bổ túc cho những điều chúng ta đã nói trong Chúa Nhật trước về ơn gọi tông đồ. Và nếu tuần trước chúng ta đã thấy Chúa đặt Phêrô ở chức vụ chăn chiên, thì hôm nay thấy thánh Phaolô đặt hàng niên trưởng ở trong mỗi Hội Thánh, chúng ta phải suy nghĩ về phận sự của mỗi người phải hy sinh cho phần rỗi của anh em để thi hành điều răn mới của Chúa. Ðược như vậy chúng ta mới hy vọng được thấy như Gioan trong bài sách Khải huyền hôm nay.
3. Giêrusalem Mới
Gioan thấy vũ trụ của thời cánh chung. Trời cũ, đất cũ đã qua. Ðặc biệt, biển, nơi ấp ủ những sức mạnh độc dữ, không còn nữa. Thay vào cảnh cũ, đã có một trời mới và một đất mới. Và một Giêrusalem mới đã tự trời xuống, chỉnh tề như một tân nương. Ðó là dân mới của Thiên Chúa, và là Hội Thánh chúng ta. Tất cả đã sẵn sàng chờ đón đức lang quân. Và Người đã đến. Người là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt và khử trừ sự chết... Tất cả những điều cũ đều đã qua; và Chúa phán: Này Ta làm mới mọi sự.
Chắc chắn đây là những điều viết về Nước Trời sau này, nhưng lại căn cứ vào thực tại đã có và đang có. Ðức tin cho chúng ta biết, từ ngày Ðức Giêsu được tôn vinh trong mầu nhiệm chết và sống lại, cũ đã qua và mới đã đến. Giêrusalem cũ đã nhường chỗ cho Giêrusalem mới là Hội Thánh. Và Chúa Giêsu đã hứa ở cùng Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế, nên Người là Thiên Chúa ở cùng Hội Thánh và là Ðức Lang Quân của Hội Thánh. Và Thiên Chúa cũng đang làm mới mọi sự trong Hội Thánh, không phải ở bình diện nào sâu xa và rõ ràng hơn bình diện bác ái.
Thật vậy, người ta có thể thấy Hội Thánh là thế này hay thế kia, tùy theo thời đại và quan điểm của mỗi người. Nhưng luôn luôn và mãi mãi, cơ bản Hội Thánh là cộng đoàn có lòng yêu mến lẫn nhau, không phải bất cứ tình yêu mến nào nhưng là tình yêu mến làm cho mọi người thấy Hội Thánh là cộng đoàn môn đệ của Chúa Kitô và thi hành điều răn mới của Người. Những khi nào lòng yêu mến đó càng nổi, Hội Thánh càng là tân nương trang sức chờ đón đức lang quân...
Những điều này thật đáng suy nghĩ và đem ra thực hành. Có thể nói không lúc nào dễ thi hành hơn lúc này, khi cử hành thánh lễ. Ðây là khung cảnh bàn tiệc ly của Chúa Giêsu ngày xưa, đây là Hội Thánh của các tông đồ, đây là Giêrusalem mới. Chúa Giêsu sẽ tỏ lòng yêu mến môn đệ Người cho đến cùng trong mầu nhiệm ban thịt và máu rửa sạch linh hồn chúng ta. Người trao ban giới răn mới của Người. Người bảo chúng ta đây hãy yêu mến nhau như Người yêu mến. Chúng ta có nhìn vào nhau để nhận thấy nghĩa vụ phải lo cho phần rỗi của nhau thì mới là bác ái với nhau. Và một cái nhìn như vậy sẽ lôi theo bao nghĩa vụ, những nghĩa vụ có thể làm được và phải làm để cho người ta thấy chúng ta có lòng yêu mến của Chúa. Một Giêrusalem mới sẽ ở giữa chúng ta. Giêrusalem mới đó sẽ chiếu ánh sáng cứu độ của Chúa để dần dần cũ qua đi, mới đã đến, trời cũ đất cũ không còn, và một trời mới đất mới đã có đó để tôn vinh thêm cho Chúa Giêsu phục sinh, đợi ngày Người sẽ được Thiên Chúa tôn vinh nữa trong vinh quang bất diệt.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)