Giải Nghĩa Lời Chúa Năm A
Những Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chúa Nhật 15 Thường Niên Năm A
Những Ðòi Hỏi Của Ðức Tin
(Ys 55,10-11; Rm 8,18-23; Mt 13,1-23 hoặc 13,1-9)
Phúc Âm: Mt 13, 1-9 {hoặc 1-23}
"Kìa, có người gieo giống đi gieo lúa".
Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói:
"Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe".
[Các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành". Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe.
"Vậy, các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường. Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã. Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được. Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".]
Suy Niệm:
Chúa Nhật XV Thường Niên A
Ys 55,10-11; Rm 8,18-23; Mt 13,1-23 hoặc 13,1-9
Lời Chúa bao giờ cũng cụ thể và nuôi sống con người. Nếu có khi nào chúng ta thấy Lời Chúa có vẻ xa vời không thiết thực, thì chẳng qua là tại chúng ta chưa lãnh hội được sức sống chứa đựng ở trong đó. Ðối với Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe đọc trong thánh lễ hôm nay, ai đã không thấy cụ thể và sống động? Những bài Kinh Thánh ấy nêu lên một thắc mắc của mọi thời ở trong Dân Chúa; và dọi ánh sáng đức tin vào tâm trạng bất ổn của chúng ta, để thúc giục chúng ta càng tin tưởng nhiều hơn nữa.
A. Một Thắc Mắc Của Mọi Thế Hệ Tín Hữu
Quả vậy, niềm tin của mọi thời không ngớt bị thử thách. Nếu hiện tại chúng ta có những thắc mắc đối với đường lối của Chúa, thì trước chúng ta, dân Cựu Ước và các tín hữu tiên khởi thời các Tông đồ cũng đã bị dày vò trong chính những thắc mắc như vậy.
Bài sách Isaia hôm nay rõ ràng muốn giải tỏa một trong những thắc mắc như thế. Chúng ta biết Israel là Dân được Chúa chọn làm sở hữu. Ngài đã phải dùng cánh tay mạnh mẽ để đưa họ ra khỏi đất nô lệ. Ngài hứa sẽ đời đời trung tín với giao ước. Và chắc chắn trong giao ước có Lời Hứa cho dòng dõi Abraham sẽ nhiều như sao trên trời và như cát ngoài biển. Lại còn viễn tượng mọi dân tộc sẽ lấy số phận của Israel mà chúc phúc cho nhau nữa. Tức là mọi dân nước sẽ thèm số phận của Israel.
Thế mà miêu duệ Abraham hiện bị phân tán, lưu lạc ở mọi nơi. Ða số đang sống cuộc đời lưu đày khổ sở ở Babylon. Lời Chúa hứa đâu còn gì nữa? Ðền thờ cũng không còn nữa, mà tư tế với tiên tri cũng bị đuổi ra khỏi nước. Vua, đấng được xức dầu cũng đã bị giết. Không những không hơn được ai, mà Israel lại còn là dân "trâu ngựa" hơn hết thảy. Mà thử thách đâu có mau qua! Lần này, dân chịu cảnh lưu đày phương Bắc đã xấp xỉ 200 năm đối với Samari và 100 năm đối với Yuđa. Chẳng có một tia hy vọng nào.
Nghe nói ở xa xa có một tướng quân Cyrus nào đó đang chinh phạt thế giới. Nhưng ông ta không phải là miêu duệ Abraham. Ông ta có chiếm được đất Babylon này, thì Dân Chúa cũng thế thôi. Chúa có thật đã hứa với Tổ phụ Dân những điều tốt đẹp như Sách Thánh kể không? Ngài có thật là Ðấng trung tín sẽ đời đời giữ Lời giao ước không? Sao Ngài để Dân có Lời Hứa long trọng như vậy phải lầm than quá sức thế này? Có nên tiếp tục tin Lời Chúa nữa, hay là bắt đầu sống như dân ngoại cho xong?
Ðó là bối cảnh của bài sách Isaia hôm nay. Chúng ta thấy Lời Chúa không xa chúng ta tí nào. Nhưng trước khi xem Ngài trả lời cho những thắc mắc trên, chúng ta hãy tiếp tục lắng nghe nỗi lòng của thế hệ tín hữu tiên khởi.
Ðây không còn phải là dân Israel cũ nữa, nhưng là Dân mới được Ðức Kitô cứu chuộc nhờ cuộc khổ nạn-phục sinh của Người. Dân Kitô hữu mới lúc đầu cũng đầy hứa hẹn. Thánh Thần đã ban ơn chan hòa. Các Tông đồ giảng dạy dạn dĩ và đầy quyền năng. Các tín hữu sốt sắng và đồng tâm ý hợp. Chẳng bao giờ người ta thấy loài người thương mến nhau như vậy. Nhưng rồi mọi sự lại bắt đầu buồn chán. Người Dothái vẫn khăng khăng không chấp nhận đức tin mới. Dân ngoại muốn theo Chúa, nhưng vua quan lại bắt bớ. Ngay đến nội bộ Hội Thánh cũng bắt đầu chán nản: nhiều người tội lỗi và thậm chí có nhiều kẻ bỏ đức tin. Nước Thiên Chúa mà Ðức Kitô đã sáng lập có hơn gì những phong trào trước đây trong lịch sử loài người không? Lời Chúa nói với Con Một của Ngài trong thời kỳ sau hết có hiệu nghiệm hơn Lời mạc khải trong Cựu Ước không?
Chúng ta phải nhìn thấy những bối cảnh như vậy mới hiểu được bài Tin Mừng và bài sách Isaia hôm nay. Cả hai bài đều nói đến Lời Chúa, và hiệu năng của Lời Chúa. Dân Cựu Ước hỏi rằng: Lời Chúa đã mạc khải cho cha ông họ có đi đến đâu không? Và Dân Tân Ước cũng đặt nghi vấn, không hiểu Lời mạc khải nơi Ðức Yêsu Kitô có đem lại hạnh phúc thật như đã hứa không? Và chúng ta cũng phải nhớ một bối cảnh như thế để hiểu bài thơ Phaolô. Thánh Tông đồ không những cũng thắc mắc về số phận tương lai của dân tín hữu và của loài người, mà còn đặt thắc mắc về hạnh phúc của toàn thể vũ trụ nữa.
Chúng ta hãy xem đức tin dọi ánh sáng thế nào trên các khắc khoải ngàn đời ấy.
B. Giải Ðáp Của Ðức Tin
Bài sách Isaia thi vị nhưng không thiếu phần thiết thực. Nếu đọc những câu trước và sau đoạn trích hôm nay, chúng ta còn thấy rõ tư tưởng của tác giả hơn nữa. Ông tuyên sấm Lời của Chúa trong giai đoạn đen tối của lịch sử Dân Chúa. Dân đang ngao ngán và dường như đã tuyệt vọng. Thì này, Lời Chúa phán: Ngươi sẽ chiêu tập dân tộc người không biết; dân tộc không biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi... Các ngươi sẽ ra đi mừng rỡ và được rước về bình an.
Lại những lời hứa suông nữa sao? Không, đây là lý do để Dân Chúa tin tưởng. Trời cao hơn đất thế nào, đường lối của Ngài cũng hơn ý nghĩ của loài người như vậy. Loài người thấy bi quan trong gian truân thử thách; Thiên Chúa thấy tất cả sẽ thành tựu theo ý nghĩ của Ngài. Vì mưa với tuyết từ trời sa xuống không lùi lại về trời nếu không thấm nhuần đất đai sinh sôi nảy nở thì Lời từ miệng Chúa phán ra cũng không trở về với Ngài nếu không thực hiện mọi điều Ngài muốn. Ðịnh luật trong thiên nhiên rõ ràng chắc chắn. Và những định luật ấy cũng là những ý định của Chúa. Thì tại sao loài người có thể hoài nghi về sự chắc chắn của những Lời Chúa hứa?
Lập luận của Isaia vững vàng. Và những ai chấp nhận vẫn tin vào Chúa và đã thấy lịch sử làm chứng Chúa luôn luôn trung tín với Lời giao ước. Tướng quân Cyrus đã đem lại cho dân lưu đày cơ hội trở về quê hương. Chúa đã thực thi lời hứa giải phóng. Và nhất là, cuối cùng Ngài đã sai Con Một Ngài xuống thế cứu dân khỏi tội lỗi và ban Thánh Thần quy tụ các dân tộc nên một. Ở nơi Chúa Yêsu Kitô, mọi lời hứa trong Cựu Ước đã nên trọn.
Nhưng còn nơi chính Hội Thánh của Chúa, nơi Nước Trời mà Ðức Yêsu Kitô đã thiết lập? Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy vấn đề và giải đáp được nêu lên cũng không khác thời Isaia là mấy. Tuy nhiên, nơi miệng Ðức Yêsu Kitô chân lý mặc hình thức vừa đơn sơ vừa sinh động hơn. Còn gì đơn sơ hơn hình ảnh và công việc của người gieo giống? Chúng ta chỉ cần nhìn. Trên đường đi có hạt rơi xuống chỗ này chỗ kia và không kết quả gì hết. Nói đúng hơn người đi gieo cũng như kẻ quan sát không hề để ý đến số hạt rơi mất dọc đường. Ðiều quan trọng là cuối cùng công việc gieo giống này sẽ kết quả ra sao. Thế mà thóc giống sẽ sinh hoa kết quả nơi đất tốt: hạt được 100, có hạt 60, có hạt 30. Chúa Yêsu trong chính bài dụ ngôn của Người, chỉ để ý đến câu kết luận đó. Và Người muốn nói: cuối cùng Nước Trời sẽ thành tựu; thành tựu một cách tất nhiên chắc chắn, như công việc tự nhiên của người gieo giống.
Người đã kể dụ ngôn đó về Nước Trời. Áp dụng vào chính công việc Người đang làm, các môn đệ đừng sợ Lời Giảng của Người không đem lại kết quả khi thấy công lao vất vả hàng ngày của Người không gặt hái được gì cụ thể. Khi người đi gieo giống đang gieo thì chưa phải là mùa gặt. Lúc hạt giống đã nằm xuống đất và nát ra, bấy giờ sẽ mọc lên cây. Thế thì tại sao các tín hữu thời các Tông đồ có thể quên bài học ấy? Tại sao họ bắt đầu nghi ngờ công hiệu của việc rao giảng Lời Chúa khi gặp phải những thái độ bịt tai chống đối bắt bẻ, bỏ tù hay nguội lạnh, tội lỗi? Hội Thánh đã quên mình đang lữ thứ trần gian rồi sao?
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay nhắc lại chân lý ấy. Người còn nói mạnh hơn: thời gian chúng ta đang sống hãy còn là giai đoạn thai nghén. Hơn nữa những khó khăn đau khổ hiện tại không phải là những cơn đau của người phụ nữ đang sinh con ư? Chúa Yêsu đã có lần gợi lên hình ảnh ấy để nhắc nhủ các môn đệ nhớ có lúc họ sẽ phải khóc lóc khi thế gian vui mừng; nhưng rồi không ai sẽ cất được sự vui mừng của họ, khác nào sự vui mừng của người mẹ sau khi sinh con.
Người tín hữu của Chúa ở mọi thời có thể thấy thắc mắc của mình đã được đức tin soi sáng. Họ có lý để tự hỏi vì sao Lời Chúa hứa ban hạnh phúc như không hiệu nghiệm. Nhưng nếu họ đã tin vào các định luật tự nhiên trong trời đất, thì họ cũng phải tin hơn nữa vào giao ước của Chúa. Hơn nữa Lời Chúa trong giao ước còn long trọng hơn nhiều vì là lời thề hứa. Họ phải có lòng tin vào đường lối hướng dẫn lịch sử của Chúa và chắc chắn kẻ tin vào Chúa sẽ không bị hổ ngươi, vì những đau khổ hiện tại không là gì sánh với vinh quang sẽ tới.
Như thế, không có nghĩa là họ thụ động chờ cho cơn giống tố qua đi và ngày mai trời bừng sáng. Ðức tin Kitô giáo phải làm việc. Như người đi gieo tin ở thành quả do công việc mình làm, người tín hữu cũng phải sống động trong đức tin. Và điều này, rõ ràng bài Tin Mừng muốn ám chỉ trong phần giải thích dụ ngôn.
C. Những Ðòi Hỏi Của Ðức Tin
Chỉ cần một phân tích đơn sơ cũng đủ để nhận ra có một sự chuyển hướng nào đó từ bài dụ ngôn sang phần giải thích. Tác giả sách Tin Mừng khéo léo đặt ra những câu sang ý. Ông cho các môn đệ đến xin Chúa cắt nghĩa bài dụ ngôn, và ông đã gói ghém phương hướng giải thích ngay trong câu Chúa trả lời: đã ban cho các con biết mầu nhiệm Nước Trời; còn không ban cho các kẻ ấy, vì kẻ có thì sẽ được thêm, còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất.
Chúng ta thấy ngay, Chúa đã phân biệt môn đệ với quần chúng. Và Người đề cao vinh dự cũng như hạnh phúc của môn đệ. Họ được biết các mầu nhiệm Nước Trời. Và sở dĩ như vậy, một phần vì họ có khả năng, có điều kiện để lĩnh hội. Họ biết xem biết nghe, chứ không như những kẻ khác có mắt có tai mà không thấy không nghe gì cả.
Thế rồi tác giả xây dựng phần giải thích dụ ngôn trên tiền đề đó. Tất cả không nhằm vào điểm chung cục nữa. Phần giải thích nhắm vào các hạt rơi mất đi. Nói đúng hơn, yếu tố được để ý là các thứ đất khác nhau đã đón nhận hạt gieo. Chúng đã làm hạt giống hư đi vì thiếu khả năng. Và theo Matthêô, khả năng ở đây là phải hiểu được Lời Chúa. Vì kẻ nào nghe Lời giảng về Nước Trời mà không hiểu thì quỷ dữ đến cướp lấy; trong khi kẻ nghe lời giảng mà hiểu được thì sinh hoa kết quả.
Nhưng hiểu ở đây là gì? Có lẽ thay vì dùng từ ngữ này, chúng ta hãy dùng chữ "lĩnh hội". Lĩnh hội cũng là hiểu; nhưng lĩnh hội gợi lên thái độ đón nhận, bao bọc lấy lời đã nghe, thành ra lời rao giảng không vào tai này ra tai khác, nhưng sẽ dừng lại, rơi vào lòng và gặp được suy nghĩ sẽ trở nên phong phú và phát xuất ra việc làm, khiến đức tin trở thành đức tin sống động.
Như vậy Lời Chúa nói với chúng ta hôm nay không những đã soi sáng một thắc mắt ngàn đời của các thế hệ tín hữu, mà còn đề ra con đường ánh sáng, để chúng ta đi vào trong những lúc gặp khó khăn. Nhiều lúc quả thật chúng ta như thấy mù mịt. Hiện tại nhiều thử thách đau thương, mà tương lai cũng tối tăm dầy đặc. Chúng ta bị cám dỗ hoài nghi cả đường lối của Chúa và không còn hy vọng vào Lời Người đã hứa. Nhưng nếu những định luật thiên nhiên kia còn chắc chắn, huống nữa là Lời Chúa! Lịch sử trong quá khứ không làm chứng Chúa trung tín tuyệt đối sao? Và thánh Phaolô bảo chúng ta là những kẻ hưởng khai ân của Thần khí, tức là đã nắm giữ được bảo chứng của vinh quang Nước Trời rồi. Những đau khổ hiện tại phải kích thích niềm tin tưởng chờ đợi ơn Chúa cứu độ. Không phải là một niềm tin lười biếng từ chối nỗ lực phấn đấu; nhưng là một niềm tin yêu mến đón nhận Lời Chúa vào lòng để suy nghĩ, trau dồi và phát sinh ra những công việc phù hợp với đức tin. Một cuộc đời như vậy sẽ chẳng khác nào đòi một người gieo giống, tha thiết với công việc làm vì tin vào thu hoạch sau này.
Chính Chúa Yêsu Kitô giờ đây cũng làm công việc ấy. Người đã gieo Lời của Người nơi cộng đồng chúng ta. Người còn muốn lấy Máu Thánh tưới trên Lời đã gieo. Và Người ban Thánh Thể kích thích chúng ta lĩnh hội Lời ấy. Nếu chúng ta đón nhận thật sự, không để Lời vào tai này ra tai kia, nhưng rơi vào lòng, được ấp ủ bằng suy nghĩ và cầu nguyện, rồi mọc thành cây nhiều công việc khác nhau, thì chắc chắn có hạt sẽ sinh 100, có hạt 60, có hạt 30.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)