* Căn cứ Ðiều
70 Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992.
* Căn cứ Luật Tổ chức Chính
phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992.
* Ðể đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân, tạo điều kiện cho các
tổ chức tôn giáo hoạt động
theo pháp luật.
* Theo đề nghị của Trưởng
Ban Tôn giáo của Chính phủ.
Ðiều 1
Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối
xử vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo.
Ðiều 2
Công dân theo tôn giáo hoặc không
theo tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật, được
hưởng mọi quyền công dân
và có trách nhiệm thực hiện
mọi nghĩa vụ công dân.
Ðiều 3
Các hoạt động tôn giáo phải
tuân theo pháp luật của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Ðiều 4
Những hoạt động tôn giáo
vì lợi ích chính đáng và
hợp pháp của tín đồ được
bảo đảm.
Những hoạt động tôn giáo
vì lợi ích của Tổ quốc
và nhân dân được khuyến
khích.
Ðiều 5
Mọi hành vi vi phạm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, mọi
hành vi lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để chống lại Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín đồ
làm nghĩa vụ công dân, phá hoại
sự nghiệp đoàn kết toàn
dân, làm hại đến nền văn
hóa lành mạnh của dân tộc và
hoạt động mê tín dị đoan
đều bị xử lý theo pháp
luật.
Ðiều 6
Mọi công dân có quyền tự
do theo hoặc không theo một tôn giáo
nào, từ bỏ hoặc thay đổi
tôn giáo.
Ðiều 7
1. Tín đồ có quyền thực
hiện các hoạt động tôn giáo
không trái với chủ trương,
chính sách và pháp luật của
Nhà nước, tiến hành các
nghi thức thờ cúng, cầu nguyện
tại gia đình và tham gia các hoạt
động tôn giáo, học tập giáo
lý, đạo đức, phục vụ
lễ nghi tôn giáo tại cơ sở
thờ tự.
2. Tín đồ không được
lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo làm trái pháp luật, không
được hoạt động mê tín
dị đoan.
Ðiều 8
1. Tổ chức tôn giáo có tôn
chỉ, mục đích, đường
hướng hành đạo, cơ cấu
tổ chức phù hợp với
pháp luật và được Thủ
tướng Chính phủ cho phép hoạt
động thì được pháp
luật bảo hộ.
2. Các hoạt động tôn giáo
tại cơ sở thờ tự tôn
giáo (các buổi cầu nguyện, hành
lễ, giảng đạo, học tập giáo
lý) đã đăng ký hàng
năm và thực hiện trong khuôn viên
cơ sở thờ tự thì không
phải xin phép.
3. Những hoạt động tôn giáo
vượt ra ngoài khuôn viên cơ
sở thờ tự hoặc chưa đăng
ký hàng năm phải được
phép của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền.
4. Tổ chức tôn giáo được
tạo nguồn tài chính từ sự
ủng hộ tự nguyện của cá nhân,
tổ chức, từ những thu nhập
hợp pháp khác.
Việc tổ chức khuyên góp phải
được Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh cho phép. Nghiêm cấm
việc ép buộc tín đồ đóng
góp.
Việc quản lý, sử dụng các
khoản tài chính có được
từ các nguồn trên đây
thực hiện theo quy định của pháp
luật.
5. Tổ chức tôn giáo hoạt
động trái tôn chỉ, mục đích,
đường hướng hành đạo,
cơ cấu tổ chức đã được
Thủ tướng Chính phủ cho phép
thì bị đình chỉ hoạt động.
Những cá nhân chịu trách nhiệm
về những vi phạm đó bị
xử lý theo pháp luật.
Ðiều 9
Các cuộc tĩnh tâm của linh mục
trong giáo phận, của các tu sĩ tập
trung từ nhiều cơ sở, dòng
tu của đạo Thiên Chúa, các cuộc
bồi linh của mục sư và truyền
đạo của đạo Tin lành, các
kỳ an cư của tăng, ni đạo Phật
và những sinh hoạt tôn giáo tương
tự của các tôn giáo khác
thực hiện theo qui định của cơ
quan quản lý Nhà nước cấp
tỉnh về tôn giáo.
Ðiều 10
1. Ðại hội, hội nghị của tổ
chức tôn giáo cấp toàn quốc
hoặc có liên quan đến nhiều
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương phải được phép của
Thủ tướng Chính phủ.
2. Ðại hội, hội nghị của
tổ chức tôn giáo các cấp
ở địa phương phải được
phép của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
Ðiều 11
1. Nhà nước bảo hộ nơi
thờ tự của tổ chức
tôn giáo.
2. Tổ chức tôn giáo có
trách nhiệm giữ gìn, tu bổ nơi
thờ tự.
3. Nhà, đất và các tài
sản khác đã được
tổ chức, cá nhân tôn giáo
chuyển giao cho các cơ quan Nhà nước
quản lý, sử dụng do thực hiện
chính sách của Nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hoặc tặng, hiến cho Nhà nước
thì đều thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ðiều 12
1. Việc sửa chữa, xây dựng
tại cơ sở thờ tự đã
được xếp hạng di tích lịch
sử, văn hóa, danh lam, thắng cảnh
thực hiện theo qui định tại "Pháp
lệnh bảo vệ và sử dụng di
tích lịch sử, văn hóa và
danh lam thắng cảnh" ngày 31 tháng
3 năm 1984.
2. Việc tu bổ và sửa chữa
nhỏ, không làm thay đổi cấu
trúc, kiến trúc công trình thuộc
cơ sở thờ tự, do cơ sở
thờ tự tổ chức thực
hiện sau khi thông báo cho Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp xã sở
tại.
3. Việc sửa chữa lớn
làm thay đổi cấu trúc, kiến
trúc công trình tại cơ sở
thờ tự, việc khôi phục công
trình thờ tự bị hoang phế,
bị hủy hoại do chiến tranh, thiên tai,
rủi ro; việc tạo lập cơ sở
thờ tự, việc xây dựng
công trình thờ tự (nhà,
tượng, bia, đài, tháp và
các công trình nhằm mục đích
thờ tự) phải được
phép của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
4. Việc tổ chức quyên góp
để tạo nguồn tài chính cho việc
xây dựng, sửa chữa cơ
sở thờ tự phải được
phép của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
Ðiều 13
Việc hành đạo được
bảo đảm thực hiện bình thường
tại cơ sở thờ tự tôn
giáo được xếp hạng theo qui
định tại "Pháp lệnh bảo vệ
và sử dụng di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam, thắng cảnh"
ngày 31 tháng 3 năm 1984.
Ðiều 14
1. Việc in, xuất bản các loại kinh,
sách và các xuất bản phẩm
tôn giáo, việc sản xuất, kinh doanh,
xuất nhập khẩu văn hóa phẩm
tôn giáo, đồ dùng trong việc
đạo thực hiện theo qui chế của
Nhà nước về in, xuất bản,
sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu
văn hóa phẩm, hàng hóa.
2. Cấm in, sản xuất, kinh doanh, lưu
hành, tàng trữ sách báo, văn
hóa phẩm có nội dung chống lại
Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, gây chia rẽ tôn
giáo, chia rẽ dân tộc, gây mất
đoàn kết trong nhân dân.
Ðiều 15
1. Chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo có quyền:
* Ðược thực hiện chức
trách, chức vụ tôn giáo của
mình trong phạm vi trách nhiệm đã
được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền chấp thuận.
* Ðược Nhà nước xét
khen thưởng công lao đóng góp
trong sự nghiệp đoàn kết toàn
dân, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
* Ðược hưởng các quyền
lợi chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội của công dân.
3. Chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo có nghĩa vụ:
* Thực hiện đúng chức trách,
chức vụ tôn giáo trong phạm vi
trách nhiệm tôn giáo đã được
cơ quan quản lý Nhà nước
có thẩm quyền chấp thuận và
chịu trách nhiệm trước pháp
luật về mọi hoạt động tôn
giáo trong phạm vi trách nhiệm đó.
* Ðộng viên tín đồ chấp
hành nghiêm chỉnh chính sách và
pháp luật của Nhà nước.
Ðiều 16
Người mạo danh chức sắc,
nhà tu hành tôn giáo bị xử
lý hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Người đang chấp hành án
phạt tù hoặc đang bị quản chế
hành chính không được thực
hiện chức trách, chức vụ
tôn giáo. Việc phục hồi chức
trách, chức vụ tôn giáo của
người đã hết hạn chấp
hành các hình phạt kể trên phải
do tổ chức tôn giáo quản lý
người đó đề nghị
và được cơ quan quản lý
Nhà nước có thẩm quyền
chấp thuận.
Ðiều 17
1. Chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo được hoạt động
kinh tế, văn hóa - xã hội như
mọi công dân khác.
2. Chức sắc, nhà tu hành và
tổ chức tôn giáo hoạt động
từ thiện theo qui định của Nhà
nước. Các cơ sở từ
thiện do chức sắc, nhà tu hành
và tổ chức tôn giáo bảo
trợ hoạt động theo sự hướng
dẫn của các cơ quan chức năng
của Nhà nước.
Ðiều 18
1. Việc mở trường đào
tạo chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo phải được phép của
Thủ tướng Chính phủ.
2. Tổ chức và hoạt động
của các trường đào tạo
chức sắc, nhà tu hành tôn giáo
thực hiện theo các qui định của
Ban Tôn giáo của Chính phủ và
Bộ Giáo dục và Ðào tạo.
3. Trường đào tạo chức
sắc, nhà tu hành tôn giáo thực
hiện các qui chế, chính sách, pháp
luật của Nhà nước theo sự
hướng dẫn, giám sát, kiểm
tra của các cơ quan chức năng
của Nhà nước và Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh sở tại.
Ðiều 19
1. Các dòng tu (hoặc các hình
thức tổ chức tu hành tập
thể tương tự) muốn hoạt động
phải xin phép và được sự
chấp thuận của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền.
2. Việc tiếp nhận người nhập
tu thực hiện theo qui định của Ban
Tôn giáo của Chính phủ.
Ðiều 20
1. Việc phong giáo phẩm Hòa thượng
trong đạo Phật, Hồng y, Giám mục,
chức vụ Giám quản trong đạo
Thiên Chúa và các giáo phẩm,
chức vụ tương đương trong
các tôn giáo khác phải được
sự chấp thuận của Thủ tướng
Chính phủ.
2. Việc phong chức cho chức sắc,
nhà tu hành tôn giáo không thuộc
diện nói tại khoản 1. Ðiều này
phải được sự chấp thuận
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh.
Ðiều 21
Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển những
chức sắc, nhà tu hành và những
người chuyên hoạt động tôn
giáo, kể cả những người
do tín đồ bầu ra tùy theo địa
bàn hoạt động cụ thể phải
được Chủ tịch Ủy ban nhân
dân quản lý hành chính các
địa bàn đó chấp thuận.
Ðiều 22
1. Tổ chức, cá nhân tôn giáo
báo cáo với Ban Tôn giáo của
Chính phủ về những hướng
dẫn của tổ chức, cá nhân
tôn giáo ở nước ngoài
và thực hiện những hướng
dẫn đó theo sự chấp thuận
của Ban Tôn giáo của Chính phủ.
2. Chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo được tổ chức,
cá nhân tôn giáo ở nước
ngoài phong giáo phẩm, phong chức,
bổ nhiệm phải được sự
chấp thuận của Thủ tướng
Chính phủ.
Ðiều 23
Hoạt động quốc tế của tổ
chức, cá nhân tôn giáo phải
tuân thủ pháp luật và phù hợp
với chính sách đối ngoại
của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền
quốc gia, vì hòa bình, ổn định,
hợp tác và hữu nghị.
Ðiều 24
1. Tổ chức, cá nhân tôn giáo
ở trong nước mời tổ
chức, cá nhân tôn giáo ở
nưới ngoài vào Việt Nam
phải được sự chấp thuận
của Ban Tôn giáo của Chính phủ.
2. Tổ chức, cá nhân ở
trong nước tham gia làm thành viên
của tổ chức tôn giáo ở
nước ngoài, tham gia các hoạt
động tôn giáo có liên quan đến
tôn giáo ở nước
ngoài thực hiện theo qui định
của Ban Tôn giáo của Chính phủ.
Ðiều 25
1. Người nước
ngoài cư trú hợp pháp tại
Việt Nam được sinh hoạt tôn
giáo theo pháp luật Việt Nam. Việc tập
trung thành nhóm riêng để sinh hoạt
tôn giáo tại cơ sở thờ
tự phải được phép của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh.
2. Tổ chức, cá
nhân nước ngoài, kể cả
tổ chức, cá nhân tôn giáo,
vào Việt Nam để hoạt động
ở các lĩnh vực không phải
là tôn giáo thì không
được tổ chức, điều
hành hoặc tham gia tổ chức, điều
hành các hoạt động tôn giáo,
không được truyền bá tôn
giáo.
Ðiều 26
1. Các hoạt động viện
trợ của các tổ chức tôn
giáo nước ngoài hoặc có
liên quan đến tôn giáo nước
ngoài đều tuân theo chính sách,
chế độ quản lý viện trợ
hiện hành và thông qua
các cơ quan được Chính phủ
Việt Nam giao phụ trách công tác quản
lý viện trợ.
2. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước muốn nhận viện trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép Thủ tướng Chính phủ.
Ðiều 27 Nghị định này thay thế nghị định số 69/HÐBT ngày 21 tháng 3 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký. Những qui định trước đây trái với nghị định này đều bãi bỏ.
Ðiều 28
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có trách
nhiệm thi hành Nghị định này.
Ðiều 29
Trưởng Ban Tôn giáo của Chính
phủ hướng dẫn, đôn đốc
và kiểm tra việc thi hành Nghị định
này.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG PHAN VĂN KHẢI