Cộng Ðồng Việt Nam tại Pháp

Từ di trú-hội nhập đến tư cách công dân

(De l'immigration-intégration à la citoyenneté)

Gs Lê Mộng Nguyên (Paris)

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Trong bài khảo cứu về VICTOR HUGO (Nghệ Thuật-Montréal số 106 th. 01-2003), tôi có trích câu bất hủ của nhà đại thi hào và chính khách Pháp bị đày ra khỏi nước vì chống bạo quyền Louis-Napoléon Bonaparte là người chủ mưu cuộc đảo chính ngày 2 tháng 12 năm 1851 (coup d'État du 2 Décembre) với mục đích lật đổ chính thể Cộng hòa: "Quand la liberté rentrera, je rentrerai" (Ngày nào tự do được hồi phục, ngày ấy tôi sẽ trở lại cố hương), để từ chối quyết định ân xá của Nã-Phá-Luân Ðệ Tam. Tôi bồi hồi cảm động tưởng nhớ tới hơn hai triệu đồng bào rải rác khắp năm châu trên xứ người mà trong đó hơn hai trăm nghìn người Việt Nam đã di cư và định cư tại Pháp... phần đông từ ngày 30 tháng tư năm 1975 (biến cố dân tộc). Nhưng thật ra, muốn hiểu tường tận vấn đề này dính dáng mật thiết đến tương lai đất nước, ta phải cần theo dõi diễn tiến lịch sử và chính trị của di dân VN, trước khi vạch lại hiện tượng định cư (từ di trú-hội nhập cho đến tư cách công dân) của một số đồng bào chúng ta trên đất Pháp dưới khía cạnh xã hội học và văn hóa.

 

I. Diễn tiến lịch sử và chính trị của di trú việt nam tại Pháp

Nói một cách tổng quát và vì lý do những dây thắt chặt trong quá khứ giữa đế quốc thuộc địa Pháp và các nước trong cựu Ðông Pháp, nước Pháp là một xứ sở rất tiện lợi cho di dân VN, Miên, Lào và Trung Hoa. Bởi vì các dân chủng Thái Lan, Mã Lai, Ấn Ðộ Dương, Phi Luật Tân hoặc Tân Gia Ba phần lớn thích chọn các nước Mỹ và Úc châu. Cộng đồng Việt Nam hải ngoại rải rác trên 70 nước của địa cầu có thể (theo Lâm Thanh Liêm và LM Jean Mais trong Le Médecin du Vietnam, số 35, tháng 5 & 6-1997) lên tới 2,300,000 người mà trong đó hơn 300,000 người Việt Nam chính tông, sinh sống tại các nước lân cận Á Châu.

Bắc Mỹ có nhiều dân Việt định cư nhất: 1,150,000 trong đó 1 triệu người ở Hoa Kỳ và 150,000 ở Gia Nã Ðại. Trong vùng Ðại Dương Châu, đồng bào ta được tổng số 272,000 người phân chia khắp các nước Úc (160,000), Nouvelle Zélande (8,000) và Nouvelle Calédonie (4,000). Trong các nước Tây Âu, tương đối ít người Việt (400,000 thôi). Nên nhớ rằng trước khi Tường Bá Linh và chế độ Cộng Sản sụp đổ trong các nước thuộc về Trung và Ðông Âu, chính phủ Hà Nội đã gửi 240,000 thanh niên lao động làm việc với mục đích củng cố tài sức công nhân và kỹ thuật của các quốc gia này thuộc gia đình chủ nghĩa xã hội trước cách mạng 1989-1991. Một số đông những thanh niên này đã từ chối không trở về VN , cho nên hiện nay có gần 100,000 muốn di chuyển qua Pháp quốc, lợi dụng cơ hội việc áp dụng hiệp định Schengen cho nhiều nươc trong Liên Hiệp Âu Châu (x. Lê Mộng Nguyên, "L'espace Schengen et le droit d'asile des étrangers sur les territoires de la République Francaise", "L'Appel de la nation" số 24, ngày 20-01-1994).

Tổng số người Việt tại Pháp được bao nhiêu? Rất khó trả lời câu hỏi này vì trên mặt thống kê chính thức, người ta chỉ nói một cách tổng quát về di dân Ðông Dương chứ không kể riêng biệt các chủng tộc Lào, Miên hay Việt Nam. Hơn nữa, con số những người được vào quốc tịch Pháp bị xóa trên bản thống kê. Theo nhiều xã hội học gia (Lê Hữu Khóa, Les Vietnamiens en France, Insertion et Identité, L'Harmattan, Paris 1985; Christophe Longwiny et Christian Jelen, La famille, secret de l'intégration, Robert Laffont 1993), người Việt cư ngụ tại Pháp hiện giờ tính đến 200,000, trong lúc nhà kinh tế học Trần Văn Tòng đưa ra một số rất lớn: 250,000.

Ta có thể nói là trên mặt tiến triển lịch sử, trong một thời kỳ thứ nhất từ 1914-1918 tới 1954 và trong một đợt đầu, có 50,000 người Việt phần đông quê quán Bắc kỳ, đã được chiêu mộ làm lính thợ (soldats-ouvriers) để tham gia vào sức gắng chiến tranh của "Mẫu Quốc", nhưng một khi hết chiến tranh, quyết định ở lại trên đất Pháp để làm việc trong công nghệ dệt (Lyon) hoặc kỹ nghệ xe hơi trong vùng ngoại ô Paris hoặc trong việc xây đắp đường tàu sắt ở miền Bắc nước Pháp. Ðợt thứ hai (từ 1919 đến 1939) đặc biệt dành riêng cho khoảng 5,000 người trẻ tuổi muốn rèn luyện trí thức với trình độ đại học rất cao (tỉ dụ: Phan Châu Trinh, Nguyễn Mạnh Tường v.v.) và những người giữ một vai chính trị (như Hoàng đế Bảo Ðại, khách uy thế của nước bảo hộ hơn là một kẻ di cư, Hồ Chí Minh, Nguyễn An Ninh là những nhà cách mạng chống Pháp trong tương lai). Hoàng Thái Tử và mấy năm sau trở thành Hoàng Ðế Bảo Ðại muốn học hỏi trong thời gian ông ở Pháp những nguyên tắc dân chủ chính thể với ý định thiết lập trong tương lai Việt Nam một chế độ quân chủ lập hiến. Trong lúc những người (thuộc về gia đình trưởng giả đại điền chủ Nam kỳ hoặc nho giáo An Nam và Bắc kỳ) được xuất ngoại qua Pháp huấn luyện với trình độ Ðại học vào những năm 1926-1927 (khoảng chừng 200) rất tỏ lòng khâm phục nước Pháp của Thế Kỷ Ánh Sáng và tôn trọng Nhân Quyền. Những nhà trí thức này (trong thời gian du học trên đất khách) sẽ thấm nhuần tư tưởng quảng đại về tự do và quyền tự quyết tự chủ của các dân tộc trên hoàn cầu. Ðợt thứ ba của phong trào di cư bắt đầu với thế chiến thứ hai (1939), là lúc chính phủ thuộc địa Ðông Dương tống đạt qua "Mẫu Quốc" chừng 20,000 người Việt (phần đông quê quán Bắc kỳ) đặng làm việc với tư cách nhân công bản quốc (main-d'oeuvre indigène) và 8,000 khác làm tán binh (tirailleurs). Ông Lê Hữu Tho, tác giả sách tự truyện "Itinéraire d'un petit mandarin" (Cuộc hành trình của một ông quan bé, L'Harmattan 1997), sinh năm 1919 tại Bắc kỳ và con nhà quan, đã làm sống lại ít nhiều hoàn cảnh của thời ấy (tôi xin trích tr. 4 của bìa) giới thiệu "... người trai trẻ nước Ðông dương lúc 19 tuổi quyết định giã từ Việt Nam để qua Pháp. Nhưng khi vừa đặt chân trên đất người, thì chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ làm đảo lộn số phận của anh. Biến cố này sẽ bó buộc anh phải chung sống với 20,000 đồng bào, phần lớn thuộc gốc nhà quê, để làm thông ngôn. Ký sự này là một bằng chừng mới lạ về thân phận của những người nhà quê VN, phải bỏ làng bỏ nước, nay chứng kiến một Pháp quốc bị chiếm lãnh và mất thể diện. Tự truyện này cũng là một tán dương ca đầy hy vọng qua ý lực quyết thắng mạnh mẽ của Tho và cũng qua sự thương mến nước Pháp do cô gái Madeleine làm tiêu biểu; năng lực và ái tình đã cho người thanh niên VN được thấm nhập dễ dàng vào xã hội Pháp."

Sau thời Pháp quốc bị Ðức Quốc Xã (phát xít) chiếm đóng (chỉ vài tháng thôi sau khi những người Việt này đặt chân trên đất khách và sau khi Thỏa Hiệp Ðình Chiến được ký, 4,500 được trở về cố quận, chỉ còn 13,000 "lính-thợ" ở lại Pháp sau kết thúc thế chiến thứ hai. Một phần lớn được trở về quê quán ngay từ năm 1946 và phong trào này tiếp tục cho đến năm 1951, là năm mà người ta đếm chỉ có vỏn vẹn 3,000 người Việt tại Pháp.

Theo thống kê của Sở An Ninh Ðông Pháp vào tháng 7 năm 1945, người VN ở lại Pháp sau Ðệ Nhị Thế Chiến, lên tới 27,350. Một khi những "lính-thợ" đã trở về nước, số này còn lại khoảng 15,000 đầu năm 1950, trong đó có nhiều sinh viên (sinh trưởng gia đình giàu có) được phép xuất ngoại (tự túc tài chánh) trong thời gian Chiến Cuộc Việt Nam thứ nhất (1945-1954), để tránh khỏi tổng động viên do chính phủ ban hành. Họ trở về quê hương sau khi đậu bằng cấp Ðại học Pháp. Một số ở lại, xin nhập quốc tịch Pháp và từ đó không còn tên trên thống kê biểu chính thức của Bộ Nội Vụ Pháp (vì vậy, tổng số người Việt ở Pháp năm 1962 chỉ có 6,853).

Trong thời kỳ thứ hai từ 1954 đến 1975, nghĩa là từ chiến tranh VN thứ hai (giữa miền Bắc cộng sản và Việt Nam Cộng Hòa miền Nam liên kết với Hoa Kỳ (Liên Bang Mỹ Quốc), mặc dầu tình trạng quốc tế tranh nghị, nước Pháp chấp nhận sự có mặt của sinh viên học bổng của VNCH hay của chính phủ Pháp và ngay cả những sinh viên không học bổng tự chi phí xuất dương, nhất là sau cuộc tiến công cộng sản nhân dịp Tết Mậu Thân (1968). Nếu năm 1962, có 6,853 người Việt (như đã nói trên), năm 1975 (trước Sài Gòn thất thủ), đồng bào chúng ta trú ngụ tại Pháp lên đến 14,196, theo Bộ Nội Vụ.

Thời kỳ thứ ba (mà cũng là thời kỳ cuối) bắt đầu ngày 30 tháng 4 năm 1975 (thất thủ Sài Gòn), mà cũng là thời kỳ trong đó Pháp quốc đã đón nhận hơn 200,000 dân di cư phần lớn từ những nước miền Ðông Nam Á. Phần chủ yếu trong tổng số này gồm những tị nạn rời bỏ các nước Miên, Lào và Việt Nam sau khi Cộng sản đặt quyền lực thống trị trong ba nước thuộc cựu Ðông Pháp. Nói riêng về đồng bào chúng ta: và theo bản thống kê của "France-Terre d'asile" (Nước Pháp-Ðất Nương Náu của Người Tị Nạn): giữa 1975 và 1990 có đến 43,000 người Việt tị nạn (một phần ba của tổng số chung) phân phối trong thời gian qua nhiều giai đoạn: 7,600 giữa 1975 và 1977; 14,700 giữa 1978 và 1980; 23,000 người Việt di cư từ VN (trong đó có lẽ 20,700 được có tư cách tị nạn) giữa 1981 và 1990. Kể từ ngày Sài Gòn thất thủ cho đến năm 1983, phần lớn những người tị nạn này là những cựu thuyền nhân (boat people). Ngoài ra, những chuyến đi thực hiện theo "Chương Trình Tổ Chức Xuất Hành" (ODP) được chính phủ Hà Nội chấp thuận (từ tháng 7-1978 đến cuối năm 1980 và từ 1980 việc xuất ngoại được thực hành theo chính sách đoàn tụ gia đình do chính phủ Pháp đề cao.

Từ 1991 đến 1994: chỉ có 3,300 người Việt trên 3,700 tị nạn Ðông Dương tại Pháp. Lý do? Những chính sách hạn chế do cuộc thương nghị tại Genève 1989 quyết định với mục đích lựa chọn kỹ càng những kẻ đạt tới những trại tị nạn đặng biết họ có thật hay không là "những người tị nạn chính xác". Vì thế cho nên chỉ 8 phần 100 những người thỉnh cầu mà thôi mới được công nhận được tư cách tị nạn. Hiện giờ (chúng ta đã nói trên), tổng số đồng bào di cư và định cư tại Pháp vào khoảng 200,000 mà trong đó 45,000 tại vùng ngoại ô lân cận thủ đô và 18,000 ngay trong nội thành Paris (tôi không gồm trong thống kê này những đồng bào đã được vào quốc tịch Pháp và Việt lai - Âu Á: Eurasiens). Nhưng vấn đề hội nhập xã hội Pháp có dính líu đến tất cả những người Việt di cư rồi định cư tại nước này và những người Việt có quốc tịch Pháp (Pháp gốc Việt) hiện sống trên đất người.

 

II . Phương diện xã hội học và văn hóa của di trú việt nam tại pháp

(Từ hội nhập đến tư cách công dân)

Trong cuộc thảo luận tiếp theo thuyết trình tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại Pháp (số 15, đường La Pérouse, Paris Quận 16) về "Les naufragés de la liberté" (Những Kẻ Trầm Luân của Tự Do), diễn giả Michel Tauriac trả lời như sau về một câu hỏi đến vấn đề đồng bào định cư muốn hội nhập (intégration) xã hội Pháp: Sự hội nhập xã hội của di cư định cư Việt Nam trên đất Pháp là một thành công lớn. Ðôi khi ta có thể nói là có sự đồng hóa (assimilation), và như ông Tổng trưởng đã nhấn mạnh trước đây, sự thật là người Việt bị cấu xé giữa hai nền văn hóa. Họ có một chân trong mỗi nền văn hóa. Dầu sao họ cũng cảm thấy sung sướng trên đất Pháp. Trong tôi cũng có một phần người Việt Nam như quí vị đã biết. Người Việt không ở trên đất Pháp như mọi người khác ở đất xa lạ, như mọi người khác ở Hoa Kỳ, hay Úc, vân vân. Pháp quốc, đối với họ, là một chút như sự tiếp nối của quê hương xa xăm, dưới một hình thức khác. Sự hội nhập này đã thành công mặc dầu cái sợ, cái lo âu của họ có thể bị mất gốc rễ và sự lo ngại thấy con cái ngày mai sẽ thoát khỏi gia đình. Ðó là một chuyện rất thường bởi vì con cái sẽ tự lấy tự do, con cái họ được sinh ở Pháp, chúng lập gia đình đôi khi với người Pháp, dù muốn dù không, bởi vì những kết hôn cha mẹ định trước vẫn còn, ở đây cũng như ở Việt Nam... (x. Mondes et Cultures, Comptes Rendus Trimestriels des Séances de l'Académie des Sciences d'Outre-Mer, Tome LIX - 3 - 4 - 1999, Tome - 1 - 2000, p. 300).

Ông bạn đồng liêu của tôi ở Viện Hàn Lâm rất chính xác khi ông nói đến sự thành công của người Việt trong sinh sống hòa hợp với xã hội Pháp. Vì thế cho nên trong cuộc Thăm Dò Dư Luận từ 12 tới 15 tháng 6-2001 (do Bộ trưởng phụ trách Thành Thị thuê hãng IFOP thực hiện) của những thanh thiếu niên (từ một mẫu đo lường gồm 522 người) sinh tại Pháp và có cha mẹ người thuộc nước Algérie, Tunisie và Maroc hoặc Phi Châu với kết quả là chữ "hội nhập" (intégration) được điểm rất nhỏ: 5,9 trên 10, không có điều tra về thanh thiếu niên Việt. Vì chuyện đồng bào chúng ta (thế hệ thứ hai) hòa hợp với xã hội Pháp là một chuyện tự nhiên! Trong thực tế, ta nên lấy một thái độ dè dặt hơn...

Muốn hiểu rõ sự thật, trước hết ta phải lấy hết sức định nghĩa chữ "hội nhập xã hội Pháp" một cách sáng suốt, nhưng chuyện đó không phải là dễ. Theo Hội Ðồng Tối Cao về Hội Nhập (Haut Conseil à l'Intégration): Việc hội nhập (intégration) có thể nói là một đường lối trung bình giữa sự đồng hóa (assimilation) và sự xen tháp (insertion). Như thế có nghĩa là trong hội nhập, ta phải làm thế nào để những thành phần muôn mặt và khác nhau phải gia nhập tích cực vào cuộc xây dựng xã hội nước Pháp, nhưng cùng một lúc ta phải thừa nhận tất cả sinh hoạt của những đặc tính văn hóa, xã hội và luân lý và công nhận là một lẽ dĩ nhiên rằng toàn thể (xã hội Pháp) được phong phú thêm nhờ những biến hóa, những tính tình phức tạp ấy. Câu hỏi quan trọng phải nêu lên: Ðồng bào ta có cần phải dứt khoát với gốc rễ quê hương để hội nhập xã hội nước người? Như André Frossard đã viết: "Câu trả lời rất đúng cho một câu hỏi rất đúng là một câu hỏi khác, và một vấn đề được giải quyết là một vấn đề đặt lên một cách sai lầm: điểm cuối của bất cứ bài diễn văn nào đáng chú ý là một chấm hỏi"... Như vậy, câu trả lời khôn khéo cho câu hỏi này sẽ là một câu hỏi khác: Sự hội nhập của những kẻ tha hương nói chung và của người Việt nói riêng vào xã hội Pháp có cần đi đến sự công dân hóa bằng cách xin nhập quốc tịch Pháp? Trong một bài xã thuyết đăng trong "Le Viêt-Nam au Présent", tr. 194-207, th. 10-1992, nhà xã hội học Lê Hữu Khóa trích nhà văn Dương Thu Hương đã viết trong một tự bạch: "Dân tộc ta đã chết hàng triệu lần trong cái chết", đã cho vài lời chú giải như sau: "Theo Dương Thu Hương, dân tộc Việt Nam biết rằng thà chết còn hơn sống. Và ngày nay, để học lại cách sống, họ phải học cách trọng lẽ phải và sự công bằng"... và tiếp tục: Với hai chữ Sự Thật , Công Bằng, phải thêm hai chữ khác nữa để dành đặc biệt cho cộng đồng người Việt: Trung Tín và Khoan Dung. Lê Hữu Khóa nhấn mạnh vào chữ Trung Tín (Loyauté) bởi vì chúng ta, người Việt Nam, chúng ta phải trung tín với nước Pháp đã chiêu đãi, đã cho chúng ta một cơ hội may mắn để làm lại cuộc đời, trong khung cảnh một Quốc Gia kính trọng pháp quyền và tự do cá nhân. Nhà xã hội học kể lại chuyện ông Tố Hữu, Phó Thủ Tướng và phụ trách văn phòng Thư ký Ðảng Cộng sản , đã nói một cách trắng trợn, trong cuộc đàm luận về vấn đề cộng đồng VN nhập quốc tịch Pháp: (xin trích) "Chữ "passeport" dịch ra tiếng Việt bằng Hộ Chiếu. Nếu chúng ta chỉ giữ lại chữ cuối cùng "chiếu", chữ này có nghĩa là "tấm chiếu", mà người ta có thể trải ra, cuốn lại, giữ gìn hoặc vứt bỏ". Tố Hữu muốn nói - từ cái tỉ dụ này - rằng một khi người định cư được nhập quốc tịch của nước chiêu đãi, việc này chỉ tóm lại thành một tờ giấy. Ðâu có gì quan trọng nếu sau này họ muốn thay đổi hay từ bỏ quốc tịch? Và nhà xã hội học Pháp gốc Việt nổi giận: "Chúng ta không chấp nhận cái thái độ gian lận này, chúng ta có bổn phận đối với quốc gia đã nồng hậu đón tiếp chúng ta, đã cho chúng ta đủ mọi cách để làm lại một cuộc đời mới. Chúng ta phải hãnh diện được nhập quốc tịch Pháp cũng như chúng ta hãnh diện là những công dân Việt Nam".

Cùng theo một quan niệm và nhân dịp nói đến Pháp quốc là một nước đã nồng nhiệt tiếp đón (tôi đã nhấn mạnh chuyện này tại Viện Hàn Lâm trong buổi họp ngày 03-03-2000) hàng ngàn "những kẻ trầm luân vì tự do", tôi xin nhắc lại rằng lúc bấy giờ, trong những năm 1976 và kế tiếp, dưới thời các chính phủ Jacques Chirac và Raymond Barre, những kẻ tị nạn VN tại Pháp (sau khi Sài Gòn thất thủ) đã được chính quyền Pháp nâng đỡ tận cùng. Tôi còn nhớ hồi ấy, Tổng Thống Giscard d'Estaing đã ra chỉ thị cho công chức Hành Chánh phải làm cho thuận tiện (dễ dàng), đơn giản và mau chóng thủ tục gia nhập quốc tịch Pháp cho người tị nạn. Sau khi Bắc Việt thôn tính Nam Việt vào tháng tư 1975 và kế theo là thảm kịch của những người vượt biển (đi tìm tự do), đồng bào chúng ta có thể được quốc tịch Pháp trong một thời gian ngắn: 6 tháng, 9 tháng hoạc lâu nhất là một năm. Tôi đã giúp đỡ nhiều đồng bào trong việc làm thủ tục giấy tờ... và nhân dịp này muốn nói lên lòng biết ơn của người VN đối với chính quyền Pháp.

Sự hội nhập xã hội nước người của đồng bào VN là một thành công, bởi vì những kẻ cựu tị nạn đặt chân trên đất Pháp vào những năm giữa 1954 và 1975, toàn là sinh viên, trí thức hay làm thương mại, đã không ngần ngại sấn vào những địa hạt chuyên môn và khoa học, cũng như những ngành y khoa - dược khoa, và yêu chuộng học thức trước tất cả, thế hệ này qua thế hệ khác. Trả lời một câu hỏi của tôi trong buổi đàm luận tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại chiều ngày 03-03-2000 về tổng số người Việt tại Pháp, nhà văn và ký giả Michel Tauriac cho biết: "... Tôi có thể nói: vào khoảng 1 triệu người. Tại sao? Hãy mở Minitel và tìm kiếm họ "Nguyễn" - xem như một thứ "Dupont" của Việt Nam - thì quí vị sẽ thấy họ này khắp mọi nơi ở Pháp, trong tất cả những thành thị, trong tất cả những quận huyện. Quí vị sẽ biết tại Pháp có chừng 4,000 bác sĩ y khoa Việt Nam và hơn 2,000 xỉ khoa y sĩ và dược sĩ, nhưng đối với dân Pháp, tất cả người Việt là người Tàu và tất cả đều là chủ cao lâu..." Sử học gia Philippe Devillers hiện diện hôm ấy có thêm vào danh sách này những chuyên nghiệp điện tử, hoặc trong ngành "informatique" (có nhiều người Việt rất tài giỏi) và các nhà khảo cứu khoa học lừng danh... Tôi tin chắc là nhờ giáo lý của Khổng tử, hơn là Phật giáo và Ðạo giáo, những cựu tị nạn nay định cư tại Pháp đã theo đuổi học hỏi và rèn luyện trí thức đến tận cùng... Phần đông đã thành công (nhất là trên mặt kinh tế) và đó là một cách trả ơn xứng đáng của người Việt cho Pháp quốc đã đón tiếp nồng hậu những kẻ "trầm luân của tự do". Hơn nữa, tinh thần hỗ trợ gia đình đã thoa dịu những vết thương của đồng bào trú ngụ tại Pháp bị thất nghiệp trong những năm 1980. Thành thử, mặc dầu đời sống khó khăn, trong cộng đồng Việt Nam tại Pháp, không có người nào bị thân thuộc ruồng bỏ phải sống sót bên lề đường... Trong những giai đoạn khủng hoảng, tất cả thị tộc thiết lập lại dưới mái nhà cùng dòng họ: thanh niên Việt thất nghiệp được cho ở trong nhà của cha mẹ, đến lượt cha mẹ già được sống êm dịu những ngày hưu trí trong nhà con cái, cháu chắt chứ không phải nương náu cô quạnh trong nhà dưỡng lão. Sự phụng thờ tổ tiên trên đất khách luôn đi đôi với sự tôn kính và biết ơn người lớn tuổi. Trong giao dịch, nếu (đôi lúc) có sự chống đối giữa những người định cư thuộc thế hệ thứ nhất thấm nhuần Nho giáo và những thanh thiếu niên thuộc thế hệ thứ hai (sinh tại Pháp) tôn trọng nhân quyền và thấm nhuần chủ nghĩa cá nhân Âu Tây, sự tương phản về tư tưởng này không bao giờ đưa đến đoạn tuyệt. Bởi vì các bô lão Việt Nam cũng không quên bài học "Trung Dung" của Ðạo Khổng, cho nên không phản đối trước thái độ rất tự do cá nhân của những người trẻ tuổi thuộc thế hệ thứ hai.

Ðồng bào chúng ta có cần phải cắt đứt với nguồn gốc quê hương để hoàn toàn hội nhập xã hội nuớc người? Tôi không trả lời được cho câu hỏi này (như đã nói trên). Nhưng để tưởng nhớ tới nghìn vạn người vượt biển đã bỏ mình cho Tự Do, tôi xin trích mấy dòng sau này của Siegfried, với mục đích dâng tặng đồng bào định cư khắp năm châu: "Le premier immigré demeure, sa vie durant, un homme de son pays d'origine".

 

Gs Lê Mộng Nguyên (Paris)

 


Last updated July 7, 2003, by Giáo Sư Nguyễn Ðăng Trúc

Trung Tâm văn hóa Nguyễn-Trường-Tộ

13 g rue de l'ILL F- 67116 Reichstett, France

Tel 00 33 3 88205822

E-mail trucdang@evc.net

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page