Chứng Nhân Hy Vọng

(Các Bài Giảng Tĩnh Tâm

của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

cho Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Giáo Triều Rôma)

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


- 18 -

Bài Suy Niệm thứ mười tám

Hỡi Ðoàn Chiên Nhỏ

Ðừng sợ

 

Trong Thượng Hội Ðồng Giám Mục Âu Châu mới đây (từ ngày 1 đến ngày 23/10/1999), các giám mục đã nhiều lần nhấn mạnh sự kiện Giáo Hội tại những nước có truyền thống Kitô giáo kỳ cựu, ngày nay đang ở trong vị thế thiểu số. Các vị nói tới sự giảm sút ơn gọi linh mục và tu sĩ, việc sống đạo giảm bớt, tôn giáo bị đóng khung trong lãnh vực riêng tư, khó ảnh hưởng trên phong hóa và các cơ chế, vấn đề thông truyền đức tin cho các thế hệ trẻ. Một giám mục tâm sự với tôi rằng trước kia Ngài từng có 145 chủng sinh, nhưng năm ngoái chỉ có một thanh niên vào chủng viện. Một vị khác nói với tôi: "Tôi làm giám mục từ 7 năm nay. Tôi đã truyền chức 7 linh mục và an táng 147 linh mục".

Tại những nơi khác, tạ ơn Chúa, tuy có ơn gọi, nhưng việc nhận vào chủng viện lại bị chính phủ giới hạn và cứ hai năm một lần mỗi địa phận chỉ được nhận 5 chủng sinh. Tại một số nơi, các giám mục phải ở lại chức vụ cho đến 80 tuổi và có khi tới 90 tuổi, vì chính phủ không chấp nhận việc bổ nhiệm người kế vị. Tại các nước khác, vì nhiều khó khăn, nhiều Kitô hữu phải di cư sang Tây Phương, và thế là các lãnh thổ Kitô giáo từ thời các Tông Ðồ nay đang trở thành một "viện bảo tàng thời Kitô". Tại những nơi khác nữa, một linh mục, bị kiệt lực về thể xác và tinh thần, vì phải dong duổi dưới ánh nằng mặt trời nhiệt đới để săn sóc cho 30 cộng đoàn.

Quả thực, ở vị thế thiểu số, đó là một đặc tính của đời sống Giáo Hội trong thế giới hiện nay.

 

Vatican ở đâu?

Tôi đi đây đó với thông hành ngoại giao của Tòa Thánh. Nhiều khi tôi gặp khó khăn từ phía nhân viên cảnh sát ở các phi trường. Các cảnh sát Ý nói chung thường không gây khó khăn nào đặc biệt, nhưng cũng có những lần họ bắt tôi đợi vì muốn các bạn đồng nghiệp xem cho biết thông hành của Tòa Thánh. Ở Ðức thì khó hơn. Họ hỏi: "Santa Sede, Tòa Thánh là cái gì vậy?" Ở Malaysia càng khó hơn nữa. Họ hỏi tôi: "Tòa Thánh ở đâu, ở Vatican hả?" Tôi trả lời: "Ở Italia, Rôma". Họ dẫn tôi tới trước một bản đồ thế giới thật lớn và nói: "Ông hãy chỉ cho tôi xem Italia ở đâu? "Rôma ở đâu? Và Vatican ở đâu?" Nhưng trên bản đồ, không có Vatican. Và thế là tôi phải đợi nửa tiếng đồng hồ với những người di dân bất hợp pháp. Sau cùng, viên cảnh sát trưởng nói với các thuộc cấp: "I know. The Vatican is a former French colony!" - "Tôi biết rồi, Vatican là một cựu thuộc địa của Pháp".

 

Mầu nhiệm của thiểu số

Chúng ta hãy để ý tới lịch sử Dân Chúa, tới Kinh Thánh, để nhận ra trong đó những trình thuật và sự kiện có thể soi sáng tình trạng "thiểu số" của chúng ta.

Kinh Thánh nói đến nhiều tường thuật về việc Thiên Chúa dùng những người yếu đuối để đánh bại kẻ mạnh. Từ thân phận yếu thế, Môi sen đã chiến thắng Pharaon và giải thoát dân Ngài, bà Giuđit đã đánh bại tướng Ôlôphênê, và bà Este đánh bại vị cận thần Aman.

Trong lịch sử Giáo Hội, không thiếu những ví dụ như trường hợp Thánh Nữ Catarina thành Siena, không có uy quyền nào, nhưng đã thành công trong việc thuyết phục Ðức Giáo Hoàng từ Avignon về Rôma, hoặc Thánh Don Bosco được Ðức Giáo Hoàng và cả nhà vua hỏi ý kiến.

Mỗi Thứ Sáu Tuần Thánh, khi chúng ta thấy Ðức Giáo Hoàng vác Thánh Giá tại Hí Trường Côlôsêô, chúng ta thấy trước mắt "mầu nhiệm thiểu số": chính Thánh Giá đã chiến thắng tên khổng lồ Ðế Quốc La Mã.

 

"Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn?" (J. Stanlin)

Khi nói về con số bé nhỏ, tôi muốn suy tư về câu chuyện lạ lùng của ông Ghêđêôn, thủ lãnh uy tín của dân Israel, vào thế kỷ 12 trước Chúa Kitô.

Sách Thủ Lãnh đoạn 7 kể lại cách thức ông Ghêđêôn chuẩn bị giao tranh chống lại người Mađian. Chúa nói với ông: "Ðám dân ở với người quá đông, Ta không giao nạp quân Mađian vào tay ngươi được". Và Chúa giải thích: "Vì Israel có thể tự phụ trước mặt Ta nói rằng: chính tay tôi đã cứu tôi" (Tl 7,2).

Theo chỉ chị của Chúa, Ghêđêôn giảm quân đội, trước hết từ 32 ngàn người xuống còn 10 ngàn, rồi từ 10 ngàn xuống còn 300. Và 300 người này chỉ võ trang bằng ống tù và để thổi và vò rỗng có đèn bên trong rồi tràn vào doanh trại quân địch, gây náo loạn. "Trong lúc 300 người thổi tù và, thì Chúa khiến cho mỗi người trong trại địch quay gươm chém giết đồng đội của mình" (Tl 7,22).

Từ câu chuyện trên, chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét sau đây:

- Cũng như Dân Cựu Ước thời Ghêđêôn, ngày nay, dân Israel mới cũng phải đương đầu với bao nhiêu thế lực đang mạnh mẽ chặn đường. Cần phải phản ứng. Nhưng như Israel, một Giáo Hội quá hùng cường sẽ có nguy cơ tự phụ, rơi vào tình trạng háo thắng, và coi thành công là của chính mình.

- Câu chuyện ông Ghêđêôn cũng làm chúng ta suy nghĩ: những "võ khí", bề ngoài rất nực cười, nhưng đột nhiên, có thể tạo nên công hiệu không thể lường được. Theo cùng một thể thức như ông Ghêđêôn, một Giáo Hội hoàn toàn tín thác nơi mệnh lệnh của Chúa, có thể đạt được những thành quả quan trọng dù không có những phương tiện vĩ đại. Có thể chỉ cần một từ và để loan truyền Lời Chúa, và một ngọn đèn, ánh sáng của Chúa, với điều kiện chúng ta là những chiếc vò rỗng.

- Cũng như đã xảy ra xưa kia cho người Mađian, ngày nay cũng có thể xảy ra là chính kẻ thù tự tiêu diệt mình và Giáo Hội không cần phải nỗ lực nhiều để ra khỏi khó khăn. Những cách thức gian ác và bất công rốt cuộc sẽ tự hủy diệt. Vì thế, không thể nói rằng Giáo Hội thiểu số chắc sẽ không còn khả năng ảnh hưởng nữa.

 

"Con không địch nổi tên khổng lồ Philitin đâu"

"Thiểu số về phẩm" làm cho chúng ta nghĩ tới cách thức Chúa hành động trong thời gian rất gần đây. Ở Lộ Ðức cũng như ở Fatima, và La Salette, Ðức Mẹ không hiện ra với những người được chuẩn bị và thông thái, nhưng với một hoặc nhiều trẻ em, mục đồng, hầu như dốt nát. Và Mẹ luôn chỉ dẫn cùng một phương pháp để đối phó với những khó khăn và đe dọa: đó là cầu nguyện và hoán cải.

Nhưng chúng ta hãy đọc lại Kinh Thánh và suy niệm về hình ảnh Vua Ðavít như một ví dụ về cách xử dụng những phương tiện khiêm hạ, không thích hợp, xét theo cái nhìn loài người, để thi hành sứ mạng của mình.

Tất cả chúng ta đều biết rằng biến cố đột nhiên làm cho Ðavít nổi tiếng và đưa ông tới sự chinh phục vương quyền, chính là chiến thắng của ông chống lại quân Philitin và đặc biệt là cuộc song đấu của ông chống tên khổng lồ Gôliát (1 Sm 17).

Tôi muốn nhấn mạnh một vài chi tiết có thể giúp thấy rõ tính chất thời sự của trình thuật này.

- Tên khổng lồ đã nhạo cười Ðavít và cũng nhạo cười cả chúng ta nữa. Hắn tượng trưng cho sự dữ hoặc những ý thức hệ và giá trị phản Tin Mừng. Gôliát có thái độ thù nghịch, đe dọa và thách thức: "Hãy tiến lên đây và ta sẽ lấy thịt này cho chim trời và dã thú ăn" (1 Sm 17,44).

- Giáo Hội ngày nay, đứng trước sự dữ, cũng như đang gặp phải Gôliát, một tên khổng lồ kinh khủng, dường như không thể thắng được. Trước mặt hắn, phản ứng đầu tiên của Giáo Hội, và cùng với Giáo Hội, của mỗi người chúng ta là cảm thấy như bất lực. Trong thế giới này không thiếu những người mang mặc cảm tự ti như vua Saun: "Ngươi không thể đương đầu nổi tên Philitin đó đâu" (1 Sm 17,33).

- Thoạt đầu, Ðavít đã đi theo con đường sai lầm. Ông mặc áo giáp của quyền lực nghĩa là theo cách tự vệ của thế gian (câu 38-39a). Nhưng điều đó làm tê liệt hành động của ông. Ông nói: "Tôi không thể bước đi với tất cả áo giáp thế này, vì tôi không quen" (câu 39b). Cũng hệt như Giáo Hội không dùng tới những kho vũ khí của thế gian này.

- Giáo Hội có những "khí giới riêng" để chiến đấu. Và những khí giới đó mới chính là võ khí đích thực duy nhất đáng kể. Trong số các khí giới đó nổi bật một nguyên tắc mà Ðavít nhắc đến: "Gôliát, ngươi đến đánh ta bằng gươm giáo. Còn ta đến với ngươi nhân danh Chúa các đạo binh" (câu 45). Những khí giới khác chỉ là phụ thuộc (câu 40): "cây gậy" (bất bạo động) tuy Ðavít mang theo nhưng không xử dụng trong trận chiến. Ðavít chỉ có một cái ná với 5 hòn sỏi tròn lấy từ dòng suối. Thực vậy, mỗi tên khổng lồ đều có một điểm yếu. Chỉ cần nhắm trúng điểm ấy. Một hòn sỏi bắn trúng đã đánh bại tên khổng lồ và chính gươm của hắn được dùng để cắt đầu hắn (câu 41-45).

Ðavít là hình ảnh của Giáo Hội ngày nay. Trong nhiều trường hợp, chúng ta chỉ là một thiểu số xét về lượng, về sức mạnh, về khả năng và phương thế. Nhưng như Ðavít, chúng ta tiến bước nhân danh Chúa.

 

Chúa Giêsu thích những con số nhỏ

Chúng ta hãy hướng nhìn Chúa Giêsu.

Trong Kinh Thánh, Môisen được trình bày như người của những số lớn. Khi dân Israel khởi hành ra khỏi Ai Cập, họ "có khoảng 600 ngàn người có khả năng đi bộ, không kể trẻ em". Ngoài ra, "một số đông những người lẫn lộn cũng đi với họ cùng với đoàn vật và vô số gia súc" (Xh 12,37-38).

Trái lại, Chúa Giêsu xuất hiện như người của những số nhỏ. Sự chú ý của Ngài được dành đặc biệt cho những người "bé nhỏ", những người tội lỗi: cho ông Giakêu, người phụ nữ xứ Samanria, người phụ nữ được tha thứ, người đàn bà ngoại tình...

Trong giáo huấn của Ngài về Nước Thiên Chúa, không thấy nói tới những con số khổng lồ hoặc những hào nhoáng bề ngoài: "Nước Thiên Chúa giống cái gì và tôi so sánh nước ấy với cái gì? Nước ấy giống như hạt cải, một người đem gieo trong vườn; rồi nó tăng trưởng, trở thành một cây lớn, chim trời đến đậu trên cành cây" (Lc 13,18-19).

Và: "Nước Thiên Chúa giống cái gì? Nó giống men mà một người đàn bà lấy đem giấu trong ba thúng bột để làm cho tất cả được dậy men" (Lc 13,20-21).

"Ngài nói: Thiên Chúa giống như một người gieo hạt trong đất; dù ông ngủ hay thức, ngày hay đêm, hạt ấy nẩy mầm và lớn lên; và chính ông không biết" (Mc 4,26-27).

Chúa Giêsu không so sánh nhóm môn đệ của Ngài với đoàn binh sẵn sàng chiến đấu hoặc reo hò chiến thắng, nhưng Ngài nói:

"Hỡi đoàn chiên nhỏ, đừng sợ, vì Cha các con muốn ban nước Trời cho các con" (Lc 12,32).

Và: "Các con là muối đất, nếu muối nhạt đi, thì người ta biết làm sao cho nó mặn lại được?" (Mt 5,13).

"Các con là ánh sáng thế gian..." (Mt 5,14).

"Thầy sai các con như chiên giữa sói" (Lc 10,3). Chúa nói với các môn đệ và khuyên họ ra đi đừng mang theo tiền bạc và không có quyền bính: các con đừng mang bị cũng đừng mang gậy (cf Mt 10,9-10).

Trong các dụ ngôn và câu chuyện của Ngài, người ta thấy nổi bật những con số nhỏ và những sự nhỏ bé, chứng tỏ Ngài quan tâm đến từng người, từng sự vật khiêm tốn nhưng lại cốt yếu.

Chúa nói về "hai đồng tiền nhỏ" được bà góa bỏ vào hòm tiền dâng cúng ở Ðền Thờ (Mc 12,41-42); về người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc (Lc 15,4-7); về người đàn bà có 10 đồng bạc, quét nhà để tìm một đồng bị mất (Lc 15,8).

Chúa chỉ cần năm chiếc bánh và hai con cá để nuôi đám đông.

Giáo Hội như một "thiểu số" được mời gọi sống Tin Mừng theo cách thức nhỏ bé, biến những ưu tiên của Chúa Giêsu thành của mình.

 

Tường lũy của thành Giêricô mới

Trong lịch sử, Giáo Hội trong chiều kích địa phương, là một thiểu số đứng trước Ðế quốc La Mã và trước các cuộc xâm lăng của các dân man di. Giáo Hội bị suy yếu vì những chia rẽ nội bộ trong thời cận đại, trước cuộc Cách mạng Pháp. Giáo Hội đã chịu đau khổ trong thế kỷ 20 vừa qua, vì cường lực của Ðức Quốc Xã, của chế độ Cộng sản, và giờ đây của chủ nghĩa tiêu thụ...

Nhưng trước tên khổng lồ Gôliát của mọi thời đại, Chúa vẫn gửi đến những người yếu thế như Ðavít: một Thánh Cirilô, Atanadiô, Hilariô thành Poitier, một Ambrôsiô và Augustinô, một Phanxicô Assisi, một Ðaminh, một Thánh nữ Brigitta và một Thánh nữ Catarina, một Thánh nữ Têrêxa và Thomas More, và trong thời đại chúng ta, tất cả các vị đại Giáo Hoàng của thế kỷ 20, và các vị mục tử như Wysynski, Mindszenti, Beran, Stepinac, Tomasek, và Ðức Hồng Y Cung Phần Mai.

Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI, vị Giáo Hoàng bị sâu xé vì cuộc khủng hoảng thời hậu Công Ðồng, đã chọn khẩu hiệu của Ngài là "in Nomine Domini" (nhân danh Chúa). Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngay từ đầu triều đại Giáo Hoàng của Ngài, đã lấy huy hiệu Thánh Giá, Hy Vọng của chúng ta. Và Ngài đã kêu lên: "Anh chị em đừng sợ! Chế độ sộng sản chỉ là một cái ngoặc trong lịch sử". Nhiều người đã nhạo cười Ngài. Họ nghĩ rằng Ngài không thực tế. Họ nói rằng bản đồ thế giới đã "đỏ" hết rồi. Nhưng những bức tường của thành Giêricô mới (Bá Linh) đã sụp đổ, và Giáo Hội đã bước qua ngưỡng cửa Ngàn Năm Thứ Ba.

 

Những con đường không hiểu được của Thiên Chúa

Khi tôi bị quản thúc tại làng Giang Xá, cách Hà Nội 20 cây số. Người cán bộ canh giữ tôi là một tín hữu Công Giáo. Thoạt đầu, ông ta đặt bao nhiêu câu hỏi về tôi: ông giám mục này đã làm gì để bị giam như thế? Khi sống và ăn chung với tôi, ngủ trong cùng một phòng cạnh tôi, dần dần ông ta hiểu, và ông để cho tôi được viết các sách tu đức. Ông cho phép các linh mục đến gặp tôi ban đêm, họ ở cách xa đó 300 cây số, để được nghe tôi nói về Công Ðồng chung Vatican II, vì không một giám mục nào ở Bắc Việt đã có thể tham dự Công Ðồng.

Mỗi tháng, người cán bộ ấy phải thảo một tờ báo cáo về tôi để nộp cho công an. Sau khi viết như thế trong một thời gian, ông ta nói với tôi:

- Tôi không viết nữa, tôi không biết phải viết gì.

- Ông cần phải viết! Nếu ông không viết, thì ông sẽ bị thay thế. Một người lính canh khác mà tới đây thì họ sẽ làm khó tôi.

- Nhưng tôi không biết viết gì cả!

- Vậy thì... tôi viết báo cáo, ông chỉ cần sao lại và ký tên.

- Tốt lắm.

Công an huyện khen ông ta về bản báo cáo và tặng cho một chai rượu cam. Thế là ông ta mang về nhà và tối hôm đó, chúng tôi uống chung với nhau.

Nhờ ông ta mà tôi đã truyền chức linh mục cho nhiều chủng sinh thuộc các giáo phận khác do vị bản quyền gửi tới cho tôi. Vì tôi đã ở tù rồi, nên không còn sợ bị rủi ro gì nữa. Ban đêm, ông ta dẫn chủng sinh đến gặp tôi. Họ mang theo sách nghi thức của giám mục và dầu thánh. Ðó là những cuộc truyền chức dài nhất thế giới! Vì các buổi lễ ấy bắt đầu lúc 11 giờ rưỡi đêm và chấm dứt lúc 1 giờ sáng ngày hôm sau.

Cũng vào ban đêm, cán bộ ấy dẫn tôi đi ban Bí Tích cho các bệnh nhân.

Tôi không bao giờ tưởng tượng nổi Chúa Giêsu gọi tôi thi hành loại mục vụ đặc biệt như thế. Quả thật, Chúa Thánh Thần xử dụng bất cứ ai để ban ơn thánh cho dân của Ngài!

 

"Thiên Chúa thật kỳ diệu"

Tôi kết luận với hai sự kiện khác:

Trên đảo Zanzibar, ở Ấn Ðộ Dương mênh mông, trong một làng nghèo dưới những bóng cây dừa, tôi đã gặp hai thiếu nữ người Ðức. Một cô là bác sĩ và cô kia là y tá. Họ làm gì ở đó? Họ là những người thiện nguyện muốn chứng tỏ tình thương của Chúa giữa thành trì của Hồi Giáo. Một hạt muối giữa Ðại Dương! Ôi đức tin vững mạnh thay!

Tại Bugamayo, một hải cảng ở mạn đông Tanzania nơi các thừa sai đầu tiên đến đây, tôi đã viếng thăm một nghĩa trang cũ của các thừa sai đầu tiên dòng Chúa Thánh Thần bên cạnh một cây cổ thụ bobab của Phi Châu. Tất cả đều đã chết tại đây khi còn rất trẻ, người lớn tuổi nhất chỉ có 39 tuổi. Trong thinh lặng, tôi quì gối và cúi xuống hôn đất, thầm thĩ: Lạ lùng thay công việc của Chúa nơi các Thánh của Ngài! (Mirabilis Dominis in sanctis suis). Và tôi nghe ngọn gió biển thổi xào xạc trên lá cây dừa: "Hỡi đoàn chiên nhỏ, đừng sợ".

Vì thế, thưa anh em: "Ðừng sợ! Chúng ta hãy tiến bước nhân danh Chúa!" Những bức tường của thành Giêricô mới sẽ sụp đổ.

 

Tuần Tĩnh Tâm đầu Mùa Chay Năm Thánh 2000

Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

 

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page