CẦU NGUYỆN

Rev. Ngô tường DZũng, Texas, USA

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


4. Cầu nguyện
và sự thương cảm

Nếu bạn có tương lai, sẽ là tương lai với người khác. Lời cầu nguyện hi vọng là lời cầu nguyện giải giúp bạn và cho bạn đi xa khỏi biên giới của những gì thuộc về bạn. Vì thế không thể nói đến cầu nguyện bao lâu cầu nguyện được coi như hành động trục xuất đồng loại. Thánh Gioan nói: "Ai nói 'Tôi yêu Chúa' và ghét anh em mình là kẻ nói dối" (1 Gioan 4:20). Và Chúa Giêsu phán: "Không phải kẻ nói với ta, 'Lạy Chúa, lạy Chúa' sẽ vào nước Trời nhưng người làm theo ý Cha ta trên trời" (Matthêu 7:21).

Cầu nguyện không bao giờ có tính cách phản xã hội hay phi xã hội. Bất cứ khi nào bạn cầu nguyện và không để ý đến đồng loại, lời cầu nguyện của bạn không còn là lời nguyện đích thực. Nhưng điều này không dứt khoát là như thế. Có nhiều người nói: "Ði ra ngoài và làm gì cho đồng loại thay vì cầu nguyện cho họ." Bây giờ hơi phóng đại khi giả thiết rằng điều này chút ít có lý vì người ta dùng nhiều thời gian cầu nguyện cho người khác. Nhưng rõ ràng là lời cầu nguyện không phải là vô hiệu quả và câu nói "Tôi sẽ cầu nguyện cho bạn" thường là lời nói vô nghĩa hơn là dấu hiện lưu ý đến nhau thật sự.

Trong ý nghĩ của người thời nay, người hoạt động và có nghị lực cầu nguyện và sống đã phân ly rõ ràng nên liên kết hai ý niệm lại là điều không thể được. Vấn đề chính ở đây là: làm sao lời cầu của bạn thực sự cần thiết cho sự phúc lợi của đồng loại. Làm sao bạn có thể cầu nguyện luôn và cầu nguyện thực sự cần thiết? Vấn đề chỉ quan trọng khi được đặt ra trong hình thái chính xác của nó. Câu hỏi cầu nguyện khi nào và thế nào không phải là câu hỏi quan trọng nhất. Câu hỏi chính yếu là bạn có cầu nguyện luôn không và lời cầu nguyện có cần thiết không. Ðây là đầu mối hay không là gì cả. Nếu ai nói hướng về Chúa trong lời cầu nguyện trong những phút rỗi rảnh là tốt, hay nếu họ công nhận ai có vấn đề dựa cậy vào lời cầu nguyện là tốt thì họ công nhận là cầu nguyện chỉ ở bên lề cuộc sống và điều đó không quan trọng.

Bất cứ khi nào bạn cảm thấy lời cầu nguyện nhỏ không làm hại gì thì bạn cũng thấy là nó cũng không làm cho ta nhiều điều tốt lành. Cầu nguyện chỉ có ý nghĩa khi cần thiết và không thể không có. Cầu nguyện chỉ là cầu nguyện khi ta có thể nói nếu không có cầu nguyện con người không thể sống. Làm sao điều này có thể đúng và trở thành đúng? Từ ngữ làm cho ta gần đến câu trả lời là từ ngữ thương cảm. Trước hết bạn phải xét xem điều gì xảy ra cho một người khi họ cầu nguyện bạn mới hiểu được điều đó. Rồi bạn mới có thể hiểu làm sao bạn có thể gặp đồng loại trong lời cầu nguyện.

Người nhìn vào thế giới với tinh thần cầu nguyện là người không chờ đợi hạnh phúc do chính mình, nhưng nhìn tới người khác đang đến. Người ta thường nói là người cầu nguyện ý thức sự tuỳ thuộc của mình và khi cầu nguyện họ cho thấy họ không được ai giúp đỡ. Ðiều này có thể dễ bị hiểu lầm. Người cầu nguyện không chỉ nói "tôi không thể làm điều ấy và tôi không hiểu điều ấy" nhưng cũng nói "tự tôi tôi không thể làm chuyện ấy và tự tôi tôi không cần phải hiểu điều đó." Khi bạn dừng lại ở câu thứ nhất bạn thường cầu nguyện trong lẫn lộn và thất vọng nhưng khi bạn thêm vào câu thứ hai sự tuỳ thuộc của bạn không còn là vô phương cứu chữa nhưng là sự cởi mở hạnh phúc nhìn tới phía trước để được canh tân.

Nếu bạn nhìn sự yếu đuối như là bất hạnh, bạn chỉ dựa vào lời cầu nguyện khi bạn thật cần thiết và bạn sẽ đi đến chỗ coi cầu nguyện như là lời thú tội miễn cưỡng về sự bất lực của bạn. Nhưng nếu bạn thấy sự yếu đuối như là điều làm cho bạn đáng yêu, và nếu bạn luôn sẵn sàng bị bất ngờ vì năng lực người khác ban cho bạn, bạn sẽ khám phá qua lời cầu nguyện là sống có nghĩa là sống với nhau.

Một lời cầu nguyện làm cho bạn nản lòng khó có thể được coi là lời cầu nguyện. Vì bạn chỉ nản lòng khi bạn giả thiết mình có thể làm mọi sự và mọi ơn bạn nhận được nơi người khác là bằng chứng rõ ràng cho thấy bạn kém họ, và bạn chỉ là người tràn đầy khi bạn không còn cần người khác.

Mỗi lần người thất vọng khám phá ra cách đau đớn là họ thất bại, họ bị xấu hổ và cúi đầu. Cuối cùng họ mệt nhọc và kiệt lực vì sự căng thẳng khi cố gắng chứng tỏ họ có thể một mình làm điều đó. Họ mất vẻ linh hoạt trong cuộc sống và trở nên chua cay. Họ kết luận là đồng loại thành kẻ thù và đối thủ đã hạ họ. Sự căng thẳng này lên án họ phải cô đơn vì mỗi bàn tay giơ ra cho họ được coi như là mối đe doạ cho danh dự của họ.

Nếu trong lời cầu nguyện với Chúa như người khác hoàn toàn, bạn đang tìm kiếm sự bình an đích thực trong cuộc sống. Khi Chúa hỏi Adam, con người là: "Ngươi ở đâu?" Adam trả lời "Tôi đang trú ẩn" (Genesis 3,9-10) và lúc này ông xưng thú tình trạng thật của mình. Nhưng xưng thú như thế dẫn ông đến Chúa. Người cầu nguyện là người đi ra khỏi chỗ trú ẩn và không những có can đảm nhìn thấy sự nghèo khó của mình nhưng cũng thấy mình không cần phải chạy trốn kẻ thù, chỉ có người bạn không muốn gì tốt hơn là mặc áo cho họ.

Chắc chắn cầu nguyện đòi phải công nhận, nghĩa là nhận ra tình trạng con người. Nhưng công nhận như thế không có gì là xấu hổ, làm cho cảm thấy vô ích hay thất vọng, nhưng là khám phá ra mình là con người và Chúa là Chúa. Nếu bạn để ý đến cái yếu đuối của mình, lỗi lầm của mình, cái thiển cận và quá khứ đảo điên, đến mọi biến cố sự kiện hay hoàn cảnh mà bạn thích loại ra khỏi lịch sử quá khứ của bạn, bạn chỉ dấu ẩn sau hàng rào mà mọi người có thể nhìn ra bạn. Ðiều bạn làm chỉ là thu hẹp thế giới của bạn thành một nơi trú ẩn nơi bạn đang trốn, trong lúc khốn khổ nghi ngờ mọi người đang nhìn bạn rõ ràng.

Cầu nguyện là từ bỏ cái an toàn giả tạo không tìm kiếm lý chứng bênh vực bạn nếu bạn bị đẩy vào một góc, không còn đặt hi vọng trong vài phút sáng láng phù du mà cuộc sống còn dành cho bạn. Cầu nguyện có nghĩa thôi chờ đợi Thiên Chúa cái thiển cận bạn thấy nơi mình. Cầu nguyện là đi trong ánh sáng tràn đầy của Thiên Chúa và chỉ cần nói lên không rút lời: "Con là con người và Chúa là Chúa". Lúc đó sự trở lại xảy ra, sự tái tạo mối liên hệ mới. Con người không còn phải là có lần lỗi lầm và Thiên Chúa không còn là người đôi khi tha thứ. Không, con người là tội nhân và Chúa là tình yêu. Sự trở lại làm cho điều đó thành hiển nhiên với vẻ đơn giản lạ lùng và sự sáng sủa làm cho ta phải chịu thua.

Việc trở lại này sẽ cho bạn xả hơi cho bạn thở lại và nghỉ ngơi trong vòng tay Thiên Chúa. Kinh nghiệm đó làm cho bạn vui tươi và bình tĩnh. Vì lúc đó bạn có thể nói: "Tôi không biết câu trả lời và tôi không thể làm chuyện đó, nhưng tôi không cần biết chuyện đó và tôi không cần phải có khả năng làm chuyện đó." Nhận thức mới này là một sự giải thoát sẽ cho bạn tự do đi tới mọi thụ tạo và cho bạn vui chơi trong vườn trước mặt bạn.

Người cầu nguyện không chỉ khám phá mình và Thiên Chúa nhưng khi gặp gỡ như thế họ biết người bên cạnh là ai. Vì khi cầu nguyện bạn không tuyên xưng người là người Chúa là Chúa mà cũng tuyên xưng người bên cạnh là đồng bào nghĩa là một người như bạn. Vì nếu sự trở lại mang bạn xuống đáy sâu của bản tính nhân loại bạn nhận ra là bạn không cô đơn: Làm người có nghĩa là sống với người khác.

Chính ở chỗ này phát sinh sự thương cảm. Sự thương cảm này không được bao bọc bằng sự thương xót hay do tiếng cảm tình. Thương xót có vẻ xa xôi. Cảm tình cho ta cảm tưởng gần gũi nhưng không chấp nhận người khác. Thương cảm không có vẻ xa xôi và không có vẻ không chấp nhận.

Thương cảm gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Trước hết cho bạn thấy người bên cạnh có bản tính nhân loại như bạn. Việc đồng cảnh ngộ này phá tan bức tường làm cho xa nhau. Ta vẫn đồng nhẫt dù cho chướng ngại lãnh thổ ngôn ngữ giàu nghèo khôn ngu, vì ta được dựng nên do cùng bụi đất chịu chi phối do cùng luật lệ và có cùng mục đích. Với sự thương cảm bạn có thể nói "Nơi vẻ mặt kẻ bị áp bức tôi nhận ra bộ mặt của tôi, và nơi tay người bị áp bức tôi nhận ra tay tôi, nói lên bất lực và vô phương giúp đỡ. Thịt họ là thịt tôi, máu họ là máu tôi, đau đớn của họ là đớn đau của tôi, và nụ cười của họ là nụ cười của tôi. Không có gì trong tôi họ thấy là xa lạ và không có gì trong họ mà tôi không nhận ra. Nơi mắt họ, tôi thấy lời van xin tha thứ và trong vầng trán cau có của họ, tôi thấy sự từ chối của mình. Khi họ giết người, tôi biết tôi cũng có thể làm chuyện đó và khi họ sinh ra tôi biết tôi cũng có khả năng sinh ra. Trong thẳm cung của hữu thể tôi, tôi gặp đồng loại đối với họ không có gì xa lạ dù cho yêu ghét sống hay chết."

Thương cảm là dám công nhận định mệnh giống nhau để có thể cùng tiến lên đi vào vùng đất Chúa đã chỉ cho. Thương cảm cũng có nghĩa chia xẻ niềm vui của người khác cũng khó như chia xẻ đau khổ của họ. Cho người khác cơ may được hạnh phúc và hoàn toàn vui mừng. Ðôi khi ta không thể làm gì hơn là mỉm cười và nói: Thực sự điều này thích hợp cho bạn" hay "tôi sung sướng thấy bạn đã làm điều đó."

Nhưng sự thương cảm này còn hơn là chia xẻ kiếp nô lệ cùng với sự sợ hãi và thở phào vì thoát nạn và hơn là chia xẻ niềm vui. Vì nếu thương cảm phát xuất từ cầu nguyện, thì cũng phát xuất do việc bạn gặp Chúa cũng là Chúa của đồng loại. Lúc mà bạn nhận là Chúa là Chúa Ðấng muốn là Chúa của bạn, và khi bạn cho Ngài đến với bạn, bạn nhận ra con đường mới mở rộng cho người bên cạnh bạn. Họ cũng không cần phải sợ gì, cũng không cần lẩn trốn sau hàng rào, họ không cần khí giới để thành con người. Khu vườn không được chăm sóc đã lâu cũng có ý nghĩa đối với bạn.

Trở lại với Chúa như thế, có nghĩa đồng thời trở lại với người khác đang sống với bạn trên trần gian. Nông dân, công nhân, sinh viên, tù nhân, người đau, da đen, da trắng, kẻ yếu, người mạnh, kẻ bị áp bức và người áp bức, bịnh nhân hay người chữa lành, người bị tra tấn hay tra tấn, ông chủ hay đầy tớ, không những họ là người giống như bạn nhưng họ được kêu gọi để mọi người nghe họ và cho Chúa cơ may là Chúa của tất cả.

Như vậy thương cảm không còn phô trương như là không còn sự khiêm tốn giả tạo. Nó kêu mời bạn hiểu mọi sự thấy chính bạn trong ánh sáng của Chúa và vui vẻ nói cho mọi người bạn gặp là không có gì phải sợ hết; đất đai tha hồ trồng cấy và hứa hẹn mùa gặt tốt.

Tuy nhiên không đơn giản như thế. Cũng có liều lĩnh. Vì thương cảm là bắc cầu đến với người khác mà không biết họ muốn ta đến không. Người đồng loại có thể chua cay nghĩ rằng họ không chờ đợi bạn điều gì. Rồi thương cảm sẽ thành hận thù và khó mà không chua chát nói rằng: "Bạn thấy tôi đã nói với bạn chưa, không được đâu." Tuy nhiên thương cảm có thể có qua lời cầu nguyện. Vì khi cầu nguyện bạn không dựa trên sức mạnh của chính mình, không trên thiện chí của người khác, nhưng chỉ do tín thác vào Chúa. Ðó là lý do tại sao cầu nguyện trước hết là lời kêu mời bạn tìm ra chỗ riêng cho bạn trên thế gian này và sống tại chỗ đó. Ðó là bạn không những khám phá ra mình hiện hữu, nhưng gặp người bên cạnh, người sẽ cùng với bạn vun trồng và phát triển thế giới mới.


Back to Vietnamese Missionaries in Taiwan Home Page