2- Theo chiều hướng này, hôm nay chúng ta muốn nhấn mạnh đến hai thái độ căn bản cần phải có đối với vị Thiên Chúa Emmanuel, Ðấng đã muốn gặp gỡ con người cả ở trong không gian và thời gian lẫn ở trong tận đáy lòng của họ nữa. Thái độ thứ nhất là thái độ đợi chờ, được rõ ràng cho thấy nơi đoạn Phúc Âm Thánh Marcô chúng ta đã nghe trước đây (x Mk 13:33-37. biệt chú của người dịch: đoạn phúc âm về thái độ của người tôi tớ phải đợi chủ trở về). Trong nguyên ngữ Hy Lạp, chúng ta thấy có ba lời truyền khiến nói lên việc chờ đợi này. Lời truyền khiến thứ nhất là: "Hãy coi chừng", tức là, "Hãy để ý, hãy cẩn thận!". "Chú ý", theo chữ nghĩa, tức là tất cả tâm hồn của mình hướng đến, phải hướng đến một điều gì đó. Nó ngược lại với phân tâm, một thứ phân tâm, bất hạnh thay, lại là một tình trạng hầu như cố hữu của chúng ta, nhất là trong một xã hội cuồng loạn nông nổi như của chúng ta hôm nay đây. Chúng ta cảm thấy khó lòng chuyên chú đến một mục tiêu nào đó, một giá trị nào đó, cũng như cảm thấy khó khăn trong việc trung thành và liên lỉ theo đuổi mục tiêu ấy, giá trị ấy. Chúng ta dám liều mình tỏ ra thái độ như vậy nữa đối với cả Thiên Chúa là Ðấng đã đến với chúng ta qua việc Nhập Thể của mình để trở nên hải tinh soi hướng cho đời sống của chúng ta.
3- Lời truyền khiến hãy coi chừng được tiếp theo bằng lời truyền khiến "hãy tỉnh táo", một lời truyền khiến theo nguyên ngữ Hy Lạp của Phúc Âm cũng là lời truyền khiến "hãy tỉnh thức". Chúng ta có xu hướng mạnh mẽ thiên về tình trạng ngủ mê, tình trạng bị vùi dập trong cái quyến hút của đêm đen, một tình trạng, theo Thánh Kinh, là biểu hiệu cho lầm lỗi, cho sự lì lợm và cho việc phủ nhận ánh sáng. Do đó mà chúng ta có thể hiểu được lời huấn dụ của Thánh Phaolô sau đây: "Hỡi anh em, anh em không ở trong tăm tối..., vì tất cả anh em đều là con cái của ánh sáng và là con cái của ban ngày; chúng ta không thuộc về đêm đen hay bóng tối. Bởi vậy chúng ta đừng ngủ như những người khác, song chúng ta hãy tỉnh thức và chú ý" (1Thes 5:4-6). Chỉ khi nào chúng ta thoát khỏi cái hấp dẫn mờ ảo của tối tăm và của sự dữ chúng ta mới gặp được Người Cha của ánh sáng, Ðấng "không lệch lạc hay mập mờ theo chuyển biến" (Jas 1:17).
4- Còn lời truyền khiến thứ ba được diễn tả hai lần bằng cùng một động từ Hy Lạp là "Hãy coi chừng!". Ðây là một động từ dành cho người lính gác, thành phần phải tỉnh táo canh chừng trong khi nhẫn nại đợi chờ thời gian đêm tối qua đi để nhìn thấy ánh sáng rạng đông bừng lên ở chân trời. Tiên tri Isaia đã diễn tả một cách sống động và hùng hồn việc mong đợi lâu dài này qua cuộc đối thoại giữa hai người lính gác, một cuộc đối thoại tiêu biểu nói lên cho thấy việc sử dụng thời gian đúng đắn: "'Này người gác viên ơi, đêm còn lâu không?' Gác viên trả lời 'Sáng đến rồi và đêm lại xuống. Nếu muốn hỏi mãi thì hãy cứ trở lại đây'" (Is 21:11-12).
Chúng ta phải tự vấn, cải hồi và đến gặp gỡ Chúa. Ba lời kêu gọi của Chúa Kitô: "Hãy để ý, hãy tỉnh thức, hãy coi chừng!", tóm gọn một cách rõ ràng thái độ mà người Kitô hữu phải chú tâm đến việc gặp gỡ Chúa. Như Thánh Giacôbê thúc giục chúng ta trong Bức Thư của ngài, việc chờ đợi cần phải nhẫn nại: "Hãy nhẫn nại cho tới khi Chúa đến. Hãy xem cách người làm ruộng đợi chờ đất đai trổ sinh hoa mầu tươi tốt. Ông ta nhẫn nại hướng về ngày đó trong lúc đất đai nếm những cơn mưa mùa đông và mùa xuân. Cả anh em nữa cũng phải nhẫn nại. Lòng trí anh em hãy vững vàng, vì ngày Chúa gần đến" (Jas 5:7-8). Nếu một bông lúa cần phải trổ cánh hay một bông hoa cần phải nở mầu thì có những lúc không thể ép buộc được; vì con người được sinh ra cần phải có chín tháng; muốn viết một cuốn sách hoặc sáng tác một bản nhạc hay thường phải trải qua nhiều năm nhẫn nại tìm tòi nghiên cứu. Ðó cũng là qui luật về tâm linh. Có một nhà thơ đã viết: "Hễ sự gì gấp rút thì sẽ chóng tàn rụi" (R. M. Rilke, Sonnets to Orpheus). Việc gặp gỡ cuộc mầu nhiệm cần phải nhẫn nại, thanh tẩy nội tâm, thinh lặng và đợi chờ.
5- Chúng ta vừa
nói đến hai thái độ tinh thần
để khám phá ra vị Thiên Chúa
là Ðấng đến với chúng
ta. Thái độ thứ hai - sau khi chú
ý và tỉnh táo chờ đợi
- là thái độ lạ lùng, bỡ
ngỡ. Chúng ta phải mở mắt
của mình ra để ca ngợi Thiên
Chúa, Ðấng chẳng những ẩn
mình và hiện mình nơi các sự
vật mà còn là Ðấng dẫn
chúng ta vào những lãnh giới
của mầu nhiệm nữa. Thứ văn
hóa kỹ thuật, nhất là tình
trạng chìm sâu vào các thực
tại vật chất, thường ngăn
cản không cho chúng ta thấy được
cái dung nhan ẩn náu nơi các sự
vật. Thực vậy, hết mọi sự,
hết mọi biến cố, đối với
những ai biết cách đọc được
chiều sâu của chúng, đều chất
chứa một sứ điệp có
mục đích dẫn đến Thiên
Chúa. Như thế có nhiều dấu
chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện.
Thế nhưng, để chúng không thoát
khỏi tầm mắt của mình, chúng
ta phải tinh tuyền và đơn thành
như con trẻ (x Mt 18:3-4), thành phần có
thể ca ngợi, bỡ ngỡ, lạ
lùng và vui thú trước những
tác động yêu thương và gần
gũi của Thiên Chúa đối với
chúng ta. Theo một nghĩa nào đó,
chúng ta có thể áp dụng vào
sinh hoạt của cuộc sống thường
nhật những gì Công Ðồng
Chung Vaticanô II đã nói về việc
làm trọn dự án cao cả của
Thiên Chúa qua Lời mạc khải của
Ngài: "Bởi tình yêu viên mãn
của mình, Thiên Chúa vô hình
ngỏ lời với con người
như là những người bạn
hữu và tác động nơi họ
để mời gọi họ cùng tiếp
nhận họ vào mối hiệp thông với
Ngài" (Hiến Chế Mạc Khải, 2).