Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày
(Những bài suy niệm hằng ngày
của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu
Radio Veritas Asia)
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chúa Nhật I Mùa Chay (Lc 4,1-13)
Chúa Ăn Chay và Bị Cám Dỗ
Có một nhà thần bí nọ trở về thành phố sau một thời gian dài sống trong sa mạc, bạn bè và người thân vây xung quanh rối rít hỏi thăm và xin ông tả lại cho họ nghe về kinh nghiệm mà ông đã có về Thiên Chúa. Ai cũng hỏi: "Thiên Chúa ra sao?". Nhưng làm sao ông có thể diễn tả kinh nghiệm của tâm hồn bằng lời nói được. Bị gạn hỏi mãi, sau cùng ông đưa ra cho họ một công thức thật mơ hồ và bất toàn, với hy vọng khiến cho ai đó không được thỏa mãn, với câu hỏi "quyết định tìm vào sa mạc sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa" như mình. Mọi người mừng rỡ ghi chép công thức ấy và biến nó trở thành một văn bản thánh. Họ buộc mọi người phải thuộc bản văn đó như Kinh Tin Kính, và không nề quản hy sinh gian khó vượt trùng dương để loan báo cho các dân, các nước công thức ấy. Và có người trong bọn đã hy sinh cả mạng sống cho công tác loan truyền này nữa. Nhưng không ai tìm được cho mình kinh nghiệm sống về việc gặp gỡ Thiên Chúa cả. Ðó là điều khiến cho nhà thần bí nọ vô cùng buồn sầu và hối hận, và ông đã thầm nghĩ rằng: Thà đừng nói gì cả có phải hay hơn không?".
Anh chị em thân mến!
Thiên Chúa không phải là một văn bản, mà là một bản vị, một nhân vật sống động có các liên hệ thân tình với loài người. Ðó là sứ điệp mà các bài đọc Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay đề cập đến.
Sách Ðệ Nhị Luật (26,4-10) là bản văn đúc kết niềm tin của dân Do Thái vào Thiên Chúa mà học giả Beinha Fuegat gọi là kinh tin kính lịch sử của Israel. Nó diễn tả kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ giữa dân Do Thái và Thiên Chúa trong thời khai sinh ra lịch sử của họ. Trong cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, vào khoảng năm 1250 (trước tây lịch) dân Do Thái mới ý thức được họ là một dân tộc bao gồm 12 chi họ khác nhau, dưới sự lãnh đạo của Môisê, họ cảm nhận được các mối dây liên hệ với nhau. Cho tới lúc đó, họ chỉ có một ý thức dân tộc mờ nhạt, biết mình thuộc về chi họ này, chi họ kia, giữa dòng giống Do Thái và sống riêng rẽ nhau. Nhưng họ chưa có ý thức quốc gia, nghĩa là chưa có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có đất nước và một mệnh lệnh chung. Nhờ có biến cố Xuất Hành, người Do Thái mới ý thức được rằng: Họ là một dân tộc thực sự, và Giavê Thiên Chúa của cha ông tổ tiên họ trước hết là Ðấng đã giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ ở Ai Cập.
Kinh nghiệm về Thiên Chúa giải phóng ấy được cô đọng lại trong một công thức tuyên xưng lòng tin của họ vào Thiên Chúa. Hình ảnh Giavê Thiên Chúa như là Ðấng Tạo Hóa chỉ có về sau này, khi Israel suy tư về nguồn gốc con người và vũ trụ vạn vật, hay nói cách khác những gì được nhắc đến trong kinh tin kính trên đây của sách "Ðệ Nhị Luật" đều là kết quả các kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ sống động của dân Do Thái với Thiên Chúa. Chúng được làm khung trong bối cảnh của lễ nghi phụng tự dâng tiến lên Thiên Chúa các hoa trái đầu mùa. Khi cử hành các lễ nghi phụng tự là dân Do Thái sống trở lại kinh nhgiệm gặp gỡ Thiên Chúa trong suốt dòng lịch sử dài của họ kể từ thời các tổ phụ. Các biến cố ấy giờ đây được trở thành nền tảng niềm tin của họ.
Phụng vụ là cách thế nhắc nhớ dân Do Thái biết các điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm để giải phóng và cứu thoát, hướng dẫn che chở họ trong dòng lịch sử. Chính vì thế, tiếng Do Thái dùng để dâng lễ vật đầu mùa gọi là lễ "tưởng nhớ". Sự kiện toàn dân mang lễ vật đầu mùa tiến đến với Thiên Chúa là diễn tả cách đáp trả liên lỉ lời kêu mời của Thiên Chúa.
Ðây là cách thế mà dân Do Thái xưng tụng Thiên Chúa là Ðấng đã tạo dựng nên họ, chọn lựa họ, giải phóng họ khỏi Ai Cập và đưa họ vào miền đất hứa, nơi họ đang sinh sống. Ðối với Israel thì Thiên Chúa tạo Hóa là Thiên Chúa của biến cố Xuất Hành, Ðấng trao ban cho họ miền đất hứa và sẽ gửi Ðấng Cứu Thế đến. Bàn tay tạo dựng của Ngài cũng là bàn tay và cánh tay của Ðấng quyền uy giải phóng họ khỏi kiếp sống tôi đòi bên Ai Cập, và hướng dẫn chở che họ trong 40 năm lang thang trong sa mạc để tiến về miền đất hứa. Bàn tay ấy giờ đây cũng giang ra đón nhận những hoa trái đầu mùa mà dân Do Thái tiến dâng lên Ngài. Những hoa trái nảy sinh từ lòng đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi ông là chính họ.
Việc cử hành phụng vụ như thế trở thành thời điểm, trong đó các hành động riêng rẽ của Thiên Chúa đã chiếm hữu, sắp xếp, thống nhất trở lại cho có thứ tự lớp lang và giải thích như là các hành động cứu độ, chứ không phải chỉ là lịch sử các biến cố tầm thường, vô nghĩa.
Qua trình thuật Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (Lc 4,1-13) thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy Chúa Giêsu khai mào một cuộc xuất hành mới là giải phóng loài người khỏi ách thống trị của Satan, của sự dữ, của tội lỗi, các chước cám dỗ của chúng, và cái chết như là hậu quả cay đắng cuối cùng của vòng xích oan nghiệp ấy. So sánh với tường thuật cám dỗ của Phúc Âm thánh Mathhêu, chúng ta thấy tường thuật của thánh Luca có ba đặc điểm sau đây:
1. Vai trò của Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả mọi thời điểm quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu đều được ghi dấu bởi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Ðối với thánh sử trong kinh nghiệm Phục Sinh và trong lịch sử của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không phải là sức mạnh như diễn tả trong Kinh Thánh Cựu Ước, mà là một bản vị, là Ðấng hướng dẫn cuộc đời Chúa Giêsu và hoạt động trong lòng thế giới. Chính Ngài đã dẫn đưa Chúa Giêsu vào sa mạc và trợ lực Chúa Giêsu trong cơn thử thách nơi sa mạc. Chúa Giêsu đã bị cám dỗ từ bỏ con đường khổ giá mà Thiên Chúa Cha đã vạch ra, để đi theo một con đường khác hấp dẫn hơn, ngoạn mục hơn và dễ dàng hơn.
2. Chúa Giêsu phải chọn con đường nào đây? Dùng quyền năng cứu thế của mình thỏa mãn các nhu cầu vật chất và hiện sinh, như biến đá sỏi thành bánh mà ăn, chứ không cần phải lao nhọc vất vả hay sống theo luật công bằng hoặc tinh thần liên đới chia sẻ làm gì; hay là dùng các phép lạ cả thể để lôi kéo tín đồ cho nó mau lẹ và kết quả, chứ tội gì mà phải khổ nhọc rao giảng gieo vãi hạt giống vào tâm hồn con người và thôi thúc họ đối chiếu cuộc sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm gì. Hoặc dùng bạo lực và mọi thứ sức ép vật chất và tinh thần để lôi kéo đông đảo môn đệ và tín đồ. Ðủ mọi thứ cám dỗ, nhưng Chúa Giêsu đã chọn lựa con đường khổ đau. Ðối với thánh Luca thì chiến thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ trước ngày công khai loan báo Tin Mừng nước trời, báo trước cho biết chiến thắng sau cùng của Chúa Giêsu khi chịu chết treo trên Thập Giá.
3. Ðặc điểm thứ hai trong trình thuật Phúc Âm của thánh Luca là vai trò quan trọng của thành Giêrusalem. Toàn Phúc Âm thánh Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu như là một cuộc lữ hành tiến về Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu sẽ thực hiện công trình cứu chuộc trần gian qua cuộc tử nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Do đó, thánh sử Luca đặt cám dỗ thứ ba trong bối cảnh thành Giêrusalem, nơi ơn cứu độ được thành toàn. Do đó không có chương ngại nào kể cả các chước cám dỗ mà ma quỉ được phép cản trở hành trình ấy của Chúa Giêsu.
Sa mạc: trong sa mạc của cuộc Xuất Hành xưa kia, dân Do Thái đã lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa. Họ đã ngã thua trước cám dỗ và khước từ Thiên Chúa là Ðấng giải phóng minh. "Lẩm bẩm" là từ Kinh Thánh Cựu Ước dùng để diễn tả thái độ chống lại Thiên Chúa, phản đối Ngài. Họ muốn gợi ý cho Thiên Chúa phải hành động thế nào để giải phóng mình. Trong sa mạc, Chúa Giêsu đã không nhượng bộ mà nghe theo lời ma quỉ cám dỗ, hay theo cách thế nó đề nghị. Mặc dù đói khát và khổ sở, Chúa Giêsu vẫn luôn vững tin vào lòng yêu thương quan phòng ấp ủ của Thiên Chúa Cha, mà không đòi yêu sách là phải trông thấy các dấu chỉ cụ thể của tình yêu thương quan phòng ấp ủ, như diễn tả bằng lương thực, của cải giàu sang, chức quyền và thành công trong đời.
Trong thư gởi tín hữu Rôma (Rm 10,8-13), thánh Phaolô tuyên xưng niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô Phục Sinh mà khẳng định với chúng ta rằng: "Mọi người đều có thể đạt được ơn cứu độ". Ðiều kiện duy nhất là tin nhận Chúa Giêsu Kitô, là sống Tin Mừng cứu độ của Ngài mỗi ngày trong đời. Hãy để cho lòng tin vào Chúa Giêsu đâm rễ sâu trong tâm trí chúng ta. Hãy biết nghiền gẫm Lời Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thánh thót nhỏ giọt trong con tim, trong tâm trí chúng ta và uống lấy Lời ấy. Hãy dành cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể của Thiên Chúa một chỗ nhất trong tâm trí chúng ta và hãy thực thi giáo huấn của Chúa trong đời.
Một khi đã thấm nhuần Tin Mừng của Chúa, chúng ta hãy tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, và đem hết nghị lục rao truyền Chúa Kitô và Lời Ngài cho mọi người khác. Và cách tuyên xưng lòng tin hữu hiệu nhất, trước hết và bây giờ cũng là gương sống cụ thể của chúng ta.