Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày
(Những bài suy niệm hằng ngày
của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu
Radio Veritas Asia)
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Ngày 1 tháng 1 - Tuần Bát Nhật Giáng Sinh (Lc 2,16-21)
Lễ Mẹ Thiên Chúa
Ðối với Giáo Hội Chính Thống, tước hiệu nổi bật nhất của Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa", trong khi đó đối với Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria trước tiên là Mẹ của loài người.
Hai khía cạnh này của Mẹ Maria được làm nổi bật qua phụng vụ và nghệ thuật của hai Giáo Hội. Một bên những bức ảnh Icon của Giáo Hội Chính Thộng làm cho người ta nghĩ đến Ðức Mẹ như một vị thần ngự trị trên Thiên Quốc hơn là người phàm. Ðàng khác, trong Giáo Hội Công Giáo các bức tranh và tượng ảnh về Mẹ Maria xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh nhân loại của Mẹ. Khía cạnh nhân loại này thường được chọn làm chân dung của Ðức Mẹ. Như vậy, trong việc tôn kính chính thức của Giáo Hội cũng như trong tâm tình của người bình dân, tính siêu việt lẫn nhân trần của Mẹ Maria đều được nêu bật.
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trân trọng cả hai truyền thống tôn kính này đối với Mẹ Maria. Ngài kêu gọi Âu Châu hãy thở bằng hai buồng phổi, một của Ðông Phương, một của Tây Phương. Một sự dung hòa như thế mới có thể bảo tồn được sự tôn kính đúng đắn dành cho Mẹ Chúa Giêsu.
Trong Phúc Âm thánh Luca, thánh sử nói về các mục đồng như sau: "Họ liền hối hả ra đi, đến nơi họ gặp thấy bà Maria cùng với Giuse và Hài Nhi được bọc trong khăn, đặt trong máng cỏ" (Lc 2,16). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì đây là một cuộc cách mạng thinh lặng. Thật thế, lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy tên của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Ðây không phải là một đoạn tuyệt với truyền thống "trọng nam khinh nữ" của người Do Thái, nhưng tác giả muốn sắp xếp như thế để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
Trong Phúc Âm (Mc 10,14), thánh sử ghi lại thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, Chúa Giêsu nói như sau: "Hãy để trẻ em đến với Ta và đừng xua đuổi chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai nên giống như chúng. Ta bảo các ngươi, ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ em thì sẽ không được vào trong Nước ấy".
Nhưng nên giống như trẻ em là gì nếu không phải là quay trở lại với Mẹ, tín thác nơi Mẹ. Một số nhà thần bí trong Giáo Hội xem đây như là một lời khuyến dụ kín đáo của Chúa Giêsu. Phải chăng Ngài chẳng muốn chúng ta tìm đến với Ðấng vì là Mẹ của Con Người, cũng là Mẹ của tất cả mọi người. Dù sao một trong những nghịch lý lớn nhất mà Tin Mừng đề ra là tiến đến trong đời sống thiêng liêng không phải là luật tiến hóa mà là luật của cải hóa.
Các cuộc Ðức Mẹ hiện ra của thời hiện đại đã bắt đầu vào năm 1830, tại một cộng đoàn của Dòng Bác Ái Vinh Sơn tại đường Du Bac ở Paris Pháp Quốc, Ðức Mẹ đã hiện ra cho thánh nữ Catherine Labouré và ủy thác cho thánh nữ quảng bá việc tôn kính ảnh Ðức Mẹ hay làm phép lạ. Lời kinh được truyền phải đọc trong việc tôn kính ảnh Ðức Mẹ có nội dung như sau: "Lạy Ðức Maria, là Ðấng đã được cưu mang mà không vướng mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con là những kẻ có tội chạy đến cùng Mẹ". Nhờ việc này mà giúp cho Giáo Hội định tín về Ðức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854. Thật ra, đây cũng chỉ là một tước hiệu mà Ðức Mẹ đã tự xưng khi hiện ra cho Bernadetta ở hang đá Lộ Ðức nước Pháp vào năm 1858.
Thật thế, nếu Mẹ Maria là tạo vật duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của tội lỗi, bởi vì tội nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại. Vào thời ấy, cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con người thời đại xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học, văn hóa và kỹ thuật rồi ra sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử trừ mọi ý niệm về tội Nguyên Tổ. Với khả năng vô tận của mình, rồi ra con người sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ có một đấng cứu thế nào cả.
Thế nhưng, lịch sử đã diễn ra không như con người của thời đại mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối bỏ cái siêu việt của con người đều dẫn đến sự tự hủy cho con người. Hai trận thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự hủy hoại con người.
Như vậy, sứ điệp mà Ðức Mẹ muốn nhắn gởi cho con người thời đại qua các cuộc hiện ra kể từ năm 1830, trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn kính Ðức Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp đặt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Ðức Giáo Hoàng, hàng Giáo Phẩm, các tác giả về tu đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình thức tôn kính khác nhau.
Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội buộc tôn kính các lần hiện ra của Ðức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi, đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Ðức Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Ðức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như trong các Giáo Hội Tin Lành.
Như vậy, việc tôn kính đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật nói ít, hay đúng hơn Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh Thánh.
Dĩ nhiên, với sự kín đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh Thánh đều đồng ý rằng: Các chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên khởi. Nhưng vẫn thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau, chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Ðó chính là ý nghĩa của việc tôn kính Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.