Trích Tập Truyện Ngắn
Ðường Về Thượng Trí

Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ
Trung Tâm Truyền Hình Quang Khải, Ðài Loan

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


NGỤC TỐI

Gã đàn ông vứt chiếc áo khoác xuống sàn nhà, chậm rãi bước đến cạnh bếp lửa. Hắn đứng tần ngần, nghĩ ngợi một chút rồi với tay lấy cuốn sách Thánh Kinh nhỏ. "Kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm". Hắn đã đọc đoạn này nhiều lần. Lạ lùng là mỗi lần đọc, hắn mang một cảm giác rờn rợn trên da thịt làm hắn rợn người.

Con mèo đen nhẩy vụt ngang qua mặt làm hắn giật mình. Ðứng cạnh chiếc đèn dầu, nó ngó gã đàn ông chằm chằm. Ðôi mắt xanh lẹt, qua ánh đèn, một chấm đỏ rực như vết máu hừng sáng trong cặp mắt nổi bật giữa bóng đêm. Ðôi mắt làm gã sợ. Hắn đá văng ống loong về phía con mèo như một hành động phản kháng lại nỗi sợ hãi. Con mèo nhảy phắt lên cánh cửa rồi mất hút trong bóng đêm dầy đặc. Hắn giơ tay vuốt mặt, bấy giờ gã mới thấy mặt nóng bừng có lẽ vì tức tối với con mèo. Tóc rối bù xòa kín trán. Hắn ngồi yên lặng một lúc rồi mở cửa ra gốc tre già, nơi đặt lu nước. Hắn cúi mặt xuống uống một hơi dài rồi lững thững trở vào.

Căn nhà vắng lặng như một nấm mồ lớn. Hắn trằn trọc mãi với những ý nghĩ hoang dại cho tới khi hắn không chịu được nữa vì những tiếng vang dội trong trí não thì hắn trở ra lu nước vục mặt xuống. Làn nước lạnh áp vào da mặt cho hắn một cảm giác tương phản lạ lùng. Ngồi dưới gốc tre nhìn lên bầu trời đen dầy đặc. Hắn chợt thấy một vì sao đang lấp lánh ở rất xa. "Kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm." Lời nói trong cuốn sách nhỏ lại vang lên trong đầu. Một lần, hai lần rồi lời nói từ từ lớn dần, vang dội, giọng nói âm thầm nhưng bùng lên mãnh liệt. Lời nói càng lớn thì âm thanh càng sắc nhọn, nhức óc. Lời nói như một lưỡi gươm bén xuyên xuống da thịt làm hắn chịu không nổi, hắn như bị ngộp thở bởi một bóng đen đặc sệt chụp kín người. Phản ứng tự vệ của hắn để thoát khỏi sức mạnh vô hình ấy là nhẩy lên, đấm vào khoảng không mênh mông với lời chửi thề.

"Kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm." Sau khi những tiếng vọng đó dằn vặt hắn, lời nói bắt đầu nhỏ, dịu lại như chiếc tầu đi xa dần sau tiếng hú ở sân ga. Bây giờ, trong trí hắn lại hiện lên một thanh gươm nhọn bén, đầu hơi lạnh làm gã rùng người như chính lưỡi gươm đang rạch xuống da bụng. Hắn run người chống đỡ. Khắp cả núi đồi trước mặt như vang dội lên từng tiếng: Gươm! Gươm! Gươm!. Tiếng vọng ấy chạy vòng quanh núi, rồi sau cùng mất hút ở phía bìa rừng.

Vẫn như lúc trước đây, khi hắn bước vào cửa, tự nhiên một sức mạnh ma quái vô hình nào đó xô đẩy hắn. Hắn ngước nhìn về phía cuốn sách, rồi trong trí óc gã lại vang lên: "Kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm". Con mèo đen trở lại tự lúc nào, ngồi co đầu đàng sau chiếc bình nước có vẻ sợ hãi. Hai chân trước chống chắc nịch xuống sàn gỗ. Hai gò vai nổi cao nhìn gã đàn ông chằm chằm. Hai mắt tròn xoe theo dõi gã đàn ông từng bước một như để sẵn sàng phản ứng nếu có chuyện gì xảy ra.

Gã đàn ông ngồi im lặng bên chiếc bàn gỗ không rời mắt nhìn vào xó tối góc nhà. Hắn chẳng có gì để tìm kiếm ở đấy cả, mà là để hồn đi vào một thế giới rối bời những ý nghĩ, những suy tính gay gắt đang xẩy ra trong đầu hắn. Một con dao găm cài ở vành quần. Một chiếc bao vải dầy trùm gọn xuống đầu gã đàn ông làm hắn không kịp kêu lên một tiếng. Cái dáng đi vô tư của kẻ thù trong một buổi tối chạng vạng thật dễ dàng cắm phập một lưỡi búa xuống gáy. Tất cả hình ảnh ấy đang soáy ngầu vần vũ trong đầu. Còn biết bao những hình ảnh khác, bóng hình nào cũng nhuộm màu máu, cũng có tiếng tru tréo kêu la. Tất cả như một cuốn phim bị rách nhẩy lung tung trên màn ảnh tâm trí gã. Ðôi lúc trí tưởng tượng của hắn hiện lên những đêm trăng u hoặc, mờ ảo. Những cánh rừng ẩm mốc lạnh lùng. Trong lúc gã đang chìm mình vào những hình ảnh ghê rợn thì con rắn rơi từ trần nhà xuống giữa bàn, ngay trước mặt hắn. Sức nặng của con rắn làm văng chiếc li bằng nhựa cáu ghét vì lâu ngày không được rửa xuống sàn gỗ tạo nên những tiếng động khô khan. Gã đàn ông giật mình nhẩy bắn sang một bên. Con rắn cũng hoảng hốt trườn mình về phía bếp lửa, ngoằn ngoèo qua khe vách, bò qua cuốn Kinh Thánh nhỏ rồi biến dạng vào khe ván bị nứt ở đầu nhà.

Cánh rừng dầy đặc. Ngọn núi trước nhà thỉnh thoảng vọng về tiếng hú của loài chim cú và chim đêm. Hắn trở lại, nằm ngả mình trên chiếc chõng tre. Tất cả các hình ảnh lúc nẫy lại hiện về. Con dao găm vẫn là một hình ảnh có sức thu hút nhất, nổi bật, sáng chói. Hắn ngồi hình dung ra kẻ thù của hắn bị một lát dao đâm phập từ sau lưng, mắt ngước trợn nhìn hắn căm thù nhưng không làm gì được rồi từ từ ngã quỵ xuống, cán dao vẫn còn lắc lư trên lưng. Xác kẻ thù chết nằm đó, im lặng. Hắn thở phào nhẹ nhõm. Ðáp số của một con toán đã xong. Một dầy vò đã được thỏa đáp. Nhưng thật sự những hình ảnh tưởng tượng đó chẳng giúp hắn được gì. Trở về với thực tại, kẻ thù hắn vẫn sống. Ý định căm thù vẫn soi bóng trong lòng, tất cả vẫn là một lối ngõ chưa có lối thoát. Trăm nghìn ý nghĩ rối bời làm hắn mệt nhoài. Úp mặt xuống bàn, hắn đi vào giấc ngủ đầy ác mộng. Trong cơn mộng ác hắn nghe tiếng người nói:

- Hà cớ chi ngươi phải tức tối? Hà cớ chi ngươi phải sầm mặt xuống?

Trong giấc mơ, hắn thấy Cain đang lủi thủi cúi mặt bên đồi chiều cô độc. Rồi như cuốn phim bị cắt đứt nhảy sang đoạn khác. Hắn bỗng thấy Cain lại đang cùng đi với Abel. Hai người đang đi ngược chiều về phía hắn. Hắn vội vàng núp sau đám sậy bên bìa rừng, hăm chú theo dõi lúc Abel muốn gợi chuyện với Cain, anh mình, nhưng Cain lặng lẽ đi không trả lời. Dáng đi của hắn buồn bã. Bỗng dưng Cain rút ra một lưỡi búa. Gã đàn ông giật mình, hắn rườn người khỏi đám sậy để nhìn cho rõ. Abel nghe tiếng động, với một linh tính báo hiệu chẳng lành, chàng ngó lại đàng sau. Bấy giờ Cain đã giơ búa lên đỉnh đầu. Abel hoảng hốt chẳng hiểu điều gì. Chàng ngã quỵ xuống, hai tay chắp trước mặt, mắt mở trợn kinh hãi không nói được lời nào. Cain lấy hết can đảm như sợ giây phút duy nhất sẽ qua đi và hắn sẽ chẳng bao giờ còn có thể thi hành ý định của hắn được, kiễng chân rồi với tất cả sức mạnh dồn xuống đôi tay, hắn giáng chiếc búa sắt xuống. Giữa lúc Abel cúi mặt, chiếc búa đập xuống đỉnh đầu. Abel đập mặt xuống đất. Im lìm. Máu đỏ vọt cao thấm xuống cát khô. Núi đồi vẫn yên tĩnh. Những chiếc lá khô lìa cành đều đặn theo từng cơn gió. Ðất trời vẫn dửng dưng. Cain vội vã nhìn quanh, phủi bụi, nhìn kĩ xem áo mình có dính vết máu nào không rồi hối hả đi về phía mấy cây sồi già. Nhưng vừa đi được một quãng ngắn, hắn thấy lạnh buốt rồi té quỵ. Một làn gió rát bỏng tạt vào mặt, hắn ngã chúi nhủi trong cơn lốc cuồng phong. Bỗng có tiếng gay gắt hỏi:

- Abel đâu?

Hắn đáp lại:

- Nào tôi đâu có biết, tôi đâu phải là người giữ nó!

Trong không gian hoang dại ấy, có tiếng người giận dỗi đòi hỏi:

- Khốn nạn cho ngươi. Máu của đồng loại ngươi đã vọt thấu trời cao. Những gai góc sỏi đá sẽ hớp lấy mật ngọt dịu dàng từ tay ngươi. Ðến tận cùng thời gian mày sẽ vất vưởng lang thang không bờ cõi.

Cain hốt hoảng sợ hãi. Hắn chẳng biết lời nói ấy từ đâu nhưng lời nói có uy quyền làm hắn phải van xin:

- Và tôi cũng sẽ bị giết như em tôi sao?

Từ trời cao có tiếng đáp trả:

- Không! Chẳng ai giết ngươi, và cứ dấu này mà người ta nhận ra ngươi là kẻ bị nguyền rủa.

Khi tiếng nó vừa dứt thì một thanh sắt dài rực lửa đỏ từ trên cao xa thẳm phóng ào xuống mặt hắn. Khi thanh sắt đập vào mặt Cain thì gã đàn ông có cảm giác như thanh sắt nung đỏ phóng vào mặt mình. Hắn nhảy bật dậy hét lớn cùng với tiếng hét của Cain. Mồ hôi chảy ướt trán. Hắn bàng hoàng hỗn độn không biết tỉnh hay mơ. Hắn thở hồng hộc như người bị ma đuổi, cố định lại tâm trí để xem những gì vừa xảy ra, nhưng tất cả vẫn im vắng hoang đường. Gian phòng trống rỗng vẫn lặng lẽ không có gì thay đổi. Chiếc đèn dầu vẫn dập dờn, ngọn lửa thỉnh thoảng bùng lên tùy theo những khẽ gió lọt vào. Gã đàn ông giơ tay vuốt mặt hồi tưởng lại giấc mơ khủng khiếp, rồi quay đầu ngó cuốn sách Thánh Kinh vẫn nằm trên kệ gỗ bên phía trên bếp lửa. Ðầu óc hắn lại vang vang tiếng nói từ xa thẳm vọng về. "Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm".

* * * *

Từ ngày mà hắn đã có quyết định dứt khoát giết kẻ thù thì cuốn sách Thánh Kinh kể như không còn là một bản án âm thầm nhức buốt nữa. Hắn tự thôi miên mình bằng con mắt lạnh lùng của chính hắn. "Ta phải làm chủ đời ta". "Ta sẽ sống như ta muốn sống". "Ta sẽ chết như ta muốn chết". Không một quyền uy nào tàn phá ý nghĩ của ta được. Và thực sự, hắn đã lất át được tiếng vọng của cuốn sách nhỏ về lời nói mà hắn đã bị dằn vặt bao ngày tháng: Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm.

Bây giờ, đối với hắn chỉ còn là thời gian đợi chờ. Hắn sẽ sửa soạn chăm chú để đón chờ mốc điểm thời gian định đoạt đó. Hắn mỉm cười tự đắc với ý nghĩ chiến thắng. Hình dung ra kẻ thù cúi đầu khuất phục trước mặt mình, hắn ngạo nghễ vang lên tiếng cười rừng rú. "Phải giết kẻ thù! Phải giết kẻ thù!". Những lời quyết định ấy như những ngọn sóng tiếp nối úp ập làm hắn không bao giờ mệt mỏi cho những toan tính âm mưu.

Cách khu đồi hắn ở không xa là khu rừng già đen sậm. Ðây là khu Rừng-Già-Cám-Dỗ thực ra không ai biết gốc gác tên gọi của nó. Chỉ nghe qua huyền thoại kể rằng, từ thuở xa xưa lắm rồi, từng đêm vẫn có những đoàn ma đi về lũ lượt, đi lặng lẽ ở bìa rừng như oán than tiếc nuối một thuở làm người. Họ là những kẻ bị rừng già giết chết. Người ta kể có những cây cổ thụ rất cứng. Có những người suốt một đời không chặt hết một cây. Vì mải mê với gỗ quý, biết bao người đã đánh mất mùa xuân của mình, khi tỉnh mộng thì tuổi đã xế chiều, trời đã xạm nắng. Huyền thoại kể rằng có những thân cây cao khủng khiếp, chúng lặng lẽ không nói nhưng có sức thu hút ma quái. Nhiều người đã bỏ hết một đời để chặt nhưng chẳng bao giờ chặt gẫy. Vì khi họ chặt vòng được sang phía bên kia của thân cây thì bên này thân cây lại bắt đầu dính vào nhau, và cứ như thế họ chặt xoay vòng thân cây để rồi chết rũ. Càng nhiều người chết thì bóng cây lại càng có sức quyến rũ lạ lùng. Họ mê hoặc, cứ thế rồi kiệt sức mà chết. Bao nhiêu thế kỉ qua, hồn ma vẫn hiện về than khóc và người ta đặt tên cho cánh rừng là Rừng-Già-Cám-Dỗ.

Gã đàn ông cũng đã dần dà bị thu hút từ những tiếng gọi yêu tinh của cánh rừng. Ðối với hắn càng ma quái càng làm hắn say sưa. Những bóng đêm huyền hoặc, những đêm trăng mờ ảo lạnh lùng, bây giờ, là thế giới của hắn. Ngày lại ngày, hắn lên rừng già để kiếm gỗ xây hầm. Ý định đầu tiên là phải phá bỏ căn chòi cũ, rồi, trước hết, phải đào một ngục tối cho kẻ thù.

Những thân cây cũng như những trụ đá, những cành cây vỏ sù sì như da cóc đã dần dần được kéo về. Có những khúc cây lồi lõm như những đầu người ẩn hiện. Có những khúc cây mang sẹo vì bị chém đã mọc da sần sùi như bàn tay người hủi. Thời gian lớp lớp đi qua, mải mê với những tháng ngày chặt cây kéo đá xây hầm, gã đàn ông quên cả thời gian. Những cánh quạ đen về làm tổ ở ven rừng là những bóng chim thay thế cho một mùa xuân không cánh én. Tiếng kêu khô khẳng như lời than tự tiền kiếp của bầy cú đã khua động sự tĩnh mịch quen thuộc của khu đồi. Vào những lúc hoàng hôn xế chiều, khi những sợi nắng cuối của mặt trời đã ngã bên kia núi thì bày quạ đen đua nhau bay lượn trên khu đồi hoang. Họa hoằn lắm mới có một vài cánh chim lạ ghé qua rồi cũng vội biến dạng về một cuối trời nào đó. Bầy quạ đương nhiên làm chủ khu rừng. Không biết chúng tự kéo về đây lập nghiệp, hay đã bị đố kị từ một nương dâu nào đó, khỏi những loài chim hiền từ khác.

Mối thù hằn đầu tiên đã xảy đến vào một buổi xế chiều, bày quạ đã đua nhau tung móng nhọn bổ nhào xuống con mèo đen. Một buổi chiều, những cánh quạ đen về đến tổ trên cành cây Thành Ngạnh ở đầu nhà thì khám phá ra hai quạ nhỏ đã bị cắt đứt cổ chết. Chiếc tổ rạ bị xé nát tanh banh. Từ đó giữa bày quạ và con mèo đen mang mối thù truyền kiếp. Con mèo không còn thong thả phơi nắng ngoài hiên nhà. Nó rụt rè, phải lo âu đề phòng những bất trắc có thể xảy đến. Nên cũng từ đó đôi mắt nó rực lửa sáng hơn, tinh quái hơn. Bày quạ đen phải thay đổi chỗ ở, nơm nớp lo âu cho số phận những chú quạ nhỏ khi chúng rời tổ đi kiếm ăn. Mỗi khi sơ hở là con mèo xé tan nát bày quạ con. Nhưng thực sự tai ương đầu tiên xảy ra không phải là con mèo đen mà là con rắn già giấu mình trên nóc nhà, chính nó đã giết chết những chú quạ non trên cây Thành Ngạnh.

Mối thù hằn hiểm độc của bày quạ, gã mèo đen và con rắn là một thế giới riêng biệt. Ðấy cũng là sinh hoạt độc nhất của khu rừng. Tuy nhiên gã đàn ông không hề hay biết gì cả. Năm tháng trôi theo dòng đời. Thời gian đi mãi rồi tất cả cũng phải đổi thay theo định mệnh của năm tháng. Một buổi sáng kia, con mèo nằm chết cong queo, lông ướt mẹp vì sương đêm, dòng máu khô còn dính trên mép. Gã đàn ông chẳng để ý đến sự hiện diện của con mèo là bao, nhưng khi nó chết rồi gã mới thấy căn nhà hoang vắng.

Vào một hừng sáng, hắn bị phá vỡ giấc ngủ vì tiếng kêu thảm thiết của bầy quạ. Lũ quạ bay cuồng loạn, rát cổ kêu gào, những tiếng kêu khô khan như muốn khạc máu xuống khu rừng gian ác. Chúng bay vần rũ điên dại trên khu đồi vì tất cả lũ con đã bị giết. Con mèo già đã chết. Bày quạ đen không còn đối thủ để trút cơn giận. Gã đàn ông đứng nhìn bày quạ chao lượn mà nghĩ đến ngày đại họa nào đó đổ xuống trên con người. Con rắn già ma quái vẫn thản nhiên co mình trong bóng tối ẩn trú.

Trăng lần lượt về rồi đi đã làm khu rừng thay lá biết bao lần. Những khóm sậy đã đổi giống qua bao thế hệ. Lối mòn lên rừng cũng đổi dạng thay đường. Có những cành cây mục xuống. Có những hạt giống đang nẩy mầm thay thế. Thời gian lặng lẽ lớp lớp đi qua. Gã đàn ông cũng chung định mệnh thời gian đang dần dần đi về một cõi xa xăm. Khi căn hầm đã xong, khóa cửa đã chắc nịch thì tuổi gã đàn ông cũng đã về chiều. Vào một ngày trưa tháng hạ, hắn ngước nhìn trời cao lồng lộng rồi hít một hơi dài cho căng lồng phổi. Khí trời thấm vào giòng máu mệt mỏi. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm miệt mài, hôm nay hắn mới thấy trời cao quá, rộng quá. Cũng là lần đầu tiên hắn thấy cõi lòng thảnh thơi vì chiếc hầm đã hoàn thành. Hắn thầm nghĩ, đây là thời gian ta được nghỉ ngơi. Lòng hắn rộn lên một niềm vui riêng biệt mà đã bao ngày gã ấp ủ. Niềm vui một ngày nào đó rất gần đây, nhìn thấy kẻ thù khom mình trong ngục tối mà hắn đã mòn hơi cuộc đời để xây cất.

Thời gian là lòng sinh mệnh có uy quyền chuyển hóa tất cả thăng trầm của vũ trụ, núi rừng. Khi được nghỉ ngơi để chiêm ngắm công trình của mình thì cuốn phim dĩ vãng bắt đầu hiện về. Vào những buổi tối trời, hắn ngồi nhìn bóng hình mình trên vách, nhớ đến những ngày cuốn sách nhỏ vang lên lời máu gọi: "Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm." Giấc mơ có bóng hình Cain và máu của Abel mấy mươi năm về trước cũng nhắc nhở hắn về những ngày xưa đã xa mờ. Ðầu óc gã rối rắm, những bóng hình mờ ảo đó không còn sâu đậm để hắn phải suy tư nhưng cũng chưa hẳn là đã phai mờ để cho hắn hoàn toàn thanh thản. Trong tâm hồn hắn vẫn còn những tiếng gọi của cả hai bên, của tù ngục và tự do. Chiến trường vẫn chưa phân biệt thắng bại. Hắn vẫn còn khổ sở với những ý nghĩ trái ngược nhau giữa Bóng Tối và Ánh Sáng, giữa tha thứ và hận thù, giữa khiêm tốn và thỏa mãn lòng kiêu hãnh.

Căn hầm đã xong. Ngục tối đã hoàn thành. Không thể tha thứ. Không thể phí phạm những xây đắp. Nghĩ đến công lao của bao ngày tháng đẵn củi đóng hầm, hắn cười sặc sụa khinh bỉ những ý nghĩ chết nhát của mình. Như để minh chứng cho một lời thề quyết tâm, hắn đứng dậy giang tay lên trời, con dao găm sáng quắc nằm gọn trong bàn tay chai cứng, hắn tiếp tục cười cô độc trong căn nhà vắng.

* * *

Hắn tự nhủ đây là lần sau cùng, lần kết thúc cuộc đời của gã đàn ông. Căn hầm đã xong. Gã bắt đầu toan tính chuyện giết chết kẻ thù. Tối hôm nay là hơn hai tuần lễ ngồi chờ, theo dõi giờ đi của một gã đàn ông cũng trạc cùng tuổi với hắn.

Một vài cánh chuồn chuồn chưa tìm được nơi ngủ đêm bay chạng vạng bên bụi sim. Hắn ngồi bệt bên gò mối chờ đợi. Hắn bực bội vì bầy muỗi rừng liều chết còn hơn là đói bay bu trên đầu, trên cổ. Hắn lại nhủ thầm: Ðây phải là lần sau cùng! Mỗi lần nói thế, hắn cảm thấy tăng thêm can đảm cho giây phút bão bùng mà hắn đã phải chờ đợi bao nhiêu năm nay. Tim hắn đập liên hồi. Càng về tối hắn càng lo âu, hồi hộp. Hắn dáo dác nhìn quanh. Hắn thấp thỏm ngồi không yên chỗ. Thời gian lặng lẽ trôi. Xa xa đã nghe tiếng cú rúc rủa. Ðàn dơi đi ăn đêm đã chìm vào bóng tối xám đen của nền trời.

Giữa lúc có tiếng sói rừng tru thì hắn rùng người đưa mắt nhìn về phía đường mòn. Một người đàn ông xuất hiện. Bằng phản xạ tự nhiên, hắn nắm chặt con dao găm đã được mài sắc, rướn người theo dõi gã đàn ông không rời một giây. Gã đàn ông càng đi dần về phía hắn thì con dao găm càng được nắm chặt. Hắn hồi hộp muốn ngộp thở. Trên đời chưa lúc nào hắn bị giằng co kịch liệt giữa sợ hãi và liều lĩnh. Mồ hôi chảy trên trán, trên khóe mắt. Hắn không còn đủ sáng suốt và bình tĩnh như chương trình mà hắn đã dự tính trước. Kẻ thù của hắn vô tư bước chậm rãi, bình thản. Chung quanh yên tĩnh, vắng lặng không một bóng người. Hắn muốn ngồi yên chờ cho người đàn ông đi qua, rồi lặng lẽ trở về nhà. Nhưng ý nghĩ đó chưa kịp thành hình thì đã bị chống đối mãnh liệt bởi những tiếng la hét dữ dội: Phải can đảm! Ta làm chủ đời ta! Ta muốn chết như ta muốn chết! Ta muốn sống như Ta muốn sống! Những tiếng la ó trong lòng hắn là những bàn tay giơ cao hối thúc hắn xông vào trận địa.

Hắn mím chặt môi, trợn trừng mắt theo dõi gã đàn ông. Gã đàn ông càng đến gần bụi sim trên gò mối thì mồ hôi hắn càng chảy. Hắn dự tính nếu chiếc bao bố không chụp kín được đầu gã đàn ông, và vì một lí lo nào đó mà gã đàn ông có thể vùng chạy thì nhất định hắn sẽ sử dụng đến con dao găm. Hắn nguyện mong máu đừng đổ. Hắn muốn bắt sống gã đàn ông. Hắn muốn kẻ thù phải mù dần trong hầm tối mà hắn đã mất một đời để xây đắp. Gã đàn ông vẫn chẳng hay biết gì, chầm chậm đi qua nơi hắn đang ngồi chờ. Lẹ làng như bóng mèo lách qua bụi sậy, hắn theo sát ngay đàng sau gã đàn ông mà không gây một tiếng động nghi ngờ. Chiếc bao bố nhẹ nhàng giơ cao. Hắn chồm tới, giật thật mạnh miệng bao xuống đầu gã đàn ông. Một chớp nhoáng gọn gàng. Gã đàn ông chỉ kịp ú ớ một tiếng nhỏ. Hắn xoay miệng chiếc bao chặt lại. Trong khi vừa xoay hắn vừa chạy vòng tròn. Hắn chạy thật nhanh để gã đàn ông ngã vật xuống. Hai tay gã đàn ông giơ lên khờ khoạng vô phương hướng. Kẻ thù đã bị vật ngã. Ðầu nằm gọn trong chiếc bao dầy đặc bóng đêm. Ngộp thở. Gã đàn ông không hiểu sự gì đã xẩy ra cho mình. Còn hắn lấy đầu gối kề chặt lên cổ kẻ thù. Hai tay cố xiết cho chiếc bao bố sát mặt. Sợi thừng to hơn cây đũa xiết mấy vòng chung quanh cổ, giữ chặt cho miệng bao khỏi vuột. Kẻ thù úp mặt xuống cát, thở khò khè. Không còn cách nào để phản kháng. Mỗi lần muốn vùng dậy thì hắn lại xiết sợi giây chặt hơn, ghì mặt xuống sát đất hơn. Như thế, càng vùng vẫy kẻ thù của hắn càng ngộp thở. Kẻ thù đành phải chấp nhận để hắn khoan dung chút nào hay chút ấy. Sau khi thắt nút chặt miệng bao, hắn lấy cùng sợi giây ấy vòng qua gáy, trói hai cánh tay kẻ thù trật ra sau lưng. Bây giờ kẻ thù như một người mù lại thêm cụt đôi tay đành đứng im, không dám nhúc nhích.

Gã đàn ông phủi cát bụi, cúi nhặt con dao găm rơi cách đó khoảng vài thước. Hắn mừng là đã không đổ máu, và không ngờ lại thành công một cách dễ dàng như thế. Trọn vẹn. Ước mơ của hắn đã thành sự thật. Hắn thúc mạnh vào lưng kẻ thù, nạn nhân như muốn ngã chúi nhủi. Hắn dẫn kẻ thù về căn hầm.

* * *

Lão đứng im lặng bên bìa rừng. Thỉnh thoảng có vài người kiếm củi ghé lại bên bờ giếng của lão xin nước uống. Mấy đứa chăn trâu cũng đôi lúc đến chuyện vãn với lão. Ðó là tất cả tiếp xúc của lão già với thế giới chung quanh. Không ai biết có căn hầm sâu dưới căn nhà của lão. Những mùa mưa rừng đến rồi đi. Những bụi cây nhỏ bên lối đi, ngày mà lão trói gã đàn ông chỉ bằng cổ tay, hôm nay, đã là những gốc cây cổ thụ già. Khu rừng thay đổi mặt, khác hẳn 20 năm về trước. Có những con đường mòn đã biến mất, trở thành rừng rậm, có những con đường khác thành hình. Chúng đã đổi dạng thay hình theo thời gian. Kẻ thù của hắn, ngày mới bị bắt còn khỏe mạnh, hôm nay, tóc đã bạc. Chính gã, lũ trẻ chăn trâu đã kính cẩn gọi bằng cụ, chứ không còn là ông nữa. Lưng lão đã còng. Tóc cũng đã trắng theo những đám mây mùa hạ.

Mấy ngày hôm nay mưa dầm đổ về. Có bão nhỏ ở đâu đó rớt tới. Mưa rỉ rả. Trời xám đậm màu tro. Khu rừng vắng vẻ như một nghĩa trang hiu quạnh. Lão ngồi bên chiếc đèn dầu ôm ngực ho từng cơn. Mỗi lần ho lão lại quấn chặt cổ bằng chiếc mền đen dơ bẩn đã từ bao nhiêu năm nay không giặt. Nền nhà bị mưa nhỏ giọt, ướt, nhầy nhụa từng khoảng. Lão khạc nhổ ngay trên nền đất. Nhiều miếng đờm có vết máu đỏ văng bám cả vào chân bàn, miệng li. Căn nhà mù mù tối, ẩm mốc. Mùi hôi tanh tưởi từ đống quần áo cũ trở nên lợm giọng vào những ngày mưa ẩm thấp. Lão giơ tay gãi đầu sồn sột, càng gãi càng thêm ngứa.

Dáng điệu của một người đàn ông với con dao găm của hai mươi năm về trước không còn nữa. Bây giờ hắn chỉ là một lão già dơ bẩn, lụm khụm. Mỗi khi trời trở lạnh là lão ho từng cơn như xé buồng phổi. Móng tay dài như chân gà cứng, đầy cáu ghét là những ổ vi trùng, ấy vậy mà mỗi khi dính đồ ăn, lão vẫn đưa lên miệng liếm sạch trơn.

Tay lão run run cầm chiếc đĩa sắt hôi mùi cứt dán. Ðó là chiếc đĩa bằng nhôm mầu trắng nhưng bây giờ nó đã trở thành đen. Lão không bao giờ rửa, lão cũng không có chó để liếm những vựa cơm dính trên đĩa mỗi khi kẻ thù của gã ăn xong. Những vựa cơm dính trên đĩa là bữa tiệc của dán, chuột, ruồi nhặng. Căn nhà tối om. Mưa rỉ rả, nặng nề. Thỉnh thoảng gió mạnh đập từng cơn. Tấm phên cửa không chịu nổi rung lên phành phạch. Ngọn đèn dầu lao chao, dập dờn như chiếc lá nhỏ trên mặt sông, trồi lên, chìm xuống. Lão lại ho lên từng cơn, lần này như có tảng đờm sệt bám chặt trong cuống họng. Lão ráng sức khạc mà nó không chịu ra. Lão không còn đủ sức đi từng bước mạnh trên chiếc cầu thang gỗ như những ngày đầu mới giam kẻ thù. Những ngày đó, mỗi lần xuống cầu thang lão dậm từng bước mạnh, chiếc cầu thang gỗ muốn oằn mình chịu đựng sức mạnh của kẻ đang có quyền uy. Hôm nay, lão chậm rãi dựa theo thành gỗ bước lần mò.

Căn hầm được ăn thông một lỗ lớn ra bên ngoài, ánh sáng có thể chiếu qua lỗ đó. Hầm lớn bằng khoảng hai tấm chiếu, được xây đắp cẩn thận, kĩ lưỡng. Lỗ thông hơi lớn khoảng nửa mặt bàn, dẫn ra đầu nhà, ngụy trang bằng chuồng gà. Miệng ống thông hơi rào bằng những thanh sắt khép nhỏ thành những khuông vuông không lớn hơn ba ngón tay. Nếu mảnh tôn bên ngoài không đậy kĩ thì những đêm mưa, tù nhân lạnh buốt vì gió.

Lão bưng đĩa cơm, đẩy qua phên cửa với những chắn song chắc nịch, thẩy đĩa cơm vào hầm rồi trở lên. Lão quá mệt nên chẳng cần biết tên tù ngủ hay thức. Ðêm đó là đêm sau cùng của trận mưa.

Ngày hôm sau, khi lão thức giấc thì trời đã rạng sáng. Mưa có lẽ đã dứt từ nửa đêm. Mặt trời tươi tỉnh trở lại ở phương đông. Lão mở phên cửa, bước ra ngoài. Gió ban mai của cánh rừng không còn lạnh, nhưng mát rượi, cho lão cảm giác thoải mái sau mấy ngày bị giam hãm trong nhà. Trên ngọn cây, tiếng chim bắt đầu líu lo.

Trời càng về trưa càng rực nắng. Cơn giông biến mất dạng. Bầu trời cao và xanh ngắt như không có dấu hiệu gì là vừa qua một cơn giông dài. Chỉ còn những vũng nước chưa ngấm kịp là dấu tích. Trưa đó, lão xuống lấy dĩa cơm tối qua đã đem cho tù nhân. Khi lão xuống tới bực thang sau cùng thì mấy con chuột mới chịu chạy. Hốt hoảng, chúng chạy tán loan. Khác hơn mọi ngày, chiếc đĩa vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Lão cúi nhìn, đĩa cơm đã hết nhẵn nhưng không có dấu vết gì là kẻ thù của lão đã ăn. Lão nghĩ đến mấy con chuột lúc nãy. Ngó qua chắn song. Gã tù vẫn nằm im trên đống rơm, co quắp. Vệt nắng dọi qua chấn song của miệng hầm làm nên những sọc dài chạy ngang dọc trên kẻ thù. Hắn nằm co hai đầu gối sát ngực. Mặt úp nghiêng xuống đống quần áo cũ. Im lặng. Nồng nặc mùi hôi. Trước khi mở cửa, lão già lên tiếng gọi nhưng căn hầm vẫn u vắng tịch mịch. Lời nói của lão như hạt sỏi cứng khô rơi trên bờ đá, lạnh lùng trả lại cho lão. Lão mệt nhọc lấy chiếc sào dựa bên cạnh cửa hầm chọc vào cạnh sườn kẻ thù. Hoang vu. Tất cả không có gì thay đổi. Gã tù nhân đã chết.

Phải đợi mãi đến nửa đêm lão mới dám lôi xác chết lên bìa rừng. Lão không còn sức để giáng những nhát cuốc, những lưỡi búa phầm phập nữa. Suốt cả buổi trưa cho đến nhá nhem tối lão mới đào xong một nửa huyệt mộ. Nó chưa phải là cái huyệt, chưa sâu được đến thắt lưng và cũng không dài đủ để cho cái xác nằm xuôi. Ðó là một cái lỗ đổ rác còn nông.

Ðem được xác chết lên khỏi miệng hầm là một cực hình đối với lão. Khi bê xác chết ra chân cầu thang lão mới thực sự nhận ra là mình đã quá yếu vì tuổi già. Lão chợt so sánh hai mươi năm trước, buổi chiều rình bên bụi sim với chiếc bao bố, lão thấy ngày đó đã quá khác xa. Lão nhớ về những ngày chém gỗ trên Rừng-Già-Cám-Dỗ, lão không ngờ thời gian đi nhanh như thế. Trong trí lão còn nhớ nguyên vẹn buổi sáng con mèo đen đánh nhau với bày quạ. Lão hơi xúc động bùi ngùi, thầm tiếc sao thời gian đã lấy mất những ngày thanh xuân của lão. Lão lấy hết sức mà không bê được xác chết lên miệng hầm. Ngay cả việc kéo chân tay xác chết cho ngay lại mà lão cũng không làm nổi. Hai khuỷu tay cong queo lạnh ngắt, cứng đơ như đá, lão vất vả lắm mới kéo dãn được. Hì hục cả tiếng đồng hồ mà lão không biết làm sao đem xác chết lên nổi. Lão dựa vào cầu thang rồi kéo, nhưng chân tay cong queo vướng vào cầu thang. Lão cúi xuống bế, nhưng vô phương, xác chết muốn kéo lão ngã xuống. Lão định lấy dao cắt những khúc chân tay thừa thãi cho gọn lại, nhưng khi nhìn vào mắt kẻ thù thì lão không còn hồn vía nào nữa. Ðôi mắt tên tù trợn ngược lòng trắng, mồm há hốc như một hang sâu. Tóc dài đến chấm vai, bù xù như một hồn ma. Chưa bao giờ lão thấy con người ghê sợ như thế.

Khi đem được xác chết lên nền nhà thì lão như con ngựa già thở hồng hộc vì phải kéo cỗ xe quá nặng. Lão phủ kín xác chết bằng chính tấm mền lão vẫn đắp. Ðể xác chết nằm im trong góc tối. Lão bủn rủn chân tay và thực sự nhìn thấy sức lực của mình chẳng còn bao nhiêu.

May cho lão là sau trận mưa nên đất không đến nỗi quá cứng. Tuy nhiên lão cũng không thể đào sâu thêm được nữa. Ðất mềm mà cứ sau vài nhát cuốc là lão lại phải nghỉ hơi lấy sức. Ðào được như thế đã là một việc quá sức lão rồi. Từ chiều đến giờ lão đã ngã mấy lần vì chiếc cuốc quá nặng.

Khi lão đem được xác chết tới bìa rừng thì con trăng đã lên đỉnh núi. Rừng cây còn ướt, loang loáng ánh trăng trên rừng lá nhỏ như có trăm ngàn con mắt đang nhìn lão. Trời nửa đêm nhưng vẫn còn những cánh dơi lạc lõng bay lang thang trên đầu. Bóng dơi đen nhẹ nhàng vụt qua trên xác chết. Ðôi lúc, vài tiếng cú khô khan rúc rủa từ rừng sâu. Dăm ba tiếng chó rừng đói ăn không gặp mồi tru tréo giận dữ vọng từ trên núi vọng xuống. Ðánh hơi thấy mùi thịt người, bày muỗi bu đen trên đầu lão. Khu rừng heo hút. Bóng dơi không làm cho khu rừng thêm sự sống nhưng càng làm cho cánh rừng như có ma quái ẩn hiện.

Từ ban chiều lão đã lo lắng không biết làm sao bê nổi xác chết lên bìa rừng. Bây giờ thì kẻ thù của lão đã nằm cuộn tròn trong cái hố nhỏ. Nhưng lão vẫn chưa được nghỉ ngơi. Ðứng nhìn xác chết cong queo, đầu còn ngỏng lên, lão thấy tay chân như rã rời ra vì còn phải lấp huyệt. Bày muỗi thà chịu chết chứ không chịu đói bám lấy cổ, tai, lão mà đốt. Vừa đuổi muỗi, vừa xúc đất với những lời chửi tục tĩu. Rừng vẫn rừng. Ðêm vẫn đêm. Khi lão lấp được nửa lỗ thì ánh trăng đã xế xuống thấp hẳn. Ðất ướt dính vào lưỡi cuốc làm lão chỉ xúc được vài nhát lại phải ngồi cạo. Trời đêm gió rườn rượn mà lão chảy mồ hôi trán. Thỉnh thoảng lưỡi cuốc chạm vào sỏi làm lão chùng tay. Ngoài tiếng thình thịch của lưỡi cuốc bổ xuống bờ đất, cả khu rừng lại trở về cái vắng lặng của một nghĩa trang tịch mịch.

Khi chiếc lỗ đã lấp kín thì mặt trăng sắp lặn xuống phía bên kia núi. Ánh trăng về tà, làm những bóng cây đổ dài, gầy lỏng ngỏng. Một bóng người thấp thoáng từ triền núi đi xuống. Lão vừa đi vừa thở hổn hển. Ánh trăng làm bóng lão dập dờn, nhấp nhô, lão già đi trước, bóng đen theo sau. Tuy chỉ có mình lão nhưng chính cái bóng lão làm như có kẻ lạ mặt đang theo bén gót sau lưng. Những lúc lão ngửng đầu, chiếc bóng cũng theo đó mà ượt về phía sau. Khi lão cúi mặt bước thì chiếc bóng lại chồm tới như dáng điệu một kẻ sát nhân đang rình để đâm phập một lưỡi dao lên lưng.

* * *

Lão soi mặt trên dòng suối. Con suối trong vắt. Lững lờ dưới đáy suối là cụm mây trắng thật cao, đang ngừng cánh. Lão chăm chú nhìn kĩ mặt như muốn tìm một dấu vết nào đó đã mịt mù mất mát. Lão vốc một vốc nước, đôi tay gầy, chai cứng giống những cành củi chà lên mặt. Lão ngồi tư lự một thân cô vắng bên bờ suối. Mấy con chim mút hoa nhẩy loắt choắt trên đóa lan rừng. Trên cành cây cổ thụ ngay bên lão ngồi có con sáo mầu xám thỉnh thoảng ngứa cổ hót liên hồi. Tiếng sáo giòn giã, ngân nga. Mùi cỏ cây và hoa rừng ngầy ngậy sau trận mưa mát đất làm mấy cánh bướm say sưa.

Lâu lâu lão lại cúi xuống nhìn dòng nước lặng lờ, dáng điệu trầm lặng, u hoài. Dòng nước trong ngần in mặt lão rõ gần như tấm gương. Ðôi mắt hõm sâu, lão nhìn kĩ trên khuôn mặt hốc hác để xác định bao nhiêu năm tháng đã chảy theo con suối bỏ lại đời lão già nua. Lão tiếc xót cho đôi mắt không còn nhìn rõ được nữa. Lúc nghe bày sáo hót trên cây trắc, lão ngửa mặt nhìn nhưng không rõ. Lá rừng cứ từng chùm dính vào nhau, lão chỉ thấy loang loáng cùng một màu xanh mà thôi. Chung quanh lão, khu rừng vẫn có từng mùa lá thay màu đổi áo. Màu tím của những khóm sim vẫn hàng năm thướt tha. Cứ sau vài trận mưa đầu mùa, lúc chồi non hé mở, đâm lộc, cỏ lên mơn mởn thì khu rừng lại hây hây dáng tuổi con gái dậy thì. Phong lan rừng nở rải rác đây đó. Nhưng lão già không còn thấy nét thay đổi nào nữa. Chung quanh lão chỉ là rừng già, chỉ là mầu xanh cũ kĩ. Lão phải lắng tai lắm mới nghe thấy tiếng chim hót. Ðôi ngày, có những đàn chim ngang qua ven đồi, sà trên nóc nhà lão hót líu lo, nhưng lão chẳng nghe thấy gì. Có những buổi trưa trong vắt, chim rừng nổi hứng đùa giỡn vang cả khu núi, nhưng đối với lão thì vẫn chỉ là một nỗi trống, tất cả luôn luôn im lìm, lắng đọng. Lão đã già, nghễnh ngãng.

Từ ngày chôn xác kẻ thù xong, lão thường ra ngồi bên bờ suối quạnh quẽ. Lão biết mình đã đuối sức. Cái chết như chờn vờn đâu đây, gần gũi. Khuôn mặt của xác chết còn rõ mồn một, gầy đét, tóc bạc như muối. Hình ảnh ấy ám ảnh lão vì hơn hai mươi năm trước gã tù nhân cũng như lão. Cái già của gã tù cũng là cái già của chính lão vì thời gian chẳng tha ai. Ngoài nỗi ưu tư về tháng ngày già nua sắp tới, hồn lão bắt đầu có biến loạn. Tương lai trước mặt là một ngõ cụt, lão chẳng còn gì để hướng tới, để hăm hở mà sống. Tất cả những gì lão có hôm hay là sống về quá khứ. Hàng ngày, lão ra ngồi trầm ngâm nhìn dòng suối lặng buồn nghĩ về những năm đã qua. Lão nhớ lại từ tuổi thơ, nhưng trong cái quá khứ mịt mùng ấy lão chẳng có niềm vui nào để kéo ra ngắm nghía, hồi tưởng. Chuỗi ngày vàng son nhất, miệt mài cho lí tưởng nhất là chuỗi ngày lão hì hục xây căn hầm tối, là những đêm mất ngủ vì lo chém gỗ. Khi nghĩ về quá khứ ấy, lão lại ngồi thừ mặt, bởi những chuỗi ngày đó dần dà dẫn hắn tới ngày hôm nay. Mà hôm nay của lão là một mình, là chẳng còn ai, là bơ vơ.

Chẳng có ai để chuyện trò, lão thèm nói tiếng người, dù là chửi bới hay là được nghe tiếng chửi bới. Nhưng chung quanh lão chỉ là cỏ cây. Cỏ cây có ngôn ngữ riêng của chúng. Núi đồi có hơi thở khác của lão. Chim muông có tổ ấm riêng. Trong cái trống trải ấy chỉ còn có riêng lão nên hàng đêm, khuya rất khuya lão ngồi như chết nhìn bóng lão trên vách tường rung rung qua ngọn đèn dầu mờ. Những đêm trầm ngâm như thế lão mới thấy lão mất mùa xuân rồi. Mắt đã mờ, tai không còn nghe rõ, sức tàn dần, lão nghĩ tới thời gian mà run sợ. Mất tất cả. Hết rồi. Bóng tóc bạc phơ trên dòng suối làm lão quặn đau. Khúc đời nào của lão là mùa xuân đẹp nhất? Khoảng đời nào là khoảng đời thành công? Tuổi nào là tuổi hạnh phúc, có những kỉ niệm đẹp? Nhìn kĩ lại lão chỉ thấy có một thành công lớn nhất là căn hầm và bắt được kẻ thù. Tất cả mùa xuân trong đời chỉ có thế? Lão lắc đầu muốn chối bỏ mùa xuân ấy, nhưng nếu chối bỏ thì đâu là mùa xuân khác? Căn hầm vẫn đó, bây giờ làm gì? Tên tù chết rồi, đâu là chiến thắng? Lão ngớ ngẩn nhìn công trình của mình, đưa tay quờ quạng chụp hụt hẫng mảnh thời gian vẫn đang lạnh lùng trôi đi.

Chưa bao giờ trong đời lão thấy cô đơn như hôm nay. Căn nhà hoang vắng giống nấm mộ lớn. Ðây là cảm giác lão chưa hề bắt gặp khi gã tù còn sống. Cho dù kẻ tù chỉ nằm im lặng trong căn hầm tối, lão vẫn cảm thấy căn nhà như có một người để chia sẻ. Nó vẫn là một xã hội. Dù lão thù ghét, dù tên tù không bao giờ nói, nhưng lão không lẻ loi. Từ đêm ở trên núi về, cái đêm lấp xong ngôi mộ lão mới khám phá ra lão đã chôn mất một phần đời của chính lão. Lão sợ im lặng. Vào những đêm có tiếng chó rừng tru, lão nổi da gà sợ hãi. Ðêm khuya, bất cứ có tiếng động nào lão cũng giật mình. Những cảm giác này lão không bao giờ phải bận tâm, trong hơn hai mươi năm khi tên tù còn sống. Giờ đây, mỗi lúc tức mình lão chỉ chửi rủa chính lão, lúc đó lão mới nhận thấy rằng hơn hai mươi năm gã tù đã hứng chịu tất cả những lúc mà tâm tình lão thay đổi, lên xuống. Bây giờ tên tù không còn nữa, nếu lão cau có thì chỉ cau có một mình, nếu lão khó chịu thì tên tù cũng chẳng còn đó nữa để mà trút đổ cơn giận. Ðã có nhiều lúc lão vấp ngã đến dầm bập móng chân, ngày còn tên tù thì lão chửi bới, quăng quật tên tù để nguôi cơn tức, hạ bớt cơn đau. Hôm nay, mỗi lần vấp ngã, lão chỉ còn biết chửi chính mình, đập đầu của mình vào tường. Sau những lúc như thế, những lúc ngồi bên ngọn đèn giữa đêm khuya lão mới nhận ra rằng lão là kẻ thù của chính lão. Căn hầm tối giam kẻ thù không tối bằng con tim của mình.

Nhiều đêm lão không chịu nổi bóng tối trong tim, lão chửi rủa om xòm. Cô độc như những sợi giây thừng mỗi ngày mỗi thắt chặt cổ lão lại, lão ngột ngạt, cựa quậy nhưng không sao thoát khỏi. Bóng tối như một biển máu dầy sệt, lão đang lún xuống, càng vùng vẫy càng lún sâu. Không còn việc gì để xuống hầm. Căn hầm bây giờ thừa thãi. Lão sẽ làm gì với căn hầm mà đã tiêu hao suốt một đời xuân để xây đắp? Lão rùng mình, lắc đầu chối bỏ gia tài ấy. Nhưng càng chối bỏ nó càng trở nên bản án, nó càng làm lão tiếc nuối vì uổng phí một đời người. Khi lão cấu xé chính mình là lúc lão tiếc rằng tên tù đã chết, chẳng còn ai để hành hạ. Tên tù chẳng còn nữa để mà hành hạ nên dòng sông độc ác không còn cửa sông trôi đi, nó chảy về tim lão ngập lụt với chính mình. Lúc này lão nhận ra rằng như thế tên tù lại là ân nhân hay sao. Lão không ngờ cái chết của tên tù ảnh hưởng đến đời lão như thế. Lão không ngờ vắng mặt của kẻ thù đã để lại trong đời lão một hố trống sâu hoắm. Bây giờ, nguyên nghĩ đến sự có mặt của một bóng người, dù là bóng của kẻ thù, lão thấy còn hạnh phúc hơn phải sống một mình. Người ta cần kẻ thù để sống chứ không thể sống mà kẻ thù là chính mình.

Khi tỉnh dậy, ngồi gục mặt lấy lại sức lão mới biết lão đang ở trong hầm tối. Lão đã bắt đầu mê sảng, lão thường vào ngủ trong căn hầm mà lão chẳng biết gì cho đến lúc tỉnh dậy. Lão thẫn thờ như người mất trí, dáng dấp của bệnh điên. Có lần khi tỉnh lại, lão lượm giọng nôn ọe đầy nhà vì không biết mình đang nhai cả một con chuột sống đầy mồm. Hình tượng lão chỉ còn da bọc xương, lầm lũi ở ven rừng. Hắn thơ thẩn trong căn hầm vì hắn cần bóng người.

Một đêm lão lần lên núi, ánh trăng cũng chênh chếch như ngày lão bê xác người lên chôn. Lão đứng nhìn ngôi mộ còn nguyên đất mới. Lão tiếc xót đã mất thời gian thanh niên mà lão không còn có thể làm lại được nữa, giận quá, lão đấm vào mặt. Chung quanh rực lửa cắn rứt. Dần dà căn hầm trong nhà trở nên ghê sợ, lão thường lần mò lên ngồi bên mộ kẻ thù như để tìm một bóng người cho đỡ lẻ loi. Những lúc ấy, lão lại mơ hồ nghe vang vọng từ trên núi:

- Hà cớ chi ngươi phải tức tối! Ðồng loại của ngươi đâu?

Tiếng nói mà lão tưởng như đã chết biệt tăm, bây giờ lại chỗi dậy. Lão đè nén nó ở chỗ này nó trồi lên ở chỗ kia. Tiếng nói như một mạng nhện phủ trùm đời lão. Một hôm, đêm đã khuya lão lụ khụ tìm đường lên ngôi mộ, đi chưa được nửa đường thì lão lại nghe có người hỏi:

- Ðồng loại của ngươi đâu?

Lão không chịu nổi tiếng nói suốt ngày đêm như mũi kim đâm vào tai. Lão giang tay lên trời gào thét. Trong cơn lửa cô đơn cháy rừng rực, lão không sao chịu đựng được nữa, lão nhặt một cục đá lớn đập vào mặt. Lão rú thét lên vì đau đớn, máu chảy nhễ nhãi. Lão đuối sức, ngã bệt bên bụi gai, khóc. Ngày mai, lúc mặt trời thức dậy, ánh nắng lại chiếu qua lỗ thông hơi, dọi vào căn hầm tối nơi kẻ thù hắn đã chết. Nhưng căn hầm trong tim lão thì vẫn mịt mù, thăm thẳm.


Trích Tập Truyện Ngắn "ÐƯỜNG VỀ THƯỠNG TRÍ" của tác giả Nguyễn Tầm Thường.
Có bán tại các nhà sách, giá bán: USD $15.00

(*) Ðón xem kỳ tới: Lời cản ngăn trên lối về

(C) Copyright 1997. Tác giả giữ bản quyền.


Back to Vietnamese Missionaries in Taiwan Home Page