Sắc lệnh tôn vinh chân phước Thầy giảng An-rê Phú Yên gọi ngài với tước hiệu "Tử đạo tiên khởi Việt Nam". Có người thắc mắc về sự chính đáng của tước hiệu nầy. Chúng ta thử nghiên cứu vấn đề dựa theo một vài sự kiện được nêu lên về mặt lịch sử.
Ngay từ lúc đầu người ta đã từng nhắc đến An-rê Phú Yên kèm theo tên gọi "vị tử đạo tiên khởi". Nhưng trong các bản văn vào thế kỷ 17, cách gọi như thế lại đi kèm với thành ngữ của Xứ Ðàng Trong (Cochinchine). Nếu phải đối chiếu với các thực tại địa lý chính trị hoặc xã-hội-học hiện nay , hẳn có thể dịch lại là "Vị tử đạo tiên khởi miền Trung Việt Nam".
Tuy nhiên một lối xưng hô như vậy có điều bất tiện là nhấn mạnh đến những khác biệt của mỗi vùng, trong lúc đó người dân xưa nay luôn mạnh mẽ ý thức về sự thống nhất đất nước và thống nhất văn hóa; những giai đoạn đất nước bị phân chia và xâu xé nhau luôn được xem là những giai đoạn đen tối và bất hạnh của lịch sử.
Ngày nay, người Việt Nam ai cũng khát vọng, mong mõi thống nhất; sự kiện đó thúc đẩy mọi người vượt qua mọi giới hạn để xét xem tước hiệu "vị tử đạo tiên khởi Việt Nam" có thể áp dụng được cho An-rê Phú Yên hay không. Kỳ thực năm 1820, khi đất nước được thống nhất (lúc ấy), linh mục văn sĩ Filipe do Rosário Bỉnh, gốc người Hải Dương, Bắc Việt Nam đã không ngại viết thế nầy: "Thầy giảng An-rê Phú Yên , là người đầu tiên chịu tử đạo trong nước An-nam, đúng vào ngày 26.7.1644". Chữ An-nam ở đây phải được hiểu là toàn bộ nước Việt Nam.
Ngày nay, khi đọc kỹ lại các tài liệu lịch sử, một số người lại thắc mắc về danh hiệu nầy. Thật thế, An-rê không phải là người Việt Nam đầu tiên đã chịu chết vì đức tin. Tác giả Phạm Ðình Khiêm trong cuốn Người chứng thứ nhất đã đề cập đến vấn đề và kết luận rằng, dù có chứng cớ ngược lại, nhưng tước hiệu nầy vẫn xứng hợp với An-rê. Tuy thế, tác giả liên hệ cũng chỉ xét đến một phần của hồ sơ thôi.
Sau đây là một
số tài liệu có thể bổ túc
thêm hồ sơ :
"Một người tên Phan-xi-cô đã chịu phép rửa cùng với những người khác đã hai năm trước đó. Người nầy hết sức chuyên cần làm việc phước đức, nhất là việc chôn cất kẻ chết: ông đích thân cõng người chết trên mình.
Người ta kể lại sự việc cho người em vua, là người chủ của Phan-xi-cô; vị nầy vốn không ưa gì người Kitô hữu. Phan-xi-cô bấy giờ ở trong đội khiêng kiệu cho vị hoàng thân ấy. Hoàng thân tức tối cho gọi Phan-xi-cô và truyền cho ông phải bỏ đạo Kitô, và nhất là không được đụng hoặc vác xác người Kitô hữu đến huyệt mộ. Ông nói rằng cử chỉ đó bất xứng: ngươi khiêng anh em nhà vua không thể nào bị xác kẻ chết làm ô uế. Phan-xi-cô trả lời: "Bẩm ngài, tôi là người Kitô hữu; tôi phải giữ luật Kitô giáo để được cứu rỗi; do đó, tôi không cách gì bỏ đạo được, cũng như không làm việc phước đức của đạo tôi. Tôi vẫn luôn cung cúc phục vụ ngài, nhưng đối với những điều đức tin Kitô giáo và luật Chúa Kitô đòi buộc, tôi muốn giữ trọn vẹn cho đến hơi thở cuối cùng của đời tôi".
Khi nghe những lời
ấy, Hoàng thân nổi giận và
truyền đuổi Phan-xi-cô tức tốc
ra khỏi dinh của ông. Phan-xi-cô vâng
lệnh và tiếp tục làm việc nghĩa
hầu chuẩn bị một cái chết lành
thánh. Một vài ngày sau, vị hoàng
thân ấy còn tức bực Phan-xi-cô
nên triệu ông về dinh, và lại
truyền lệnh cho ông phải bỏ đạo.
Phan-xi-cô trả lời mạnh mẽ và
nhất quyết: "Làm sao bỏ đạo
được?" "Chỉ có đức
tin Kitô giáo mới giúp cứu
độ thật sự và đời
đời, tôi không muốn chối
bỏ đức tin" . Hoàng thân bừng
bừng nổi giận. Ông ra lệnh ném
Phan-xi-cô vào tù, cho tra tấn và
đánh đập. Vì Phan-xi-cô vẫn
trung kiên tuyên xưng đức tin của
mình, nên hoàng thân cho lấy rìu
đập vào đầu gối để
hành hình; sau đó ông xuống
lệnh chặt đầu: Phan-xi-cô bấy
giờ trả lại linh hồn mình cho
Chúa để vĩnh viễn hưởng
hạnh phúc. Chính ông là người
đầu tiên trong những người
Kitô hữu Ðàng ngoài, đã
đại độ dâng hiến đời
mình, và chịu chết vì người
ta ghét đạo Chúa Kitô"
"Tôi sẽ bắt đầu
câu truyện bằng việc kể lại cái
chết khốc liệt mà thầy giảng
Gio-an, ở tỉnh Bố Chính phải chịu
do sự tàn ác của vị quan tổng
đốc, phò mã của nhà vua;
tại tỉnh Bố Chính nầy, người
thợ truyền giáo miệt mài công
tác trong bảy hoặc tám năm mang lại
những lợi ích vô cùng cho
nhiều người; những thành
quả quí giá ấy xứng hợp
với bao công lao quí giá (của
thầy giảng Gioan) trước mặt Chúa
và mọi người. Thầy được
Chúa ban ơn chữa lành bệnh tật,
làm cho mọi người quí mến
đức độ và con người
của thầy; mọi người ngưỡng
mộ và tìm cách thân quen với
thầy, ngay cả những người
lương; và cả đến quan tổng
đốc, là người ngoại giáo
cũng xác tín tài năng đức
độ của thầy. Nguyên nhân do chuyện
một trong những nàng hầu mà
quan tổng đốc yêu quí nhất,
vốn thù ghét người Kitô
hữu và luật đạo của Chúa,
bị đau thật nặng, quan tổng đốc
lo lắng nên sai người tìm thầy
Gio-an xin thầy cầu nguyện để chữa
lành bệnh cho người quan yêu mến.
Nhưng người tôi tớ tốt
lành của Chúa, vì không học
biết, nên suy nghĩ (sai) và (tin) rằng
thầy không thể dùng ơn Chúa
ban cho để chữa lành cho một người
phụ nữ ác độc, thù nghịch
với Chúa Giêsu Kitô, nhục mạ
luật Chúa và danh Chúa; do vậy thầy
nhất mực từ chối không đến
gặp bà nầy; cho dù được
mời nhiều lần và hết sức
khẩn khoản, có lúc còn đe
dọa, nếu thầy không chịu đến;
nhưng thầy vẫn nhất mực từ
chối, thà chịu chết chứ không
làm điều mà quan tổng đốc
ra lệnh, vì điều ấy Chúa cấm
thầy làm. Quan tổng đốc nghe vậy,
nổi giận sai bảy người lính
dưới quyền kéo ông ra ngoài
đồng và phóng lao giết chết
thầy. Họ đã hành quyết người
ngay lành nầy một cách ác độc,
chỉ vì thầy sợ tội hơn là
sợ chết, chỉ vì thầy nghĩ
rằng làm theo ý quan tổng đốc
là làm trái lương tâm. Vì
thế Chúa đã sớm bênh
vực chính nghĩa của kẻ vô
tội nầy và trả thù về sự
sai lạm hại đến con người
ấy: ngài đã đày vợ
con của vị tổng đốc vào tay
chúa Xứ Ðàng Trong; họ đã
bị chúa xứ nầy bắt làm
tù nhân trong một cuộc chinh phạt trên
vùng tỉnh mà quan tổng đốc
nầy cai trị; và chính quan nầy cũng
bị bắt vào tù của chúa Ðàng
Ngoài, là nơi mà ông đã
chạy ra để lánh nạn; ông bị
kết án về một số tội chống
lại nhà nước, và bị xử
cho chết đói trong tù; xác ông
bị bêu ba ngày trước công
chúng, (đó là) một hình phạt
nhục nhằn ghê gớm ở xứ
Ðàng Ngoài".
Ngoài hai chứng nhân
Kitô giáo nầy tại Xứ Ðàng
Ngoài, không có một người
Việt nam nào khác được nêu
lên trong các tài liệu, đã
hiến cuộc sống mình về đức
tin trước tháng bảy năm 1644;
như thế nghĩa là trước thầy
giảng An-rê Phú yên.
Năm 1583, Pedro Ortis Cabezas là một tu sĩ dòng Phanxicô người Tây-ban-nha, ngài là một trong tám vị tu sĩ Phan-xi-cô đã phiêu lưu mở một cuộc truyền giáo vào Việt Nam. Phái đoàn nầy do Diego de Oropesa làm trưởng đoàn hướng dẫn đến bờ biển Việt Nam, nằm trong vịnh Ðà Nẵng, phía Bắc của hải cảng nầy hiện nay. Nổ lực nầy hoàn toàn thất bại; các đương sự không được lưu trú trên đất liền và sau mười ngày đành phải ra khơi trở lại. Họ có thể xem như là những nhà truyền giáo của Việt Nam theo nghĩa rất xa. Pedro Ortiz sau nầy hướng đến nước Cao-Miên. Ở đây người ta dễ chấp nhận hơn và ngài có thể lưu lại nhiều năm tại thủ đô Lovek, phía trên thành phố Phnom Penh hiện nay.
Luís da Fonseca và Jorge da Mota là hai tu sĩ Ða-minh người Bồ-đào-nha đến tăng viện cho phái đoàn truyền giáo Ða-minh ở Cao-Miên năm 1589. Dường như họ sống nhiều năm ở Angkor. Trong cuộc đột nhập của quân đội Xiêm vào Cao-Miên từ 1593-1594, họ bị bắt làm tù nhân và bị dẫn về Xiêm, nhưng sau đó họ được trả tự do, và còn nhận những vinh dự ở Hoàng-cung Ayuthia. Luís da Fonseca đã rửa tội cho một phụ nữ Nhật-bản làm cho chồng bà ấy tức giận để rồi giết ông ngay trên bàn thờ tại Ayuthia, có lẽ vào năm 1598, sau vụ ấy người Bồ-đào-nha và người Nhật xung đột. Jorge da Mota cảm thấy sinh mạng bị đe dọa nên tìm cách thoát chạy đến một chiếc tàu Tây-ban-nha để ra khỏi xứ trong năm ấy; nhưng trên đường chạy trốn ngài bị thương và chết trên thuyền giữa biển.
Juan Bautista Maldonado và Pedro Labastida là hai tu sĩ dòng Ða-minh người Tây-ban-nha: Lịch sử của họ gắn liền với chuyến viễn chinh thứ hai của những người Tây-ban-nha ở Phi-luật-tân, năm 1598, vừa nhằm chiếm Cao-Miên bằng quân sự, vừa nhằm lý do tôn giáo. Cuộc xâm chiếm ấy gặp nạn, người Tây-ban-nha bị đạo quân người Mã-lai đánh thuê cho Cao-Miên phục kích. Sự việc xảy ra tại thủ đô Lovek. Pedro Labastida bỏ mạng đồng thời với tu sĩ Phanxicô Pedro Ortiz Cabezas đã nói đến trên đây. Còn Juan Maldonado chạy trốn được với nhiều người đồng hương khác thoát nạn. Tàu của họ là chiếc tàu đã đón Jorge da Mota ở Xiêm trong lúc chạy trốn. Nhưng Maldonado cũng bị thương như Jorge da Mota: tay ngài bị một viên đạn thần công cắt đứt, ngài từ trần ngày 22.12.1598 khi tàu đi gần kề các bờ biển Xứ Ðàng-Trong.
Nếu nhìn theo quan điểm địa lý, thì không ai trong bốn vị tu sĩ Ða-minh nêu lên đây có thể thuộc về lịch sử Giáo-hội Việt Nam được hết. Giả thiết có một hình thức sinh hoạt ở Quảng Nam do một vài tác giả nêu lên không dựa trên một căn cứ tài liệu nào cả và không ăn khớp với các dữ kiện của lịch sử. Cũng như, tuyệt đối không thể nào cứ xác quyết là họ có thể chết vì đạo (nghĩa là vì người ta ghét đạo) trong vùng nầy. Cái chết của Maldonado "hướng nhìn bờ biển Việt Nam" có thể được xem như báo hiệu một điềm tốt cho các công cuộc truyền giáo tương lai của Dòng Ða-minh tại nước nầy.
Ở phần xa hơn nữa, chúng tôi đã nói về vai trò hoàn toàn tượng trưng của tu sĩ Phanxicô Pedro Ortiz trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Nhưng cái chết khốc liệt của ngài ở nơi xa, không nằm trong khuôn khổ truyền giáo tại đây.
Hơn nữa, có
thể trừ trường hợp của
Luís da Fonseca, các hoàn cảnh và
nguyên cớ về cái chết của
các nhà truyền giáo nêu lên
đây, khó lòng áp dụng cho tước
hiệu "tử đạo".
Lịch sử của An-rê Phú Yên nói đến một Kitô hữu "An-rê Anh cả", lúc ấy 73 tuổi, là người Kitô hữu xa xưa nhất của Quảng Nam. Dường như ông đã được các tu sĩ dòng Augustinô giúp gia nhập đạo.
Trong các vị ấy, Rafael da Madre de Deus phải được xem là nhân vật nổi bật nhất. Ngài truyền giáo tại Việt Nam từ năm 1595 đến 1602 hoặc 1603, và bị người Hòa-lan chận bắt ở giữa biển và bị giữ làm con tin trong nhiều năm tại Johore (ở Mã-lai, đối diện với Singapour). Ngài là vị truyền giáo giảng Phúc-âm kiên trì cho người Hồi-giáo, đã bị dân chúng Mã-lai sát hại tại Johore ngày 03.10.1606.
Có thể xem Rafael như
vị truyền giáo đầu tiên của
Việt Nam đã hiến mình để
rao giảng Phúc-âm; nhưng không thể
nói ngài là "tử đạo của
Việt Nam" nên tước hiệu mà
truyền thống trao cho An-rê như tử
đạo tiên khởi của Việt Nam
không thể bị ảnh hưởng gì.
Chân-phước Diogo
de Carvalho là tên được nhắc
đến đầu tiên trong tử-đạo-lục
riêng của Giáo-hội Việt Nam. Nhưng
ngài không thể được xem như
vị tử đạo tiên khởi
của Việt Nam được.
Dựa vào những
gì đã trình bày trên đây,
và không hề muốn thất kính
hay giảm lòng ngưỡng mộ đối
với Phan-xi-cô và Gio-an cũng như
các vị truyền giáo mà chúng
ta nêu tên trong bài nầy, thì dường
như tước hiệu "tử đạo
tiên khởi của Việt Nam" thuộc
về thầy giảng An-rê Phú Yên
một cách chính đáng, không thể
nào chối cãi được.