HÀNH TRANG SINH VIÊN THỜI ÐẠI Số 3
15.01.2001
Chiếc tàu mang
mã số 2001-3000 đã hạ thủy được hai tuần, đời sống hành khách vẫn đang lắc lư
theo nhịp từng con sóng.Vị thuyền trưởng của Giáo Hội biết được lo lắng của
thủy thủ đoàn và những người khác, nên đã nhanh chóng lên tiếng: "Lúc khởi đầu ngàn năm mới".
Ở lá thư này,
chúng tôi xin chuyển đến bạn hai số đề cập đến những thách đố của thời đại
chúng ta. Và cũng từ kỳ này, theo yêu cầu của nhiều bạn đọc, muốn những người
bạn của ABBA có thêm sự gắn bó với nhau trong lời cầu nguyện, chúng
tôi có thêm mục "CẦU THAY", để mỗi lúc chúng ta gặp Chúa trong ngày thì chúng
ta cũng gặp nhau trong những nhọc chằm và hạnh phúc của nhau.
DUC IN ALTUM HÃY RA KHƠI!
Những thách đố của thời đại chúng ta
Ðức Giáo Hoàng GIOAN PHAOLÔ II( 06.01.2001 )
Làm sao chúng ta có thể tiếp
tục dửng dưng khi hệ sinh thái đang bị khủng hoảng trầm trọng, khiến cho rất
nhiều vùng trên hành tinh chúng ta không thể ở được nữa và trở nên khắc nghiệt
với con người ? Hoặc là trước một nền hòa bình luôn thường xuyên bị đe dọa bởi
bóng ma của các cuộc chiến thảm khốc ? Hoặc trước sự xâm phạm đến những quyền
lợi căn bản nhất của con người đang xảy ra cho rất nhiều người, đặc biệt là trẻ
em ? Là Ki-tô hữu, trái tim của mỗi người chúng ta phải biết nhạy cảm với những
vấn nạn khẩn cấp không đếm xuể ấy.
Một vấn đề mà chúng ta cần lưu ý đặc biệt, đó là có một số khía cạnh của
các thông điệp cơ bản trong Phúc Âm thường không được hiểu đúng cho lắm, thậm
chí đến mức độ làm cho Giáo Hội trở nên xa lạ với thế giới. Vậy mà những thông
điệp đó lại là một phần trong sứ mạng loan báo lòng nhân từ Thiên Chúa của Giáo
Hội. Tôi đang muốn nói đến trách nhiệm phải tôn trọng sự sống của mỗi một con
người, từ lúc được thai nghén cho đến khi qua đời. Cũng vậy, tuân theo đức ái
luôn luôn khiến chúng ta có thể quả quyết rằng, những ai đang sử dụng những
tiến bộ mới nhất của khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ sinh học,
không bao giờ được bất chấp những nguyên tắc đạo lý cơ bản mà tạo ra một sự
đồng nhất đáng ngờ cuối cùng sẽ dẫn đến sự phân biệt đời này với đời sau và
phớt lờ những phẩm giá thuộc về mỗi một con người.
Ðể lời
chứng Ki-tô giáo được thuyết phục, nhất là trong những lĩnh vực tế nhị và gây
nhiều tranh luận như thế này, điều quan trọng là chúng ta phải có những nỗ lực
đặc biệt để có thể giải thích xác đáng lập trường của Giáo Hội, phải nhấn mạnh
được rằng đây không phải là việc bắt ép những người không phải là Ki-tô hữu
phải có cái nhìn dựa trên lòng tin, nhưng là diễn giải và bảo vệ cho những giá
trị vốn đã ăn sâu vào chính bản chất tự nhiên của mỗi con người. Như vậy, đức
ái sẽ trở nên cần thiết trong các lĩnh vực văn hóa, chính trị, kinh tế và cả
cho gia đình, cho nên những nguyên tắc nền tảng dựa trên số phận con người và
tương lai của nền văn minh nhân loại phải được trân trọng khắp nơi trên trái
đất.
Rõ ràng rằng, tất cả những việc này
phải được thực hiện theo một cách thức đặc trưng của Ki-tô giáo: các giáo dân
phải tham gia vào các lãnh vực này để thi hành sứ mạng của mình và đừng để bị
khuất phục trước cám dỗ sẽ biến cộng đoàn dân Chúa trở thành chỉ là một đơn vị
xã hội. Nói rõ hơn có nghĩa là, mối quan hệ giữa Giáo Hội với xã hội phải tôn
trọng quyền quyết định của các thế hệ sau và trong thẩm quyền của mình theo
những gì trong học thuyết xã hội của Giáo Hội đã dạy.
Chúng ta ai cũng đã biết tới những nỗ lực giảng dạy của hàng giáo phẩm, nhất là trong thế kỷ 20 này, nhằm giải thích những thực tế của xã hội dưới ánh sáng Phúc Âm cũng như cung cấp kịp thời và có hệ thống những câu giải đáp cho những vấn nạn của xã hội giờ đây đã được thừa nhận là có tầm cỡ toàn cầu.
Khía
cạnh đạo lý và xã hội của các vấn nạn là một yếu tố hết sức cần thiết cho đời
sống làm chứng nhân của người Ki-tô hữu: chúng ta phải loại bỏ cám dỗ tạo nên
một thế giới tâm linh bị tư hữu hóa và mang tính cá nhân chủ nghĩa và sẽ đi
lệch với yêu cầu của đức bác ái, phải loại bỏ cám dỗ trở nên thờ ơ với Mầu
nhiệm Nhập Thể và cuối cùng là sức ép của thuyết Mạc thế Công giáo. Trong khi
sức ép đó khiến chúng ta nhận thức được các yếu tố liên quan của lịch sử, thì
bản thân nó lại không hề mang ý nghĩa rằng chúng ta sẽ từ bỏ không "xây
dựng" lịch sử nữa. Lúc này, giáo huấn của Công Ðồng Vatican II trở nên hợp
thời hơn bao giờ hết: "Thông điệp Ki-tô giáo không hề ngăn cấm mọi người
xây dựng thế giới, hay khiến họ từ bỏ ý định can thiệp vào sự thịnh vượng của
thế hệ con cháu họ, nhưng ngược lại nó còn giúp họ nhiều hơn trong chính việc
thực hiện những điều ấy"
Chị Loan ở quận ba, chị Hương ở Thủ Ðức ( ở Sàigòn ), xin cầu nguyện cho
con trai lớn của mình, cố Hà ở Tân Bình ( Sàigòn ), xin cầu nguyện cho người
cháu, cô Thủy ở Long Thành ( Xuân Lộc ), xin cầu nguyện cho em trai. Cả bốn
người được xin cầu thay này đều đang bị sự dữ ràng buộc bằng ma túy.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đến cứu con khỏi ác thần,
xin vì Máu cứu độ của Chúa đã đổ ra cho nhân loại này, xin Chúa giải thoát bốn
người con yêu dấu của Chúa đây khỏi ma túy. Chúng con tin Chúa đã sống, đã chết
và đã sống lại vì chúng con, xin hãy thương giải cứu những người con này -
Amen!
1. Lúc 8 giờ 30 ngày 13 tháng 01 năm 2001, Ðức tổng giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã chủ lễ trao thánh vụ linh mục cho chín tu sĩ, gồm có :M. Augustino Nguyễn Văn Huệ ( Ocist ), Giuse Chu Quang Lượng ( OPM ), Anphong Vũ Ðức Trung và Gioan Baotixita Trần Quang Hiển ( OP ), Giuse Ngô Tấn Lực, Gioan Baotixita Nguyễn Văn Ðồng và Giuse Phạm Cao Thanh Sơn ( CSsR ), Phanxicô xavie Trần Văn Cường và Phêrô Ma-ri-a Phạm Văn Bộ ( SDB ). Trước đó, ngày 1.1, Ðức giám mục chánh tòa Xuân Lộc cũng đã đạt tay truyền chức cho năm tân linh mục thuôc các Dòng và Triều. Thay mặt những người bạn của ABBA, chúng con xin kinh chúc quý cha được Chúa Giê-su luôn luôn ở cùng, nhờ đó quý cha trở nên những nhân chứng anh dũng của Ðức Ki-tô trong thời đại mới này. Xin chúc mừng Quý Tân Linh Mục Việt Nam đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba.
2. Ngày 4.1.2001 - Tổ Chức American Legacy
Foundation ( Legacy ) công bố thiếu niên Mỹ gốc Á từ lớp bảy đến lớp 12 đang
nghiện thuốc lá cách trầm trọng. Tổ chức Legacy còn cho biết có 2,7 triệu thiếu
niên đã có thói tật hút thuốc và hơn 16,5 triệu người có nguy cơ mắc vào thói
tật hút thuốc, trong đó có 1 triệu trẻ em mới 11 tuổi. Riêng tại thành phố Hồ
Chí Minh, số người nghiện ma túy dưới 18 tuổi chiếm 76%. Ðến lúc này, không
biết những người lớn cứ hiên ngang hút thuốc lá trước mặt trẻ em, thậm chí tạo
điều kiện cho trẻ em hút nữa nghĩ sao ?
Faith
( Pistis, fides ). In the Old Testament, the Hebrew wordmeans
essentially steadfastness, cf. Exod.,
xvii, 12, where it is used todescribe the strengthening of Moses' hands; hence
it comes to meanfaithfulness, whether
of God towards man ( Deut., xxxii, 4 ) or of mantowards God ( Ps. cxviii, 30 ).
As signifying man's attitude towards Godit means trustfulness or fiducia. It would, however, be illogical
toconclude that the word cannot, and does not, mean belief orfaith inthe Old
Testament for it is clear that we cannot put trust in a person'spromises
without previously assenting to or believing in that person'sclaim to such confidence. Hence even
if it could be proved that the Hebrew worddoes not in itself contain the notion
of belief, it must necessarilypresuppose it. But that the word does itself
contain the notion of beliefis clear from the use of the radical, which in the
causativeconjugation, or Hiph'il,
means "to believe", e.g. Gen., xv, 6, andDeut.,i, 32, in which latter
passage the two meanings -- viz. of believing andoftrusting -- are combined.
That the noun itself often means faith orbelief, is clear from Hab., ii, 4, where the context demands it.
Thewitness of the Septuagint is decisive; they render the verb by pisteuo, andthe noun by pistis; and here again the two factors,
faith and trust, areconnoted by the same term. But that even in classical Greek
pisteuo wasused to signify believe, is clear from Euripides (
Helene, 710 ),logois d'emoisi pisteuson
tade,and that pistis could mean
"belief" is shown by the samedramatist's theon d'ouketi pistis arage ( Medea, 414; cf. Hipp., 1007 ).
In the New Testamentthe meanings "to
believe" and "belief", for pisteon
and pistis, cometothe fore; in
Christ's speech, pistis frequently
means "trust", but also"belief" ( cf. Matt., viii, 10 ). In
Acts it is used objectively of thetenets ofthe Christians, but is often to be
rendered "belief" ( cf. xvii, 31; xx, 21;xxvi, 8 ). In Romans, xiv,
23, it has the meaning of "conscience" --"all that is not of
faith is sin" -- but the Apostle repeatedly uses itin thesense of
"belief" ( cf . Rom., iv, and Gal., iii ). How necessary it is
topoint this out will be evident to all who are familiar with moderntheological
literature; thus, when a writer in the "Hibbert Journal",Oct.,1907,
says, "From one end of the Scripture to the other, faith is trustand only
trust", it is hard to see how he would explain 1 Cor. xiii, 13,and Heb.,
xi, 1. The truth is that many theological writers of the presentday are given
to very loose thinking, and in nothing is this so evident asin their treatment
of faith. In the article just referred to we read:"Trustin God is faith,
faith is belief, belief may mean creed, but creed is notequivalent to trust in
God."
A similar vagueness was
especiallynoticeable in the "Do we believe ?" controversy- one
correspondentsays- "We unbelievers, if we have lost faith, cling more
closely to hopeand -- the greatest of these -- charity" ( "Do we
believe ?", p. 180,ed. W.L. Courtney, 1905 ). Non-Catholic writers have
repudiated all idea offaith as an intellectual assent, and consequently they
fail to realize thatfaith must necessarily result in a body of dogmatic
beliefs. "How and bywhat influence", asks Harnack, "was the
living faith transformed into thecreed to be believed, the surrender to Christ
into a philosophical Christology ?" ( quoted in Hibbert Journal, loc. cit.
).