Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris)
cho Khoá họp thứ nhất
của Ðại hội Thượng Hội đồng Giám mục
(Tháng 10 năm 2023)
Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris) cho Khoá họp thứ nhất của Ðại hội Thượng Hội đồng Giám mục (Tháng 10 năm 2023).
Bản dịch Việt ngữ của Ban Thư ký Hiệp Hành Hội đồng Giám mục Việt Nam
Vatican (WHÐ 18-07-2023) - Hôm 20 tháng 06 năm 2023, Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục đã công bố Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris) như là cơ sở hướng dẫn các cuộc thảo luận trong Khoá họp thứ nhất của Ðại hội Thượng Hội đồng sẽ diễn ra vào tháng 10 năm 2023. Sau đây là toàn văn Tài liệu theo bản dịch Việt ngữ của Ban Thư ký Hiệp Hành Hội đồng Giám mục Việt Nam.
* * *
Ðại Hội Thường Lệ Lần Thứ XVI
Của Thượng Hội Ðồng Giám Mục
Hướng Tới Một Giáo Hội Hiệp Hành:
Hiệp Thông, Tham Gia và Sứ Vụ.
Tài Liệu Làm Việc
(INSTRUMENTUM LABORIS)
Cho Khoá họp Thứ nhất
(Tháng Mười năm 2023)
Chữ viết tắt
AA Công đồng Vaticanô II, Să#c lê#nh Apostolicam actuositatem (18.11.1965)
AG Công đồng Vaticanô II, Să#c lê#nh Ad gentes (07.12. 1965)
CA Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus (01.05.1991)
CL Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christifideles laici (30.12.1988)
CV Ðức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christus vivit (25.03.2019)
PD Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng, Hướng tới một Giáo hội hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia, Sứ vụ. Tài liệu Chuẩn bị (2021)
DCS Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng, Hướng tới một Giáo hội hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia, Sứ vụ. "Hãy nới rộng lều ngươi đang ở" (Is 54,2). Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục (2022)
DV Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum (18.11.1965)
EC Ðức Thánh Cha Phanxicô, Tông hiến Episcopalis communio (15.09.2018)
EG Ðức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24.11.2013)
FT Ðức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (03.10.2020)
GS Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes (07.12.1965)
IL Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris)
LG Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín lý Lumen gentium (21.11.1964)
PE Ðức Thánh Cha Phanxicô, Tông hiến Praedicate Evangelium (19.03.2022)
SC Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium (04.12.1963)
UR Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio (21.11.1964)
Tài Liệu Làm Việc
Lời nói đầu
"Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Ðức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 15, 5- 6).
Cuộc hành trình cho đến nay
1. Dân Chúa đã và đang tiến bước kể từ khi Ðức Thánh Cha Phanxicô triệu tập toàn thể Giáo hội trong Thượng hội đồng vào tháng 10. 2021. Khởi đi từ cấp độ cơ bản và quan trọng nhất, các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới đã khởi xướng việc thỉnh ý Dân Chúa, bắt đầu với câu hỏi cơ bản được trình bày trong số 2 của Tài liệu Chuẩn bị: "Hiện nay việc 'đồng hành cùng nhau' này đang diễn ra thế nào trên các bình diện khác nhau (từ bình diện địa phương đến bình diện hoàn vũ), cho phép Giáo hội loan báo Tin Mừng đúng theo sứ vụ Giáo hội được ủy thác; và Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta thực hiện những bước nào để thăng tiến như một Giáo hội hiệp hành?". Các kết quả của cuộc tham vấn được thu thập ở cấp giáo phận, sau đó được tóm tắt và gửi đến các Thượng Hội đồng của các Giáo hội Công giáo Ðông phương và các Hội đồng Giám mục. Ðến lượt mình, mỗi tổ chức này lại soạn thảo một bản tổng hợp được gởi tới Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng.
2. Ðể phục vụ một giai đoạn mới trong tiến trình Thượng Hội đồng đang diễn ra, Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục đã được soạn thảo từ việc đọc và phân tích các tài liệu thu thập được. Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục đã được gửi lại cho các Giáo hội địa phương trên khắp thế giới, mời họ tham gia học hỏi và sau đó gặp gỡ và tham gia đối thoại tại bảy Ðại hội Châu lục. Trong thời gian này, công việc của Thượng Hội đồng kỹ thuật số cũng được tiếp tục. Mục đích là tập trung vào những hiểu biết và những căng thẳng cộng hưởng mạnh mẽ nhất với trải nghiệm của Giáo hội ở mỗi châu lục và để xác định, từ quan điểm của mỗi châu lục, những ưu tiên cần được đề cập trong khoá họp thứ nhất của Ðại hội Thượng Hội đồng (tháng 10. 2023).
3. Tài liệu Làm việc này được soạn thảo dựa trên cơ sở của tất cả các tài liệu thu thập được trong giai đoạn lắng nghe, và nhất là các Tài liệu cuối cùng của các Ðại hội Châu lục. Việc công bố Tài liệu Làm việc khép lại giai đoạn thứ nhất của Thượng Hội đồng "Hướng tới một Giáo hội hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ" và mở ra giai đoạn thứ hai, bao gồm hai khoá họp[1] (tháng 10. 2023 và tháng 10. 2024), trong đó Ðại Hội Thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục sẽ diễn ra. Mục đích của giai đoạn thứ hai là tiếp tục làm sinh động tiến trình hiệp hành trong đời sống thường ngày của Giáo hội, xác định những lộ trình nào mà Thánh Thần mời gọi chúng ta bước đi với quyết tâm cao hơn với tư cách là một Dân của Chúa. Hoa trái mà chúng ta cầu xin tại Ðại hội sắp tới là Thánh Thần - Ðấng thúc đẩy việc bước đi cùng nhau của Giáo hội với tư cách là Dân Chúa trung thành với sứ vụ mà Chúa đã ủy thác cho Giáo hội. Thật vậy, mục đích của tiến trình hiệp hành "không phải là tạo ra các tài liệu mà là mở ra những chân trời hy vọng cho việc chu toàn sứ vụ của Giáo hội" (DCS, 6).
4. Cuộc hành trình cho đến nay, đặc biệt là giai đoạn châu lục, đã giúp chúng ta có thể xác định và chia sẻ những hoàn cảnh cụ thể mà Giáo hội đã trải qua tại các khu vực khác nhau trên thế giới. Những hoàn cảnh này bao gồm thực tế từ quá nhiều cuộc chiến tranh làm vấy máu thế giới của chúng ta dẫn đến lời kêu gọi cam kết đổi mới để xây dựng một nền hòa bình công bằng, mối đe dọa do biến đổi khí hậu gây ra cho thấy ưu tiên hàng đầu là chăm sóc ngôi nhà chung, tiếng kêu gọi phản đối một hệ thống kinh tế tạo ra sự bóc lột, bất bình đẳng và một nền văn hóa vứt bỏ, và mong muốn chống lại áp lực đồng nhất hóa của chủ nghĩa thực dân văn hóa đang tiêu diệt các nhóm thiểu số. Những hoàn cảnh bị bách hại đến mức tử đạo và việc di cư dần dần làm rỗng cộng đoàn đang đe dọa chính sự sống còn của họ là những điều hết sức đau buồn. Các Giáo hội địa phương đã nói lên mối quan tâm của họ cần được trang bị để giải quyết những thực tế xã hội cấp bách, từ sự đa nguyên văn hóa đang gia tăng trên toàn bộ hành tinh, đến kinh nghiệm của các cộng đồng Kitô hữu đại diện cho các nhóm thiểu số rải rác trong quốc gia nơi họ sinh sống, đến kinh nghiệm chấp nhận một sự tục hóa ngày càng tiến xa hơn, và đôi khi hung hăng, dường như coi kinh nghiệm tôn giáo là không thích hợp, nhưng ở đó vẫn còn sự khao khát Tin Mừng của Phúc âm. Tại nhiều vùng, các Giáo hội bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc khủng hoảng do nhiều hình thức lạm dụng gây ra, bao gồm lạm dụng tình dục, quyền lực, lương tâm, và kinh tế. Ðây là những vết thương hở, hậu quả vẫn chưa được giải quyết triệt để. Cùng với niềm sám hối đối với các nạn nhân và những người sống sót vì những đau khổ mà mình đã gây ra, Giáo hội phải cam kết mạnh mẽ trong việc hoán cải và đổi mới nhằm ngăn chặn những tình huống tương tự tái diễn trong tương lai.
5. Chính trong bối cảnh này, tuy đa dạng nhưng có những đặc điểm chung mang tính toàn cầu, mà hành trình Thượng Hội đồng diễn ra. Ðại hội Thượng Hội đồng Giám mục vào tháng 10. 2023 cũng sẽ phải lắng nghe cách sâu sắc những hoàn cảnh mà Giáo hội đang sống và thi hành sứ vụ của mình. Cùng nhau bước đi có nghĩa là gì, câu hỏi ấy càng mang tính khẩn thiết hơn khi được đặt ra trong một bối cảnh cụ thể với những con người và hoàn cảnh thực trong tâm trí. Ðiều cần được quan tâm là khả năng loan báo Tin Mừng bằng việc bước đi cùng nhau với những người nam nữ trong thời đại chúng ta, bất kể họ ở đâu, cũng như việc thực hành tính công giáo xuất phát từ việc bước đi cùng nhau với các Giáo hội đang sống trong những điều kiện đau khổ đặc biệt (x. LG 23).
6. Ðến với Ðại hội Thượng Hội đồng, chúng ta mang theo những thành quả đã thu thập được trong giai đoạn lắng nghe. Trước hết, chúng ta cảm nghiệm niềm vui được thể hiện trong cuộc gặp gỡ chân thành và trân trọng giữa anh chị em trong đức tin: gặp gỡ nhau là gặp gỡ Chúa đang ở giữa chúng ta! Nhờ đó, chúng ta đã có thể chạm đến tính công giáo của Giáo hội, một Giáo hội mà trong sự đa dạng về tuổi tác, giới tính và điều kiện xã hội, thể hiện sự phong phú phi thường về các đặc sủng và ơn gọi trong Giáo hội, và là người canh giữ một kho tàng đa dạng về ngôn ngữ, văn hóa, cách diễn đạt phụng vụ và truyền thống thần học. Trên thực tế, sự đa dạng phong phú này là quà tặng của mỗi Giáo hội địa phương cống hiến cho tất cả các Giáo hội khác (x. LG 13), và động lực hiệp hành là một phương thế để trân trọng và tăng cường sự đa dạng phong phú này mà không san bằng nó thành sự đồng nhất. Tương tự như vậy, chúng ta khám phá ra rằng có những câu hỏi mọi người đều chia sẻ, kể cả khi tính hiệp hành được sống và được hiểu cách khác nhau ở những nơi khác nhau trên thế giới, trên cơ sở di sản chung của Truyền thống tông đồ. Một phần thách thức của tính hiệp hành là phân định mức độ thích hợp nhất để giải quyết từng vấn đề. Một số căng thẳng cũng được mọi người cùng chia sẻ. Chúng ta không cần phải sợ hãi chúng, cũng không tìm cách giải quyết chúng bằng mọi giá, nhưng phải tham gia vào việc phân định hiệp hành đang diễn ra. Chỉ bằng cách này, những căng thẳng mới có thể trở thành nguồn năng lượng và không rơi vào tình trạng phân cực hủy diệt.
7. Giai đoạn thứ nhất đã đổi mới nhận thức của chúng ta rằng ơn gọi và căn tính của chúng ta là ngày càng trở thành một Giáo hội hiệp hành hơn: cùng nhau bước đi, trở nên hiệp hành, là cách để thực sự trở thành môn đệ và bạn hữu của Thầy và Chúa, Ðấng đã nói về chính mình: "Thầy là đường" (Ga 14, 6). Ngày nay, điều này cũng là một ước muốn sâu xa: sau khi trải nghiệm việc cùng nhau bước đi như một hồng ân, chúng ta muốn tiếp tục như thế, biết rằng hành trình này sẽ được hoàn thành trọn vẹn vào ngày sau hết, khi mà, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta là một phần của đoàn người được mô tả trong sách Khải Huyền như sau: "Kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: "Chính Thiên Chúa chúng ta, Ðấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta'" (Kh 7, 9-10). Bản văn này cho chúng ta hình ảnh về tính hiệp hành đã được hoàn thành một cách vĩnh viễn, trong đó sự hiệp thông hoàn hảo ngự trị trên tất cả những khác biệt gồm chứa trong đó, những khác biệt được duy trì và hiệp nhất trong một sứ mạng đã được hoàn thành: tham gia vào phụng vụ ngợi khen mà mọi thụ tạo, nhờ Ðức Kitô, dâng lên Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần.
8. Chúng ta phó dâng công việc của Ðại hội và việc tiếp tục dấn thân của chúng ta vì một Giáo hội hiệp hành cho sự chuyển cầu của các anh chị em, những người đã sống trọn vẹn mầu nhiệm hiệp thông các thánh (x. LG 50), và đặc biệt là của đấng đứng hàng đầu trong các thánh (x. LG 63) là Ðức Maria - Mẹ Giáo hội. Chúng con cầu xin cho Ðại hội là thời điểm tuôn đổ Thánh Thần, nhưng hơn nữa, ân sủng đó sẽ đồng hành với chúng ta khi đến lúc đưa hoa trái của Thượng Hội đồng vào hành động trong cuộc sống hàng ngày của các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp thế giới.
Một công cụ làm việc cho giai đoạn thứ hai của hành trình hiệp hành
9. Những đặc nét đánh dấu Thượng Hội đồng Giám mục 2021-2024 không thể không được phản ánh trong ý nghĩa và động lực của Ðại hội Thượng Hội đồng và do đó, trong cấu trúc của Tài liệu Làm việc phục vụ cho Ðại hội Thượng Hội đồng. Ðặc biệt, giai đoạn chuẩn bị lâu dài đã dẫn đến việc phát hành nhiều tài liệu: Tài liệu Chuẩn bị, báo cáo của các Giáo hội địa phương, Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục và Tài liệu cuối cùng của các Ðại hội châu lục. Bằng cách này, một chu trình truyền thông liên lạc đã được thiết lập giữa các Giáo hội địa phương với nhau và giữa các Giáo hội địa phương với Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng. Tài liệu Làm việc hiện tại không hủy bỏ các tài liệu trước cũng không hấp thụ được hết những phong phú của các tài liệu ấy, nhưng bắt nguồn từ chúng và liên tục tham khảo lại chúng. Ðể chuẩn bị cho Ðại hội, các Thành viên của Thượng Hội đồng được mời ghi nhớ các tài liệu trước đó, đặc biệt là Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục và các Tài liệu Cuối cùng của các Ðại hội Châu lục, cũng như bản báo cáo của Thượng Hội đồng kỹ thuật số và sử dụng chúng như những công cụ cho việc phân định riêng của mình. Ðặc biệt, các Văn kiện Cuối cùng của các Ðại hội Châu lục rất có giá trị trong việc duy trì tính cụ thể của các bối cảnh khác nhau và những thách đố mà mỗi bối cảnh đặt ra. Công việc chung của Ðại hội Thượng Hội đồng không thể bỏ qua những nguồn này cho việc phân định. Nhiều nguồn tài liệu được thu thập trong phần đặc biệt của trang web Thượng Hội đồng 2021-2024, www.synod.va, đặc biệt là Tông hiến Episcopalis communio (Tính hiệp thông giữa giám mục) và hai tài liệu của Ủy ban Thần học Quốc tế, Tính hiệp hành trong Ðời sống và Sứ vụ của Giáo hội (Synodality in the Life and Mission of the Church, 2018) và Cảm thức đức tin trong Ðời sống Giáo hội (The sensus fidei in the Life of the Church, 2014) cũng có thể hữu ích.
10. Với nguồn tài liệu phong phú đã có sẵn, Tài liệu Làm việc hướng tới mục tiêu trở thành một công cụ hỗ trợ thiết thực cho việc tiến hành Ðại hội Thượng Hội đồng vào tháng 10. 2023, và do đó, là một công cụ để chuẩn bị cho việc chuẩn bị Ðại hội. Những gì đã mô tả về Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục càng đúng hơn đối với Tài liệu Làm việc: "không phải là một tài liệu của Huấn quyền Giáo hội, cũng không phải là bản tường trình một cuộc khảo sát xã hội học; nó không nhằm trình bày các chỉ dẫn, các mục tiêu, cũng không xây dựng trọn vẹn một viễn tượng thần học" (DCS, số 8). Ðây là điều không thể khác được, vì Tài liệu Làm việc là một phần của tiến trình chưa hoàn tất. Tuy nhiên, Tài liệu Làm việc tiến một bước xa hơn Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục, nó rút ra từ những ý tưởng được thu thập được trong giai đoạn thứ nhất, và đặc biệt là từ công việc của các Ðại hội Châu lục, nêu rõ một số ưu tiên nảy sinh từ việc lắng nghe Dân Chúa, nhưng tránh trình bày chúng như những lời khẳng định hoặc lập trường. Thay vào đó, Tài liệu Làm việc diễn đạt những ưu tiên này như những câu hỏi gửi đến Ðại hội Thượng Hội đồng. Ðại hội có nhiệm vụ thực hiện một việc phân định để xác định một số bước cụ thể giúp cho sự phát triển tiếp tục của một Giáo hội hiệp hành, những bước mà sau đó Ðại hội sẽ đệ trình lên Ðức Thánh Cha. Chỉ khi đó, tiến trình lắng nghe cụ thể mới kết thúc, trong đó "mỗi người đều có điều gì đó để học hỏi. Các tín hữu, Giám mục đoàn, Giám mục Rôma: người này lắng nghe người kia; và tất cả cùng lắng nghe Chúa Thánh Thần, 'Thần Khí sự thật' (Ga 14, 17), để biết Ngài 'đang nói gì với các Giáo Hội' (Kh 2, 7)"[2]. Trong ánh sáng này, mục đích của Tài liệu Làm việc không phải là một bản dự thảo đầu tiên của Văn kiện Cuối cùng của Thượng Hội đồng, chỉ để được điều chỉnh hoặc bổ sung. Thay vào đó, Tài liệu Làm việc cung cấp một sự hiểu biết ban đầu về chiều kích hiệp hành của Giáo hội, để trên cơ sở này có thể thực hiện sự phân định sâu sắc hơn. Các Thành viên của Ðại hội Thượng Hội đồng là những người tiếp nhận chính yếu Tài liệu Làm việc, vốn cũng được công khai không chỉ vì lý do minh bạch mà còn như một đóng góp vào việc thực hiện các sáng kiến của Giáo hội. Ðặc biệt, Tài liệu Làm việc có thể khuyến khích sự tham gia vào các động lực hiệp hành ở cấp địa phương và khu vực, trong khi chờ đợi kết quả của Ðại hội tháng 10. Ðại hội này sẽ cung cấp thêm tài liệu mà các Giáo hội địa phương được mời gọi để cầu nguyện, suy tư, hành động và đóng góp của riêng mình.
11. Các câu hỏi do Tài liệu Làm việc đặt ra diễn tả sự phong phú của tiến trình phát sinh chúng: những câu hỏi mang dấu ấn của những cái tên và khuôn mặt cụ thể của những người tham gia, và chúng làm chứng cho trải nghiệm đức tin của Dân Chúa, và do đó biểu lộ thực tại của một trải nghiệm siêu việt. Từ quan điểm này, các câu hỏi chỉ ra một chân trời và mời gọi chúng ta tự tin tiến bước, để đào sâu việc thực hành chiều kích hiệp hành của Giáo hội. Giai đoạn thứ nhất giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của việc coi Giáo hội địa phương như một điểm tham chiếu ưu tiên[3], như một địa điểm thần học trong đó những người đã nhận phép Rửa trải nghiệm một cách thực tế "việc cùng nhau bước đi". Tuy nhiên, điều này không dẫn đến việc rút lui vào chính mình. Không một Giáo hội địa phương nào có thể sống bên ngoài các mối tương quan liên kết mình với tất cả các Giáo hội khác, kể cả mối tương quan đặc biệt với Giáo hội Rôma, vốn được ủy thác phục vụ sự hiệp nhất nhờ thừa tác vụ của vị Mục tử của mình, người đã triệu tập toàn thể Giáo hội trong Thượng Hội đồng.
12. Việc tập trung này vào các Giáo hội địa phương đòi hỏi phải tính đến sự đa dạng và phong phú của các nền văn hóa, ngôn ngữ và phương thức diễn đạt của họ. Cụ thể, cùng một từ - chẳng hạn như nghĩ về quyền bính và lãnh đạo - có thể có những âm vang và ý nghĩa rất khác nhau tùy theo các vùng ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, đặc biệt là khi trong một số ngữ cảnh một thuật ngữ cần được liên kết với đúng các cách tiếp cận lý thuyết hoặc ý thức hệ. Tài liệu Làm việc cố gắng tránh ngôn ngữ gây chia rẽ với hy vọng tăng cường sự hiểu biết tốt hơn giữa các thành viên của Ðại hội Thượng Hội đồng đến từ các khu vực hoặc truyền thống khác nhau. Tầm nhìn của Công đồng Vatican II là điểm quy chiếu chung, bắt đầu từ tính công giáo của Dân Chúa, nhờ đó "mỗi phần tử thực thi những đóng góp của riêng mình cho các phần tử khác và cho toàn thể Giáo Hội, để tất cả và từng người được tăng triển nhờ cùng chia sẻ mọi sự và cùng hiệp lực đạt đến tình trạng viên mãn trong tình hợp nhất [...]trong khi vẫn bảo toàn quyền tối thượng của ngai tòa Phêrô đứng đầu toàn thể cộng đoàn đức ái, bảo toàn các dị biệt hợp pháp, đồng thời lưu tâm giữ gìn sao cho các dị biệt ấy không làm phương hại, trái lại còn phục vụ cho sự hợp nhất" (LG 13). Tính công giáo này được thể hiện trong mối tương quan nội tại hỗ tương giữa Giáo hội hoàn vũ và các Giáo hội địa phương, trong đó và từ đó "tạo thành một Giáo hội Công giáo duy nhất" (LG 23). Tiến trình hiệp hành giai đoạn thứ nhất diễn ra tại các Giáo hội địa phương, giờ đây bước vào giai đoạn thứ hai trong Giáo hội hoàn vũ, với việc tổ chức hai khoá họp của Ðại hội Thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục.
Cấu trúc của bản văn
13. Tài liệu Làm việc được chia thành 2 phần, tương ứng với 2 nhiệm vụ được giao cho các Ðại hội Châu lục (và do đó, phù hợp với nội dung của các Tài liệu Cuối cùng có liên quan): trước hết, các Ðại hội Châu lục được mời thực hiện việc đọc lại lộ trình đã thực hiện trong giai đoạn thứ nhất, nhằm xác định những gì Giáo hội ở mỗi châu lục đã học được từ kinh nghiệm sống chiều kích hiệp hành để phục vụ cho sứ vụ; thứ đến, các Ðại hội Châu lục được mời suy tư về Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục và phân định các cộng hưởng được thực hiện trong các Giáo hội địa phương của châu lục, hầu xác định các ưu tiên cần tiếp tục phân định trong Ðại hội Thượng Hội đồng.
14. Phần A của Tài liệu Làm việc, có tựa đề "Hướng tới một Giáo hội hiệp hành", cố gắng thu thập những thành quả của lộ trình đã đi cho đến nay. Trước hết, phần này liệt kê một loạt các đặc tính cơ bản hoặc các đặc điểm nổi bật của một Giáo hội hiệp hành. Sau đó nêu rõ nhận thức rằng một Giáo hội hiệp hành cũng được đặc trưng bởi một cách thức tiến hành cụ thể. Theo kết quả của giai đoạn đầu, cuộc đối thoại trong Thánh Thần là cách thức tiến hành này. Ðại hội sẽ được mời để trả lời cho kết quả của việc đọc lại này với mục đích xác định và hoàn thiện chúng. Phần B của Tài liệu Làm việc, với tựa đề "Hiệp thông, sứ vụ, tham gia"[4], trình bày rõ ràng, dưới hình thức các câu hỏi về ba ưu tiên nổi bật nhất từ công việc của tất cả các châu lục, do đó đệ trình chúng cho Ðại hội để phân định. Ðể hỗ trợ tiến trình làm việc của Ðại hội Thượng Hội đồng, đặc biệt là công việc nhóm (Circuli Minores), 5 phiếu làm việc được đề xuất cho mỗi ưu tiên trong số ba ưu tiên này, cho phép chúng được tiếp cận từ những quan điểm khác nhau.
15. Ba ưu tiên của phần B, được phát triển thông qua các phiếu làm việc tương ứng, bao gồm những đề tài rộng lớn có tính liên quan cao. Nhiều đề tài có thể là chủ đề của toàn bộ Thượng Hội đồng, và một số đã là chủ đề rồi. Trong một số trường hợp, những can thiệp của Huấn Quyền cũng rất nhiều và được xác định rõ ràng. Trong quá trình làm việc của Ðại hội, những vấn đề ấy không thể được xử lý một cách thấu đáo, và nhất là cũng không nên coi những vấn đề ấy là độc lập với nhau. Thay vào đó, chúng sẽ phải được tiếp cận bắt đầu từ mối tương quan của chúng với chủ đề thực sự của (đại hội) tức là một Giáo hội hiệp hành. Ví dụ, những đề cập về tính cấp bách của việc quan tâm thích đáng đến gia đình và giới trẻ không nhằm mục đích khuyến khích một cách xử lý mới về mục vụ gia đình hoặc mục vụ giới trẻ. Mục đích của những đề cập ấy là giúp tập trung vào việc thực hiện các kết luận của hai Ðại hội Thường lệ trước đó của Thượng Hội đồng Giám mục (năm 2015 và năm 2018) và của các Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng từ hai Thượng Hội đồng này là Amoris laetitia và Christus vivit, việc thực hiện ấy đã thể hiện ra sao cơ hội cùng nhau bước đi với tư cách là một Giáo hội có khả năng chào đón và đồng hành cùng các gia đình và những người trẻ, chấp nhận những thay đổi cần thiết về quy tắc, cấu trúc và thủ tục. Ðiều tương tự cũng áp dụng cho nhiều vấn đề khác xuất hiện trong các chủ đề thảo luận.
16. Ðại hội và các Thành viên Ðại hội cam kết duy trì trạng thái cân bằng năng động giữa việc duy trì một cái nhìn tổng thể, đặc trưng cho công việc được nêu trong phần A, và việc xác định các bước cần phải thực hiện một cách cụ thể và kịp thời, như là trọng tâm của phần B. Ðiều này tùy thuộc vào thành quả của việc phân định của Ðại hội Thượng Hội đồng mà nhiệm vụ của các Thành viên Ðại hội là mở ra cho toàn thể Giáo hội để đón nhận tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Nguồn cảm hứng cho công việc của Ðại hội có thể đến từ việc suy tư về cách trình bày rõ ràng của Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, vốn "gồm hai phần", khác nhau về đặc điểm và trọng tâm, nhưng trở thành "một tổng thể thống nhất" (GS, chú thích 1)
A. Hướng tới một Giáo hội hiệp hành. Một trải nghiệm toàn diện
"Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung" (1Cr 12, 4-7).
17. Một đặc điểm chung hiệp nhất các câu chuyện về các chặng của giai đoạn thứ nhất: đó là sự ngạc nhiên của những người tham gia, họ thấy mình đã có thể chia sẻ hành trình hiệp hành theo cách vượt quá mong đợi của họ. Ðối với những người tham gia, tiến trình hiệp hành mang đến cơ hội gặp gỡ trong đức tin tạo nên mối liên kết với Chúa, tình huynh đệ giữa mọi người và tình yêu đối với Giáo hội, không chỉ ở cấp độ cá nhân, mà còn thu hút và tiếp thêm sinh lực cho toàn thể cộng đoàn. Kinh nghiệm này là chân trời hy vọng đang mở ra cho Giáo hội, một dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần, Ðấng hướng dẫn Giáo hội xuyên suốt lịch sử trên hành trình tiến về Nước Trời (x. LG 5): "Nhân vật chính của Thượng Hội đồng là Chúa Thánh Thần"[5]. Do đó, lời mời cùng nhau bước đi càng được chấp nhận một cách mạnh mẽ bao nhiêu, thì Thượng Hội đồng càng trở thành một lộ trình mà Dân Chúa tiến hành với lòng nhiệt thành bấy nhiêu, không hề có sự ngây thơ ở đây. Thật vậy, các vấn đề, sự chống đối, khó khăn và căng thẳng không bị che giấu hoặc ngụy trang nhưng được xác định và đặt tên nhờ vào một bối cảnh đối thoại đích thực giúp chúng ta có thể nói và lắng nghe một cách tự do và chân thành. Những vấn đề thường được đặt ra theo cách đối nghịch, hoặc là những vấn đề mà đời sống Giáo hội ngày nay không có chỗ cho việc đón nhận và phân định, những vấn đề ấy có thể được tiếp cận theo cách thức Tin Mừng trong tiến trình của Thượng Hội đồng.
18. Như thế, một từ ngữ trừu tượng hoặc lý thuyết như tính hiệp hành bắt đầu được thể hiện trong một trải nghiệm cụ thể. Từ việc lắng nghe Dân Chúa, nảy sinh một sự tiếp nhận và hiểu biết tiệm tiến về tính hiệp hành "từ bên trong", vốn không bắt nguồn từ việc đưa ra một nguyên tắc, một lý thuyết hay một công thức, nhưng phát triển từ chỗ sẵn sàng bước vào một sự năng động của việc nói, lắng nghe và đối thoại mang tính xây dựng, tôn trọng và cầu nguyện. Nền tảng của tiến trình này là sự chấp nhận của cả cá nhân và cộng đoàn, một điều vừa là hồng ân vừa là thách thức: trở thành một Giáo hội gồm các anh chị em trong Ðức Kitô, những người lắng nghe nhau và khi làm như vậy, dần dần được Thánh Thần biến đổi.
A 1. Những dấu chỉ đặc trưng của một Giáo hội hiệp hành
19. Trong khuôn khổ của sự hiểu biết toàn diện này, nổi lên một nhận thức về một số dấu chỉ đặc trưng hoặc đặc biệt của một Giáo hội hiệp hành. Ðây là những xác tín chung mà chúng ta cùng dựa vào và suy nghĩ khi bước vào hành trình sẽ tiếp tục làm sáng tỏ và cải thiện chúng, bắt đầu từ công việc mà Ðại hội Thượng Hội đồng sẽ đảm nhận.
20. Tất cả các châu lục đều có ý thức mạnh mẽ rằng: một Giáo hội hiệp hành được thành lập trên cơ sở nhìn nhận phẩm giá chung bắt nguồn từ Bí tích Rửa tội, một phẩm giá làm cho tất cả những ai lãnh nhận Bí tích này trở thành con cái của Thiên Chúa, trở nên thành viên của gia đình Thiên Chúa, và do đó là anh chị em trong Ðức Kitô, được Thánh Thần cư ngụ và được sai đi để hoàn thành một sứ vụ chung. Nói theo ngôn ngữ của Phaolô, "Tất cả chúng ta, là Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất" (1Cr 12, 13). Do đó, Bí tích Rửa tội tạo ra một sự đồng trách nhiệm thực sự giữa tất cả các phần tử của Giáo hội, được thể hiện qua sự tham gia của tất cả mọi người vào sứ vụ và qua việc xây dựng cộng đoàn giáo hội tuỳ theo đặc sủng của mỗi người. Một Giáo hội hiệp hành chỉ có thể được hiểu trong chân trời của hiệp thông, vốn luôn luôn có sứ vụ loan báo và nhập thể Tin Mừng trong mọi chiều kích của sự hiện hữu con người. Sự hiệp thông và sứ vụ được nuôi dưỡng bằng việc cùng nhau tham dự Thánh Thể, là điều biến Giáo Hội thành một thân thể "được ăn khớp và đan kết với nhau" (Ep 4, 16) trong Ðức Kitô, có khả năng cùng nhau tiến về Nước Trời.
21. Nhận thức này đi kèm với ước muốn về một Giáo hội càng mang tính hiệp hành cả trong các thể chế, cơ cấu và thủ tục của mình, để tạo thành một không gian trong đó phẩm giá chung của phép Rửa và sự đồng trách nhiệm đối với sứ vụ không chỉ được khẳng định mà còn được thực thi, và thực hành. Trong không gian này, việc thi hành quyền bính trong Giáo Hội được trân trọng như một hồng ân, và ngày càng phải được định hình như "một công việc phục vụ đích thực, mà Kinh Thánh gọi một cách có ý nghĩa là 'diakonia' hay thừa tác vụ" (LG 24), theo gương mẫu của Chúa Giêsu, Ðấng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 1-11).
22. "Một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội lắng nghe"[6]: nhận thức này là kết quả của trải nghiệm về hành trình hiệp hành, đó là lắng nghe Thánh Thần qua việc lắng nghe Lời Chúa và lắng nghe nhau với tư cách cá nhân và giữa các cộng đoàn giáo hội, từ cấp địa phương đến cấp châu lục và hoàn vũ. Ðối với nhiều người, điều ngạc nhiên lớn chính là trải nghiệm được cộng đoàn lắng nghe, trong một số trường hợp là lần đầu tiên, do đó việc được nhìn nhận về giá trị con người độc nhất của chính mình minh chứng cho tình yêu của Chúa Cha dành cho từng người con nam, nữ của Ngài. Trải nghiệm lắng nghe và được lắng nghe như thế không chỉ có chức năng thực tế mà còn mang chiều sâu thần học và giáo hội vì theo gương Chúa Giêsu đã lắng nghe những người mà Người gặp gỡ. Phong cách lắng nghe này là cần thiết để đánh dấu và biến đổi tất cả các mối tương quan mà cộng đoàn Kitô hữu thiết lập giữa các thành viên của mình, với các cộng đoàn đức tin khác, và với toàn xã hội, nhất là đối với những người mà tiếng nói của họ thường bị phớt lờ nhất.
23. Là một Giáo hội cam kết lắng nghe, một Giáo hội hiệp hành mong muốn trở nên khiêm tốn, và biết rằng mình phải xin sự tha thứ và còn nhiều điều phải học hỏi. Một số báo cáo lưu ý rằng lộ trình hiệp hành nhất thiết phải là lộ trình mang tính sám hối, nhìn nhận rằng chúng ta không phải lúc nào cũng sống chiều kích hiệp hành cấu thành cộng đoàn giáo hội. Khuôn mặt của Giáo hội ngày nay mang những dấu hiệu khủng hoảng nghiêm trọng về lòng tin và sự khả tín. Trong nhiều bối cảnh, những cuộc khủng hoảng liên quan đến lạm dụng tình dục, lạm quyền, tiền bạc, và lương tâm đã đẩy Giáo hội đến một cuộc kiểm điểm lương tâm đòi hỏi khắt khe "để dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội không ngừng canh tân chính mình" (LG 9), trong hành trình sám hối và hoán cải mở ra những lộ trình hòa giải, chữa lành và công lý.
24. Một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội gặp gỡ và đối thoại. Trên lộ trình chúng ta đã đi, khía cạnh hiệp hành này đặc biệt liên quan đến các mối tương quan với các Giáo hội và các Cộng đoàn giáo hội khác, mà chúng ta được liên kết với nhau bằng mối dây của một Phép Rửa duy nhất. Thánh Thần, Ðấng là "nguyên lý hiệp nhất của Giáo hội" (UR 2), đang hoạt động trong các Giáo hội và các Cộng đoàn giáo hội này, và mời gọi chúng ta thực hiện những lộ trình hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ và xây dựng một đời sống chung. Ở cấp độ địa phương, tầm quan trọng của những gì đã được thực hiện cùng với các thành viên của các Giáo hội và các Cộng đoàn giáo hội khác nổi lên mạnh mẽ, đặc biệt là một chứng tá chung trong các bối cảnh văn hóa xã hội thù địch đôi khi đến mức bị bách hại - đây là phong trào đại kết của sự tử đạo -và trước tình trạng khẩn cấp về sinh thái. Ở khắp nơi, theo Huấn quyền của Công đồng Vatican II, nổi lên ước muốn đào sâu hành trình đại kết: một Giáo hội hiệp hành đích thực không thể không có sự tham gia của tất cả những người cùng chia sẻ một Phép Rửa.
25. Một Giáo hội hiệp hành cũng được kêu gọi thực hành văn hóa gặp gỡ và đối thoại với các tín hữu của các tôn giáo khác và với các nền văn hóa và xã hội mà Giáo hội sống trong đó, nhưng trên hết là giữa nhiều khác biệt vốn có trong chính Giáo hội. Giáo hội không sợ sự đa dạng mà mình có được, nhưng luôn coi trọng mà không ép buộc nó phải trở nên đồng nhất. Tiến trình hiệp hành là một cơ hội để bắt đầu tìm hiểu ý nghĩa của việc sống hiệp nhất trong đa dạng, một thực tại phải tiếp tục được khám phá, tin tưởng rằng lộ trình sẽ trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta tiến bước. Nói cách khác, một Giáo hội hiệp hành thúc đẩy việc chuyển từ "tôi" sang "chúng ta", bởi vì nó tạo thành một không gian trong đó vang lên lời kêu gọi trở thành chi thể của một thân thể coi trọng sự đa dạng nhưng được Thánh Thần làm cho nên một. Chính Thánh Thần thúc đẩy chúng ta lắng nghe Chúa và đáp lại Ngài như một dân phục vụ sứ vụ duy nhất là loan báo cho muôn dân ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban trong Chúa Giêsu Kitô. Ðiều này được thực hiện trong rất nhiều bối cảnh khác nhau: không ai bị yêu cầu rời khỏi bối cảnh của chính mình, mà phải hiểu và thâm nhập vào bối cảnh ấy sâu sắc hơn. Trở lại tầm nhìn này sau trải nghiệm của giai đoạn thứ nhất, tính hiệp hành trước hết xuất hiện như một động lực làm sinh động các cộng đoàn địa phương cụ thể. Ði đến một cấp độ phổ quát hơn, động lực này bao trùm mọi chiều kích và thực tại của Giáo hội, trong một chuyển động của tính công giáo đích thực.
26. Ðược trải nghiệm trong nhiều bối cảnh và văn hóa khác nhau, tính hiệp hành chứng tỏ là một chiều kích cấu thành Giáo hội ngay từ những ngày đầu tiên, ngay cả khi vẫn đang trong tiến trình hoàn thành. Thật vậy, tính hiệp hành ngày càng phải được thực hiện cách trọn vẹn hơn, diễn tả một lời kêu gọi triệt để phải hoán cải, thay đổi, cầu nguyện và hành động hướng đến tất cả mọi người. Theo nghĩa này, một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội cởi mở, chào đón và dành cho tất cả mọi người. Chuyển động này của Thánh Thần vượt qua mọi biên giới để thu hút tất cả mọi người vào sự năng động của mình. Tính triệt để của Kitô giáo không phải là đặc quyền của một số ơn gọi đặc thù, nhưng là lời kêu gọi xây dựng một cộng đoàn sống và làm chứng cho một cách hiểu khác về mối tương quan giữa con cái Thiên Chúa, một mối tương quan thể hiện sự thật về tình yêu, một tình yêu dựa trên ân ban và sự nhưng không. Do đó, lời kêu gọi triệt để này mời gọi chúng ta cùng nhau xây dựng, theo cách hiệp hành, một Giáo hội thu hút và cụ thể: một Giáo hội cởi mở, trong đó tất cả mọi người đều cảm thấy được chào đón.
27. Ðồng thời, một Giáo hội hiệp hành đối diện một cách trung thực và không sợ hãi trước lời mời gọi nhận thức sâu sắc hơn về mối tương quan giữa tình yêu và sự thật theo lời mời gọi của Thánh Phaolô: "Nhưng, sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Ðức Kitô vì Người là Ðầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái" (Ep 4, 15-16). Ðể thực sự bao gồm tất cả mọi người, cần phải đi vào mầu nhiệm Ðức Kitô để cho chính mình được hình thành và biến đổi theo cách Người đã sống mối tương quan giữa tình yêu và sự thật.
28. Một Giáo hội hiệp hành cũng được đặc trưng bởi khả năng quản lý những căng thẳng mà không bị chúng đè bẹp, sống sự căng thẳng như một động lực để đào sâu cách hiểu và sống sự hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Hiệp hành là một lộ trình ưu tiên của sự hoán cải, bởi vì sự hoán cải tái lập Giáo hội trong sự hiệp nhất: chữa lành các vết thương, và hàn gắn ký ức của Giáo hội, đón nhận những khác biệt mà Giáo hội mang nơi mình và cứu chuộc Giáo hội khỏi những chia rẽ ngày càng trầm trọng, nhờ đó giúp Giáo hội thể hiện trọn vẹn hơn ơn gọi của mình là "ở trong Ðức Kitô như một bí tích tức là như một dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất toàn thể nhân loại" (LG 1). Việc lắng nghe đích thực và khả năng tìm ra những cách thế để tiếp tục việc bước đi cùng nhau giúp vượt thắng sự phân mảnh và phân cực là điều cần thiết để Giáo hội tiếp tục tồn tại và sống động, và là dấu chỉ mạnh mẽ đối với các nền văn hóa của thời đại chúng ta.
29. Việc cố gắng cùng nhau bước đi cũng giúp chúng ta tiếp xúc với sự khắc khoải lành mạnh về sự bất toàn, với ý thức rằng vẫn còn nhiều điều chúng ta không thể lĩnh hội hoặc mang nổi (x. Ga 16, 12). Ðây không phải là một vấn đề cần giải quyết, nhưng là một hồng ân cần được vun trồng. Chúng ta đối diện với mầu nhiệm vô tận và thánh thiện của Thiên Chúa và chúng ta phải luôn mở lòng đón nhận những điều bất ngờ của mầu nhiệm ấy khi tiến bước trong cuộc lữ hành tiến về Nước Trời. Ðiều này cũng áp dụng cho những vấn đề mà tiến trình hiệp hành đã làm sáng tỏ. Bước đầu, chúng đòi phải lắng nghe và chú ý, không vội vàng đưa ra các giải pháp tức thì.
30. Mang sức nặng của những câu hỏi này không phải là gánh nặng mang tính cá nhân mà những người đảm nhận một số vai trò nhất định phải gánh chịu, với nguy cơ bị chúng đè bẹp, mà là nhiệm vụ của cả cộng đoàn, mà đời sống tương quan và bí tích thường là câu trả lời tức thì hiệu quả nhất. Ðó là lý do tại sao một Giáo hội hiệp hành luôn được nuôi dưỡng bởi nguồn mạch của mầu nhiệm mà Giáo hội cử hành trong Phụng vụ, "đỉnh cao mà hoạt động của Giáo hội hướng tới" đồng thời là "nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo hội" (SC 10), và nhất là trong Bí Tích Thánh Thể.
31. Một khi Dân Chúa được giải thoát khỏi nỗi lo lắng về sự giới hạn, thì sự bất toàn không thể tránh khỏi của một Giáo hội hiệp hành và sự sẵn sàng của các thành viên chấp nhận những sự dễ bị tổn thương của chính mình trở thành không gian cho hoạt động của Thánh Thần, Ðấng mời gọi chúng ta nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Ngài. Vì lý do này, một Giáo hội hiệp hành cũng là một Giáo hội phân định, trong sự phong phú của những ý nghĩa mà thuật ngữ này mang lấy trong các truyền thống tu đức khác nhau. Giai đoạn thứ nhất giúp Dân Chúa bắt đầu nếm trải hương vị của sự phân định qua việc thực hành đối thoại trong Thánh Thần. Khi chăm chú lắng nghe trải nghiệm sống của nhau, chúng ta lớn lên trong sự tôn trọng lẫn nhau và bắt đầu nhận ra những chuyển động của Thánh Thần Thiên Chúa trong cuộc sống của người khác và của chính mình. Nhờ đó, chúng ta bắt đầu chú ý nhiều hơn đến "những gì Thánh Thần nói với các Giáo hội" (Kh 2, 7), trong sự cam kết và hy vọng trở thành một Giáo hội ngày càng có khả năng đưa ra những quyết định mang tính ngôn sứ vốn là hoa trái của sự hướng dẫn của Thánh Thần.
A 2. Một nẻo đường đi tới cho Giáo hội hiệp hành: đối thoại trong Thánh Thần
32. Trong suốt giai đoạn đầu của Thượng Hội đồng và trên khắp các châu lục, hiệu quả của phương pháp được gọi ở đây là "đối thoại trong Thánh Thần" hoặc "phương pháp hiệp hành" (x. hình trên trang 16).
33. Theo nghĩa từ nguyên, thuật ngữ "đối thoại" không ám chỉ một sự trao đổi ý kiến chung chung, mà là một vận hành trong đó lời được nói và được nghe tạo ra sự quen thuộc, cho phép những người tham gia trở nên thân thiết với nhau hơn. Việc đặc tả "trong Thánh Thần" xác định nhân vật chính đích thực: ước muốn của những người tham gia đối thoại có khuynh hướng lắng nghe tiếng của Ngài, mà trong lời cầu nguyện mở lòng đón nhận hành động tự do của Ðấng, giống như gió, muốn thổi đâu thì thổi (x. Ga 3, 8). Dần dần, cuộc đối thoại giữa các anh chị em trong đức tin mở ra không gian cho 'việc cùng nhau lắng nghe', nghĩa là cùng nhau lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần. Sẽ không phải là cuộc đối thoại trong Thánh Thần nếu không có một bước tiến theo một hướng chính xác, thường là bất ngờ dẫn đến hành động cụ thể.
34. Trong các Giáo hội địa phương, việc đối thoại trong Thánh Thần đã được chấp nhận và đôi khi được "khám phá" như một bầu khí giúp cho việc chia sẻ kinh nghiệm sống và là không gian cho việc phân định trong một Giáo hội hiệp hành trở thành hiện thực. Trong các Tài liệu Cuối cùng của các Ðại hội cấp Châu lục, thực hành được mô tả như một khoảnh khắc của Lễ Ngũ tuần, một cơ hội để trải nghiệm việc trở thành Giáo hội và chuyển từ việc lắng nghe các anh chị em trong Ðức Kitô sang việc lắng nghe Thánh Thần, Ðấng là nhân vật chính đích thực, và được Ngài sai đi thi hành sứ vụ. Ðồng thời, nhờ phương pháp này, ân sủng của Lời Chúa và của Thánh Thể trở thành một thực tại được cảm nhận, hiện thực hóa và biến đổi, một thực tại chứng thực và thực hiện sáng kiến nhờ đó Chúa Giêsu làm cho chính Người hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội. Ðức Kitô sai chúng ta đi thi hành sứ vụ và quy tụ chúng ta quanh Người để tạ ơn và tôn vinh Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Do đó, từ khắp các châu lục xuất hiện yêu cầu rằng phương pháp này có thể ngày càng sinh động và thấm nhuần vào cuộc sống hàng ngày của các Giáo hội.
35. Ðối thoại trong Thánh Thần là một phần của truyền thống lâu đời về phân định trong Giáo Hội, một truyền thống vốn tạo ra nhiều phương pháp và cách tiếp cận. Giá trị truyền giáo chính xác của việc đối thoại cần phải được nhấn mạnh. Thực hành tâm linh này giúp chúng ta chuyển từ cái "tôi" sang cái "chúng ta": nó không đánh mất hay xóa bỏ chiều kích cá nhân của cái "tôi", nhưng nhận ra cái tôi và đưa cái tôi vào chiều kích cộng đoàn. Theo cách này, việc giúp cho những người tham dự nói và nghe trở thành một biểu hiện của phụng vụ và cầu nguyện, trong đó Chúa hiện diện và dẫn chúng ta đến những hình thức hiệp thông và phân định đích thực hơn bao giờ hết.
36. Trong Tân Ước, có nhiều ví dụ về phong cách đối thoại này. Trình thuật về cuộc gặp gỡ của Chúa Phục Sinh với hai môn đệ trên đường Emmau là một kiểu mẫu (x. Lc 24, 13-35, và lời giải thích được đưa ra trong CV 237). Như kinh nghiệm của hai môn đệ cho thấy, cuộc đối thoại trong Thánh Thần xây dựng sự hiệp thông và mang lại động lực truyền giáo. Thật vậy, hai ông trở lại cộng đoàn mà họ đã ra đi để chia sẻ lời loan báo Phục Sinh rằng Chúa đã sống lại.
37. Một cách cụ thể, cuộc đối thoại trong Thánh Thần có thể được mô tả như một lời cầu nguyện chung hướng tới một sự phân định chung mà những người tham gia tự chuẩn bị bằng việc suy tư và suy niệm cá nhân. Họ trao cho nhau món quà là một lời nói sâu sắc đã được suy niệm và nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện, chứ không phải một ý kiến ngẫu hứng ngay tại chỗ. Sự năng động giữa những người tham gia nói lên 3 bước cơ bản. Trước hết là dành cho mỗi người tham gia phát biểu, bắt đầu từ trải nghiệm cá nhân của họ được đọc lại trong lời cầu nguyện trong thời gian chuẩn bị. Những người khác lắng nghe với nhận thức rằng mỗi người đều có những đóng góp quý giá để cống hiến và cố gắng không tranh luận hoặc thảo luận.
38. Sự thinh lặng và cầu nguyện giúp chuẩn bị cho bước tiếp theo, trong đó mỗi người được mời gọi mở ra một không gian nội tâm cho người khác và cho Thiên Chúa. Một lần nữa, mỗi thành viên trong nhóm lên phát biểu: không phải để phản ứng hoặc phản đối những gì đã được nghe bằng cách khẳng định lại quan điểm của mình, mà để bày tỏ điều mà trong tiến trình lắng nghe đã khiến họ cảm động sâu sắc nhất và bị thách thức mạnh mẽ nhất. Những dấu ấn nội tâm nơi mỗi người do việc lắng nghe anh chị em là ngôn ngữ mà Chúa Thánh Thần dùng để làm cho tiếng nói của Ngài vang lên. Mỗi tham dự viên càng được nuôi dưỡng bằng việc suy niệm Lời Chúa và các Bí tích, càng lớn lên trong sự thân mật với Chúa, thì càng có khả năng nhận ra tiếng của Ngài (x. Ga 10, 14.27), cũng được trợ giúp bởi sự đồng hành của Huấn quyền và thần học. Tương tự như vậy, những người tham gia càng chú ý và chăm chú lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần thì sẽ càng phát triển trong cảm thức chung về sứ vụ.
39. Cũng trong bầu khí cầu nguyện và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, bước thứ ba là xác định những điểm mấu chốt đã xuất hiện và đạt được sự đồng thuận về thành quả của công việc chung, mà mọi người đều cho là trung thành với tiến trình và do đó họ có thể cảm thấy được đại diện. Lập một báo cáo liệt kê những điểm thường được đề cập đến nhất là chưa đủ. Ðúng hơn, cần có sự phân định, đồng thời chú ý đến những tiếng nói bên lề và mang tính ngôn sứ, cũng như không bỏ qua tầm quan trọng của những điểm liên quan đến việc nảy sinh bất đồng. Chúa là nền tảng cho phép "công trình xây dựng" đứng vững, và Thánh Thần, bậc thầy của sự hài hòa, sẽ giúp chuyển từ tạp âm sang bản giao hưởng.
40. Hành trình này kết thúc với lời cầu nguyện ngợi khen Thiên Chúa và lòng biết ơn về trải nghiệm. "Khi chúng ta sống một thứ linh đạo gần gũi với người khác và tìm kiếm hạnh phúc của họ, lòng chúng ta được mở rộng trước các quà tặng tuyệt vời và đẹp nhất của Chúa. Khi chúng ta gặp gỡ người khác với lòng yêu thương, chúng ta học được một điều gì mới về Thiên Chúa. Mỗi khi mắt chúng ta mở ra để nhìn nhận người khác, chúng ta lớn lên trong ánh sáng của đức tin và của sự hiểu biết Thiên Chúa" (EG 272). Tóm lại, đây là món quà mà những người để mình được lôi cuốn vào cuộc đối thoại trong Thánh Thần nhận được.
41. Trong những tình huống cụ thể, vấn đề không phải là rập khuôn theo từng chữ, mà là luôn cần thích nghi. Ðôi khi cần ưu tiên cho mỗi người phát biểu và lắng nghe những người khác; trong những trường hợp khác, cần làm nổi bật những mối liên hệ giữa các quan điểm khác nhau, tìm kiếm điều làm cho "lòng chúng ta bừng cháy lên" (x. Lc 24, 32); trong những người khác nữa, cần giải thích về sự đồng thuận và làm việc cùng nhau để xác định hướng mà chúng ta cảm thấy được Thánh Thần kêu gọi để di chuyển. Tuy nhiên, ngoài những thích ứng cụ thể phù hợp, thì ý định và động lực liên kết ba bước này là và vẫn là đặc điểm của cách thức tiến hành của một Giáo hội hiệp hành.
42. Ghi nhớ tầm quan trọng của cuộc đối thoại trong Thánh Thần để làm sinh động kinh nghiệm sống của Giáo hội hiệp hành, việc đào tạo theo phương pháp này, và đặc biệt là đào tạo các điều phối viên có khả năng đồng hành cùng các cộng đoàn trong việc thực hành phương pháp này, được coi là ưu tiên ở mọi cấp độ của đời sống Giáo hội và cho tất cả những người đã lãnh phép Rửa, bắt đầu với các Thừa tác viên chức thánh trong tinh thần đồng trách nhiệm và cởi mở với các ơn gọi khác nhau trong Giáo hội.
Cuộc đối thoại trong Thánh Thần
Một động lực của sự phân định trong Giáo hội hiệp hành
(1) Chuẩn bị cá nhân
Bằng cách tín thác vào Chúa Cha, đối thoại trong cầu nguyện với Chúa Giêsu và lắng nghe Chúa Thánh Thần, mỗi người chuẩn bị phần đóng góp của mình cho vấn đề mà mình được mời gọi để phân định.
Thinh lặng, cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa
(2) "Nói và lắng nghe"
Mỗi người thay phiên nhau nói, dựa trên chính trải nghiệm và việc cầu nguyện của mình, đồng thời chăm chú lắng nghe sự đóng góp của người khác
Thinh lặng và Cầu nguyện
(3) "Tạo không gian cho người khác và cho Chúa"
Từ những gì những người khác đã nói, mỗi người chia sẻ điều gì có âm hưởng trong lòng mình nhất hoặc điều gì đã khơi dậy sự phản kháng mạnh mẽ nhất, để bản thân được Chúa Thánh Thần hướng dẫn: "Trong khi lắng nghe, lòng tôi có bừng cháy lên chăng?"
Thinh lặng và Cầu nguyện
(4) "Cùng nhau xây dựng"
Chúng ta cùng nhau đối thoại trên cơ sở những gì đã xuất hiện ở bước trên để phân định và thu thập thành quả của cuộc đối thoại trong Thánh Thần: nhận ra những trực giác và những sự hội tụ; xác định những bất đồng, trở ngại và những câu hỏi mới; cho phép những tiếng nói ngôn sứ xuất hiện. Ðiều quan trọng là mọi người có thể cảm thấy được đại diện bởi kết quả của công việc. "Chúa Thánh Thần kêu gọi chúng ta cùng nhau tiến đến những bước nào?"
(5) Lời cầu nguyện tạ ơn kết thúc
B. Hiệp thông, sứ vụ, tham gia. Ba vấn đề ưu tiên cho Giáo hội hiệp hành
"Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận có cùng một chức năng; thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một phần thân thể trong Ðức Kitô, ai nấy liên đới với nhau như những bộ phận của một thân thể" (Rm 12, 4-5).
43. Trong số những thành quả của giai đoạn thứ nhất, và đặc biệt là của các Ðại hội Châu lục, thu được nhờ vào cách thức tiến hành vừa được trình bày, ba ưu tiên đã được xác định và hiện đang được đề xuất cho việc phân định của Ðại hội Thượng Hội đồng vào tháng 10. 2023. Ðây là những thách thức mà toàn thể Giáo hội phải tự đo lường mình để tiến tới và phát triển trong thực thể hiệp hành của mình ở mọi cấp độ và từ nhiều quan điểm. Những điều này cần được tiếp cận từ quan điểm thần học và giáo luật, cũng như từ quan điểm chăm sóc mục vụ và linh đạo. Những ưu tiên này đặt câu hỏi về cả định hướng mục vụ của các giáo phận lẫn lối sống và những lựa chọn hàng ngày của mỗi thành viên Dân Chúa. Ðồng thời, những ưu tiên này cũng thực sự mang tính hiệp hành bởi vì việc tiếp cận chúng đòi hỏi phải bước đi cùng nhau như một dân, với tất cả các thành viên của mình. Ba ưu tiên sẽ được minh họa liên quan đến ba từ khóa của Thượng Hội đồng: Hiệp thông, Sứ vụ, Tham gia. Mặc dù sự lựa chọn này được thực hiện vì mục đích trình bày đơn giản và rõ ràng, nhưng nó có nguy cơ trình bày ba từ khóa như ba "trụ cột" độc lập với nhau. Trái lại, trong đời sống của Giáo hội hiệp hành, sự Hiệp thông, Sứ vụ, và việc Tham gia được nối kết, nuôi dưỡng và hỗ trợ lẫn nhau. Chúng phải luôn được hiểu với sự hợp nhất này.
44. Sự thay đổi trong thứ tự xuất hiện của ba thuật ngữ, với thuật ngữ "sứ vụ" hiện chiếm vị trí trung tâm, cũng bắt nguồn từ nhận thức về các mối liên kết được phát triển trong giai đoạn thứ nhất. Ðặc biệt, Hiệp thông và Sứ vụ đan xen và phản chiếu lẫn nhau, như Thánh Gioan Phaolô II đã dạy: "Hiệp thông và sứ vụ liên kết sâu xa với nhau, chúng thâm nhập và bao hàm lẫn nhau, đến độ hiệp thông vừa là nguồn mạch vừa là hoa trái của sứ vụ: hiệp thông phát sinh sứ vụ và sứ vụ được hoàn thành trong hiệp thông" (CL 32, được đề cập trong PE I, 4). Chúng ta được mời gọi vượt lên trên cách hiểu nhị nguyên, trong đó các mối tương quan trong cộng đoàn giáo hội là lĩnh vực của sự hiệp thông, còn sứ vụ liên quan đến động lực đi ra (ad extra). Thay vào đó, giai đoạn thứ nhất đã làm nổi bật cách thức hiệp thông là điều kiện cho sự khả tín của việc loan báo Tin Mừng, một nhận thức gợi lại nhận thức của Ðại Hội Thường lệ lần thứ XV của Thượng Hội đồng Giám mục về Người trẻ, Ðức tin, và sự Phân định Ơn gọi[7]. Ðồng thời, có một nhận thức ngày càng tăng rằng định hướng sứ vụ là tiêu chí duy nhất được thiết lập theo Tin Mừng cho việc tổ chức nội bộ của cộng đồng Kitô hữu, sự phân chia vai trò và trách nhiệm cũng như việc quản lý các tổ chức và cơ cấu của nó. Chính trong mối tương quan với hiệp thông và sứ vụ mà chúng ta hiểu được ý nghĩa của sự tham gia, và vì lý do này, sự tham gia chỉ có thể được đề cập sau hiệp thông và sứ vụ. Một đàng, sự tham gia mang lại cho sự hiệp thông và sứ vụ một biểu hiện cụ thể: sự chú ý đến các thủ tục, quy tắc, cơ cấu và thể chế giúp củng cố sứ vụ theo thời gian và giải thoát sự hiệp thông khỏi tính tự phát đơn thuần về cảm xúc. Ðàng khác, sự tham gia nhận được một ý nghĩa, định hướng và động lực cho phép nó thoát khỏi nguy cơ biến thành một cơn điên cuồng của việc đòi hỏi các quyền cá nhân, chắc chắn dẫn đến sự chia rẽ hơn là hiệp nhất.
45. Ðể đi kèm với việc chuẩn bị và sắp xếp công việc của Ðại hội, năm phiếu làm việc đã được soạn thảo nhằm giúp tiếp cận từng ưu tiên, và được trình bày ở cuối phần này. Mỗi phiếu làm việc tạo thành một điểm khởi đầu dẫn đến câu hỏi về mối ưu tiên, bằng cách này mối ưu tiên có thể được tiếp cận từ những quan điểm khác nhau nhưng bổ sung cho nhau, liên quan đến các khía cạnh khác nhau của đời sống Giáo hội đã xuất hiện thông qua công việc của các Ðại hội Châu lục. Trong trường hợp này, ba đoạn tiếp theo, tương ứng với ba nhóm phiếu làm việc trong phần phụ lục, không nên được đọc như các cột song song không có bất kỳ liên kết nào. Ðúng hơn, những đoạn này là những tia sáng chiếu sáng cùng một thực tại, đó là đời sống hiệp hành của Giáo hội, từ những điểm thuận lợi khác nhau, liên tục đan xen và kêu gọi lẫn nhau, mời gọi chúng ta phát triển.
B 1. Một sự hiệp thông tỏa sáng: Làm thế nào chúng ta có thể trở thành dấu chỉ và khí cụ hiệp nhất với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại một cách trọn vẹn hơn?
46. Hiệp thông không phải là một cuộc tập hợp xã hội học của các thành viên thuộc một nhóm đồng nhất, nhưng trên hết đó là hồng ân của Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời là một nhiệm vụ không bao giờ mệt mỏi trong việc xây dựng cái "chúng ta" của Dân Chúa. Như các Ðại hội Châu lục đã trải nghiệm, sự hiệp thông đan xen chiều dọc, mà Hiến chế Lumen gentium gọi là "sự kết hiệp với Thiên Chúa", và chiều ngang, "sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại", trong một động lực mạnh mẽ mang tính cánh chung. Hiệp thông là hành trình mà trên đó chúng ta được mời gọi để lớn lên, "cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Ðức Kitô" (Ep 4, 13).
47. Chúng ta đón nhận thời khắc ấy trong Phụng vụ, nơi mà Giáo hội, trên hành trình trần thế của mình, cảm nghiệm sự hiệp thông, nuôi dưỡng và xây dựng nó. Nếu phụng vụ thực sự là "phương tiện nổi bật nhờ đó các tín hữu có thể diễn tả trong cuộc sống của họ, và biểu lộ cho người khác, mầu nhiệm Ðức Kitô và bản chất đích thực của Giáo hội chân chính" (SC 2) thì chính Phụng vụ là điều mà chúng ta phải nhìn để hiểu đời sống hiệp hành của Giáo hội. Trước hết và trên hết, chính nhờ việc chia sẻ hành động phụng vụ, và đặc biệt là việc cử hành Thánh Thể, mà Giáo hội cảm nghiệm được sự hiệp nhất triệt để, được diễn tả trong cùng một kinh nguyện nhưng bằng nhiều ngôn ngữ và nghi thức khác nhau: một điểm chính yếu cơ bản của hiệp hành. Từ quan điểm này, sự đa dạng của các nghi thức trong Giáo hội Công giáo duy nhất là một phúc lành đích thực, cần được bảo vệ và phát huy, như đã được trải nghiệm trong các cử hành Phụng vụ của các Ðại hội Châu lục.
48. Một Ðại hội Thượng Hội đồng không thể được hiểu là đại diện và lập pháp, giống như cơ cấu nghị viện với động lực của nó là tìm kiếm đa số. Trái lại, chúng ta được mời gọi để hiểu Ðại hội Thượng Hội đồng theo một cách tương tự với cộng đoàn phụng vụ. Truyền thống cổ xưa cho chúng ta biết rằng khi cử hành một Thượng Hội đồng, thì luôn bắt đầu với việc cầu xin Chúa Thánh Thần, tiếp đến là tuyên xưng đức tin và kết thúc bằng những quyết định chung nhằm bảo đảm hoặc khôi phục sự hiệp thông trong giáo hội. Trong một Ðại hội Thượng Hội đồng, Ðức Kitô hiện diện và hành động, biến đổi lịch sử và các biến cố hàng ngày, đồng thời ban Thánh Thần để hướng dẫn Giáo hội tìm ra sự đồng thuận trong việc làm thế nào để cùng nhau tiến về Nước Trời và giúp toàn thể nhân loại tiến tới sự hiệp nhất bao quát hơn. Cùng nhau bước đi trong khi lắng nghe Lời Chúa và lắng nghe anh chị em trong việc tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và sự đồng tâm nhất trí, dẫn đến việc tạ ơn Chúa Cha nhờ Chúa Con trong một Thánh Thần duy nhất. Trong một Ðại hội Thượng Hội đồng, những người quy tụ nhân danh Ðức Kitô để lắng nghe Lời Người, lắng nghe nhau, phân định trong sự ngoan ngùy với Thánh Thần, công bố những gì họ đã nghe và nhận ra đó là ánh sáng cho hành trình của Giáo hội.
49. Theo viễn cảnh này, đời sống hiệp hành không phải là một chiến lược để tổ chức Giáo hội, mà là trải nghiệm tìm kiếm một sự hiệp nhất bao gồm sự đa dạng chớ không xóa bỏ nó, bởi vì sự hiệp nhất được đặt nền tảng trên sự kết hợp với Thiên Chúa trong việc tuyên xưng cùng một đức tin. Ðộng lực này sở hữu một sức mạnh thúc đẩy chúng ta không ngừng mở rộng phạm vi hiệp thông, nhưng điều này phải đối diện với những mâu thuẫn, giới hạn và vết thương của lịch sử.
50. Vấn đề ưu tiên hàng đầu nảy sinh từ tiến trình hiệp hành bắt nguồn từ chính điểm này. Trong tính cụ thể của thực tại lịch sử của chúng ta, việc bảo tồn và cổ vũ sự hiệp thông đòi phải thừa nhận tính bất toàn của việc có thể sống hiệp nhất trong đa dạng (x. 1 Cr 12). Lịch sử tạo ra những chia rẽ, gây ra những vết thương cần được chữa lành và đòi hỏi phải vạch ra những lộ trình hòa giải. Trong bối cảnh này, đâu là những mối liên kết cần được củng cố nhân danh Tin Mừng, để vượt qua những chiến hào và hàng rào, và những nơi trú ẩn và bảo vệ nào cần được xây dựng, và để bảo vệ ai? Bộ phận nào không hiệu quả? Khi nào thì luật tiệm tiến có thể tạo ra được lộ trình dẫn đến sự hiệp thông trọn vẹn? Những câu hỏi này có vẻ lý thuyết, nhưng chúng bắt nguồn từ cuộc sống cụ thể hàng ngày của các cộng đồng Kitô hữu được tham vấn trong giai đoạn thứ nhất. Thật vậy, họ quan tâm đến câu hỏi liệu có giới hạn nào đối với sự sẵn lòng chào đón mọi người và các nhóm hay không, làm thế nào để tham gia đối thoại với các nền văn hóa và tôn giáo mà không ảnh hưởng đến bản sắc Kitô hữu, và quyết tâm trở thành tiếng nói của những người bị bỏ ra bên lề và tái khẳng định rằng không ai bị bỏ lại phía sau. Năm phiếu làm việc dành cho ưu tiên này cố gắng nghiên cứu những câu hỏi trên từ năm quan điểm bổ trợ.
B 2. Ðồng trách nhiệm trong Sứ vụ: Làm thế nào chúng ta có thể chia sẻ tốt hơn các ân ban và nhiệm vụ trong việc phục vụ Tin Mừng?
51. "Giáo hội lữ hành tự bản chất là thừa sai" (AG 2). Sứ vụ tạo nên chân trời năng động mà từ đó chúng ta phải nghĩ về Giáo hội hiệp hành, từ đó Giáo hội thúc đẩy hướng tới "sự xuất thần" hệ tại ở việc "ra khỏi chính mình và tìm kiếm điều tốt cho người khác, thậm chí hy sinh mạng sống của mình" (CV 163; xem thêm FT 88). Nói cách khác, sứ vụ cho phép người ta sống lại trải nghiệm của Lễ Hiện Xuống: sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Phêrô và Nhóm Mười Một đứng lên và rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh cho tất cả những người sống ở Giêrusalem (x. Cv 2, 14-36). Ðời sống hiệp hành được cắm rễ trong cùng động lực này. Có nhiều chứng từ mô tả trải nghiệm sống động của giai đoạn thứ nhất bằng những từ ngữ trên, và thậm chí còn nhiều hơn nữa là những chứng từ liên kết tính hiệp hành và sứ vụ một cách không thể tách rời.
52. Trong một Giáo hội tự xác định mình là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại (x. LG 1), diễn từ về truyền giáo tập trung vào tính dễ hiểu của dấu chỉ và hiệu quả của khí cụ, nếu không có nó, bất kỳ tuyên bố nào cũng thiếu độ tin cậy. Sứ vụ không phải là quảng cáo một sản phẩm tôn giáo, mà là xây dựng một cộng đồng trong đó các mối tương quan là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa và do đó, chính đời sống trở thành một lời loan báo. Trong sách Công Vụ Tông Ðồ, ngay sau diễn từ của Thánh Phêrô là trình thuật về đời sống của cộng đoàn sơ khai, trong đó mọi sự trở thành cơ hội để hiệp thông (x. 2, 42-47), làm cho cộng đoàn trở nên hấp dẫn.
53. Trong viễn cảnh này, câu hỏi đầu tiên về sứ vụ liên quan đến những gì mà các thành viên của cộng đoàn Kitô hữu sẵn sàng chia sẻ với nhau, bắt đầu từ tính độc đáo không thể giản lược của mỗi người, nhờ mối tương quan trực tiếp của họ với Ðức Kitô trong Bí tích Rửa tội, và là nơi cư ngụ của Thánh Thần. Ðiều này làm cho sự đóng góp của mỗi người đã chịu phép Rửa trở nên quý giá và không thể thiếu. Một trong những lý do khiến sự ngạc nhiên được ghi nhận trong giai đoạn thứ nhất có liên quan đến khả năng đóng góp này: "Tôi thực sự có thể cống hiến điều gì không?". Ðồng thời, mỗi người được được mời gọi nhìn nhận sự bất toàn của chính mình, nghĩa là ý thức rằng trong sự viên mãn của sứ vụ, mọi người đều cần thiết. Nói cách khác, chính sứ vụ cũng có một chiều kích hiệp hành cấu thành.
54. Vì lý do này, ưu tiên thứ hai được xác định bởi một Giáo hội tự nhận mình là thừa sai và hiệp hành liên quan đến cách thức mà Giáo hội có thể thu hút sự đóng góp của tất cả mọi người, mỗi người với tài năng và vai trò của mình, bằng việc coi trọng sự đa dạng của các đặc sủng và việc hội nhập mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng[8]. Viễn tượng sứ vụ đặt các đoàn sủng và thừa tác vụ trong tầm nhìn của những gì chung, và theo cách này, bảo vệ tính phong phú của chúng, vốn bị tổn hại khi chúng trở thành những đặc quyền hợp pháp hóa các hình thức loại trừ. Một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng có nhiệm vụ tự vấn làm thế nào Giáo hội có thể nhận ra và đánh giá cao sự đóng góp mà mỗi người đã lãnh phép Rửa có thể cống hiến trong sứ vụ, vượt ra khỏi chính mình và cùng tham gia với những người khác vào một điều gì đó lớn lao hơn. "Ðóng góp tích cực vào ích chung của nhân loại" (CA 34) là một thành phần bất khả nhượng của phẩm giá con người, ngay cả trong cộng đoàn Kitô hữu. Sự đóng góp đầu tiên mà mọi người có thể thực hiện là hướng tới việc phân định các dấu chỉ thời đại (x. GS 4), để duy trì ý thức về sứ vụ chung của chúng ta phù hợp với hơi thở của Thánh Thần. Tất cả các quan điểm đều có thể góp phần vào sự phân định này, bắt đầu với quan điểm của người nghèo và những người bị loại trừ: cùng bước đi với họ không chỉ có nghĩa là đáp ứng những nhu cầu và đau khổ của họ, mà còn là tôn trọng vai trò chính của họ và học hỏi từ họ. Ðây là cách để nhận ra phẩm giá bình đẳng của họ, thoát ra khỏi những cạm bẫy của chủ nghĩa phúc lợi và thúc đẩy càng nhiều càng tốt logic của trời mới đất mới mà chúng ta đang tiến tới.
55. Các phiếu làm việc liên quan đến ưu tiên này cố gắng cụ thể hóa câu hỏi cơ bản này liên quan đến các chủ đề như công nhận sự đa dạng của các ơn gọi, đặc sủng và thừa tác vụ, thăng tiến phẩm giá phép rửa của phụ nữ, vai trò của thừa tác vụ giáo sĩ và đặc biệt Thừa tác vụ của Giám mục trong Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng.
B 3. Tham gia, quản trị và quyền bính: Những tiến trình, cơ cấu và định chế nào có trong một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng?
56. "'Hiệp thông' và 'sứ vụ' có nguy cơ vẫn còn là những thuật ngữ hơi trừu tượng, nếu chúng ta không nuôi dưỡng một tập quán mang tính giáo hội diễn tả thực tại cụ thể của tính hiệp hành ở mỗi giai đoạn của hành trình và hoạt động của chúng ta, khuyến khích sự tham gia thực sự của mỗi người và tất cả mọi người"[9]. Những lời này của Ðức Thánh Cha giúp chúng ta đặt sự tham gia trong mối tương quan với hai thuật ngữ kia. Sự tham gia bổ sung tính đông đúc về nhân sự cho tính chất tính cụ thể về mặt thủ tục. Nó bày tỏ mối quan tâm đến sự phát triển của con người, nghĩa là nhân bản hóa các mối tương quan tại tâm điểm của dự án hiệp thông và dấn thân sứ vụ. Nó bảo tồn nét độc đáo trên khuôn mặt của mỗi người, việc thúc giục quá trình chuyển đổi sang cái "chúng ta" không sáp nhập cái "tôi" vào sự ẩn danh của một tập thể mơ hồ. Nó tránh rơi vào tính trừu tượng của các quyền hoặc biến con người thành những công cụ phục vụ cho hoạt động của tổ chức. Sự tham gia về cơ bản là một biểu hiện của tính sáng tạo, một cách thức nuôi dưỡng các mối tương quan hiếu khách, chào đón và vì hạnh phúc của con người, là những điều nằm ở trung tâm của sứ vụ và sự hiệp thông.
57. Từ tầm nhìn về sự tham gia toàn diện được trình bày ở trên, xuất hiện ưu tiên thứ ba cũng được đề cập tại các cuộc họp ở giai đoạn châu lục: vấn đề về quyền bính, ý nghĩa và cách thức thực thi quyền bính trong một Giáo hội hiệp hành. Một cách cụ thể, liệu quyền bính phát sinh như một dạng quyền lực bắt nguồn từ các mô hình do thế giới đưa ra, hay nó bắt nguồn từ sự phục vụ? "Giữa anh em thì không được như vậy" (Mt 20, 26; x. Mc 10, 43), Chúa nói như thế, sau khi rửa chân cho các môn đệ, Người đã khuyên nhủ họ: "Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" (Ga 13,15). Theo nguồn gốc, thuật ngữ "quyền bính" chỉ khả năng giúp người khác phát triển, và do đó, quyền bính phục vụ cho thiên chức riêng của mỗi người, hỗ trợ sự sáng tạo chứ không phải là một hình thức kiểm soát ngăn chặn nó, và phục vụ cho sự phát triển tự do cá nhân chứ không phải là một sự ràng buộc hạn chế nó. Liên kết với câu hỏi này là câu hỏi thứ hai, mang đậm dấu ấn quan tâm đến tính cụ thể và tính liên tục theo thời gian: làm thế nào chúng ta có thể thấm nhuần các cơ cấu và thể chế của mình với động lực của Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng?
58. Từ trọng tâm này dẫn đến một chủ đề khác, cũng cụ thể không kém, nhằm mục đích chính xác vào việc duy trì động lực tham gia trở nên bền vững. Ðó là đào tạo, một chủ đề xuất hiện trên tất cả các tài liệu của giai đoạn thứ nhất. Như đã được nhấn mạnh nhiều lần trong các báo cáo của các Ðại hội Châu lục và trước đó là các báo cáo của các Giáo hội địa phương, chỉ riêng các thể chế và cơ cấu thôi thì không đủ để làm cho Giáo hội có tính hiệp hành. Cần có một văn hóa và linh đạo hiệp hành được linh hoạt bởi ước muốn hoán cải và được duy trì bởi sự đào tạo thích hợp. Nhu cầu đào tạo không giới hạn ở việc cập nhật nội dung, nhưng có chiều kích toàn diện, ảnh hưởng đến tất cả các khả năng và khuynh hướng của con người, bao gồm định hướng sứ vụ, khả năng liên kết và xây dựng cộng đoàn, sẵn sàng lắng nghe tâm linh và quen thuộc với sự phân định cá nhân và cộng đoàn. Cũng cần phải kiên nhẫn, kiên trì, tự tin và tự do nói ra sự thật (parrhesia).
59. Việc đào tạo là phương tiện không thể thiếu để biến phương thức hiệp hành thành một mô hình mục vụ cho đời sống và hoạt động của Giáo hội. Chúng ta cần một sự đào tạo toàn diện, từ lúc khởi đầu và tiếp tục lâu dài, cho mọi thành phần Dân Chúa. Không một tín hữu đã lãnh nhận phép Rửa nào có thể cảm thấy xa lạ với cam kết này, và do đó, cần phải đưa ra những đề xuất thích hợp cho việc đào tạo theo phương thức hiệp hành đến với tất cả các tín hữu. Ðặc biệt, càng được kêu gọi phục vụ Giáo hội, người ta càng phải cảm thấy sự cấp bách của việc đào tạo: các Giám mục, Linh mục, Phó tế, Tu sĩ nam nữ và tất cả những ai thi hành thừa tác vụ cần được đào tạo để đổi mới cách thức thi hành quyền bính và tiến trình đưa ra quyết định theo phương thức hiệp hành, đồng thời học biết làm thế nào để đồng hành với sự phân định và đối thoại cộng đoàn trong Thánh Thần. Các ứng viên cho Thừa tác vụ giáo sĩ phải được đào tạo theo phong cách và não trạng hiệp hành. Việc cổ vũ văn hóa hiệp hành bao hàm việc đổi mới chương trình giảng dạy hiện nay của các chủng viện và việc đào tạo các giảng viên và giáo sư thần học để có một định hướng rõ ràng và dứt khoát hơn đối với việc đào tạo cho một đời sống hiệp thông, sứ vụ và tham gia. Việc đào tạo để có một linh đạo hiệp hành đích thực hơn chính là trọng tâm của việc canh tân Giáo hội.
60. Nhiều đóng góp nhấn mạnh sự cần thiết phải có một nỗ lực tương tự để đổi mới ngôn ngữ được Giáo hội sử dụng trong Phụng vụ, giảng thuyết, giáo lý, nghệ thuật thánh, cũng như trong mọi hình thức truyền thông dành cho các Tín hữu và công chúng rộng lớn hơn, kể cả thông qua các hình thức truyền thông mới hoặc truyền thống. Không giảm bớt hoặc hạ thấp chiều sâu của mầu nhiệm mà Giáo hội công bố hay sự phong phú của truyền thống, trái lại, việc đổi mới ngôn ngữ phải nhằm mục đích làm cho những sự phong phú này trở nên dễ tiếp cận và hấp dẫn đối với con người của thời đại chúng ta, chứ không phải là một rào cản khiến họ tránh xa. Cảm hứng về sự mới mẻ của ngôn ngữ Tin Mừng, khả năng hội nhập văn hóa mà lịch sử Giáo hội thể hiện, và những trải nghiệm đầy hứa hẹn đã và đang diễn ra, ngay cả trong môi trường kỹ thuật số, mời gọi chúng ta tự tin và quyết tâm theo đuổi nhiệm vụ vô cùng quan trọng này đối với hiệu quả của việc loan báo Tin Mừng, vốn là mục tiêu mà một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng hướng tới.
Roma, ngày 29 tháng 5 năm 2023
Lễ nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo hội
* * *
[1] Do đó, để cho ngắn gọn và trừ khi được quy định khác, các cụm từ "Ðại hội" và "Ðại hội Thượng Hội đồng" được dùng trong Tài liệu này là đề cập đến phiên họp vào tháng 10 năm 2023.
[2] Ðức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục, 17.10.2015 (x. PD 15), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-cua-dtc-phanxico-dip-ky-niem-50-nam-thiet-lap-thuong-hoi-dong-giam-muc-44870
[3] Cụm từ "Giáo hội địa phương - local Church" ở đây chỉ điều mà Bộ giáo luật gọi là "Giáo hội cá biệt - particular Church".
[4] Phần B sẽ đưa ra những lý do thay đổi thứ tự liên quan đến phụ đề của Thượng hội đồng. Xem số 44 của tài liệu này.
[5] Ðức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục về con đường hiệp hành, ngày 9 tháng 10 năm 2021, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-khai-mac-thuong-hoi-dong-giam-muc-the-gioi-xvi-cua-duc-giao-hoang-phanxico-44212
[6] Ðức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục, 17.10.2015, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-cua-dtc-phanxico-dip-ky-niem-50-nam-thiet-lap-thuong-hoi-dong-giam-muc-44870
[7] Ví dụ, tại 128, Tài liệu Cuối cùng nêu rõ: "... chỉ có các cấu trúc là không đủ, nếu các mối tương quan đích thực không được phát triển bên trong các cấu trúc; chính chất lượng của những mối tương quan này mới loan báo Tin mừng".
[8] X. Bộ Giáo lý Ðức tin, Thư Iuvenescit Ecclesia, 15.05.2016, 13-18.
[9] Ðức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục về con đường hiệp hành, ngày 9 tháng 10 năm 2021, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-khai-mac-thuong-hoi-dong-giam-muc-the-gioi-xvi-cua-duc-giao-hoang-phanxico-44212
Các Phiếu Làm Việc cho Ðại hội Thượng Hội đồng Khóa họp thứ nhất Tháng 10 năm 2023
(Nguồn: Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam)