Tông Thư Totum amoris est

của Ðức Thánh Cha Phanxicô

nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất

của Thánh Phanxicô đệ Salê

 

Tông Thư Totum amoris est của Ðức Thánh Cha Phanxicô.

Vũ Văn An chuyển dịch Việt ngữ

Vatican (VietCatholic News 30-12-2022) - Như các nguồn Công Giáo đã loan tin, ngày 28 tháng 12 năm 2022, nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của Thánh Phanxicô đệ Salê, Ðức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban hành tông thư Totum amoris est (Tất cả liên quan đến Tình yêu). Sau đây là bản dịch Việt ngữ toàn văn Tông thư dựa vào bản tiếng Anh do Tòa Thánh phổ biến:

 

"Tất cả liên quan đến tình yêu"[1]. Những lời này tóm tắt di sản thiêng liêng của Thánh Phanxicô đệ Salê để lại cho chúng ta, người đã qua đời cách đây bốn thế kỷ, vào ngày 28 tháng 12 năm 1622, tại Lyon. Vừa ngoài năm mươi tuổi, ngài đã là Giám mục và Hoàng tử Geneva "lưu vong" trong khoảng hai thập niên, và đã đến Lyon trong sứ mệnh ngoại giao cuối cùng của mình. Công tước xứ Savoy đã yêu cầu ngài tháp tùng Ðức Hồng Y Maurice của Savoy đến Avignon, nơi họ bày tỏ lòng kính trọng với vị vua trẻ Louis XIII, sau đó trở về Paris qua thung lũng Rhône sau một chiến dịch quân sự thắng lợi ở miền nam nước Pháp. Kiệt sức và sức khỏe kém, Thánh Phanxicô đã thực hiện cuộc hành trình với tinh thần phục vụ thuần túy. "Nếu tôi thực hiện chuyến đi này không hữu ích nhất cho họ, thì chắc chắn tôi sẽ có nhiều lý do chính đáng để thoái thác. Tuy nhiên, nếu tôi có thể giúp được gì, dù sống hay chết, tôi sẽ không từ chối, nhưng sẽ đi hoặc để mình bị kéo đến đó"[2]. Ðó là tính cách của ngài. Khi đến Lyon, ngài ở tại tu viện của các Nữ tu Thăm Viếng, trong chỗ ở của người làm vườn, để không trở thành gánh nặng và được tự do gặp gỡ bất cứ ai muốn.

Từ lâu đã chán nản với "vinh quang phù du của triều đình",[3] ngài đã dành những ngày cuối cùng đó để thi hành thừa tác vụ mục tử của mình giữa rất nhiều bổn phận: giải tội, trò chuyện, hội nghị, bài giảng, và tất nhiên, cả những lá thư bày tỏ tình bạn thiêng liêng. Lý do sâu xa nhất cho một lối sống như vậy, hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa, đã trở nên rõ ràng hơn với ngài theo thời gian. Ngài giải thích điều đó một cách đơn giản và chính xác trong Luận thuyết về Tình yêu Thiên Chúa nổi tiếng của ngài: "Ngay khi nghĩ đến Thiên Chúa, người ta lập tức cảm thấy một cảm xúc vui sướng nào đó trong lòng, điều này chứng tỏ Thiên Chúa là Thiên Chúa của tâm hồn con người"[4]. Những lời này là sự tổng hợp hoàn hảo tư tưởng của ngài. Kinh nghiệm về Thiên Chúa nội tại đối với trái tim con người. Khác xa với một cấu trúc tinh thần, nó là một sự thừa nhận, một cách đầy kính sợ và biết ơn, sự mac khải của Thiên Chúa. Trong trái tim và qua trái tim, diễn ra một quá trình tinh tế, mãnh liệt và thống nhất, trong đó chúng ta nhận biết Thiên Chúa, đồng thời biết chính chúng ta, nguồn gốc và chiều sâu của chính chúng ta, và sự hoàn thành của chúng ta trong ơn gọi yêu thương. Chúng ta khám phá ra niềm tin không phải là một cảm xúc mù quáng, mà chủ yếu là một thái độ của trái tim, theo đó chúng ta tin tưởng vào một sự thật lôi cuốn ý thức chúng ta như một "cảm xúc ngọt ngào" và như ngài thường nói, đánh thức trong ta một lòng nhân từ lâu dài đối với tất cả các tạo vật.

Dưới ánh sáng này, chúng ta có thể hiểu tại sao Thánh Phanxicô đệ Salê cảm thấy không có nơi nào tốt hơn để tìm thấy Thiên Chúa và giúp người khác tìm thấy Người, hơn là trong trái tim của những người nam nữ vào thời của ngài. Ngài học được điều này, từ những năm đầu tiên của ngài, bằng cách phát triển một cái nhìn sâu sắc vào chính bản thân ngài và trái tim con người.

Ý thức sâu sắc của Thánh Phanxicô về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa các biến cố của cuộc sống hàng ngày được biểu lộ rõ ràng trong những ngày cuối cùng ở Lyon. Ngài chia sẻ với các Nữ tu Dòng Thăm Viếng về việc ngài mong muốn được họ nhớ đến như thế nào: "Cha đã nói mọi điều chỉ trong hai chữ, khi cha bảo các con đừng từ chối điều gì và đừng mong muốn điều gì; cha không còn gì để nói với các con nữa"[5]. Ðây không phải là chủ nghĩa duy ý chí đơn thuần, "một ý chí thiếu khiêm nhường" [6], một cám dỗ tinh vi trên con đường nên thánh khiến nhầm lẫn nó với sự tự biện minh, tôn thờ ý chí con người và quyền lực của nó, và dẫn đến "việc coi mình là trung tâm" và sự tự mãn duy ưu tú, mất hết tình yêu đích thực"[7]. Càng không phải là vấn đề của chủ nghĩa tĩnh tịch (quietism)thuần túy, một sự từ bỏ thụ động và vô cảm đối với một học thuyết bị lột hết thịt xương và lịch sử[8]. Thay vào đó, nó là kết quả của việc ngài chiêm ngưỡng cuộc đời của Chúa Con nhập thể. Vào ngày 26 tháng 12, thánh nhân đã nói với các nữ tu từ trung tâm của mầu nhiệm Giáng Sinh: "Các con có thấy hài nhi Giêsu trong máng cỏ không? Người chấp nhận tất cả những khó chịu của mùa đó, cái lạnh buốt giá và mọi điều được Chúa Cha cho phép xảy ra với Người. Người không từ chối những lời an ủi nhỏ mà Mẹ Người dành cho Người; chúng ta không được nói cho biết Người từng với người lên để bú mẹ, nhưng đã để mọi sự cho mẹ chăm sóc và quan tâm. Cũng vậy, bản thân chúng ta không nên ước muốn hay từ chối bất cứ điều gì, nhưng hãy chấp nhận tất cả những gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta, cái lạnh khắc nghiệt và những khó chịu của mùa màng"[9]. Chúng ta rất có ấn tượng trước việc Thánh Phanxicô nhận ra tầm quan trọng của việc quan tâm đến chiều kích con người. Tại ngôi trường nhập thể, ngài đã học cách giải thích lịch sử và tiếp cận cuộc sống với sự tự tin và tín thác.

Tiêu chuẩn của tình yêu

Bằng kinh nghiệm, Thánh Phanxicô đã nhận ra rằng ước muốn là gốc rễ của mọi đời sống thiêng liêng đích thực, nhưng cũng là nguyên nhân làm suy đồi đời sống này. Rút ra một cách phong phú từ truyền thống tâm linh có trước mình, ngài nhận ra tầm quan trọng của việc không ngừng thử thách ham muốn thông qua việc thực hiện sự biện phân. Ngài đã tìm ra tiêu chuẩn cuối cùng cho việc đánh giá này trong tình yêu. Trong hội nghị cuối cùng ở Lyon, vào ngày lễ Thánh Stêphanô, hai ngày trước khi qua đời, ngài nói: "Chính tình yêu đã mang lại sự hoàn hảo cho các việc làm của chúng ta. Cha sẽ nói với các con nhiều hơn nữa. Lấy thí dụ một người chịu tử đạo vì Chúa với một lạng tình yêu; người đó rất xứng đáng, vì họ không thể cho gì lớn hơn mạng sống của mình. Tuy nhiên, một người khác chỉ bị trầy xước với hai lạng tình yêu sẽ có nhiều công đức hơn, bởi vì chính đức ái và tình yêu mang lại giá trị cho công việc của chúng ta"[10].

Với chủ nghĩa hiện thực đáng lưu ý, Thánh Phanxicô tiếp tục nói về mối liên hệ phức tạp giữa chiêm niệm và hành động: "Các con biết, hoặc các con nên biết, chiêm niệm tự nó tốt hơn hoạt động và cuộc sống năng động; tuy nhiên, nếu một người tìm thấy sự kết hợp nhiều hơn [với Thiên Chúa] trong cuộc sống năng động, thì điều đó tốt hơn. Nếu một Chị trong bếp cầm chảo trên lửa có tình yêu và lòng bác ái lớn hơn một Chị khác, ngọn lửa vật chất đó sẽ không kìm hãm chị mà ngược lại giúp chị trở nên đẹp lòng Chúa hơn. Ðiều thường xảy ra là con người được kết hiệp với Thiên Chúa trong hoạt động cũng như trong cô tịch; cuối cùng, nó luôn quay trở lại câu hỏi tình yêu vĩ đại nhất được tìm thấy ở đâu"[11]. Do đó, đây mới là điều thực sự quan trọng, quan trọng hơn bất cứ loại cứng ngắc vô ích hay chỉ loay hoay với bản thân mình: tiếp tục hỏi xem trong mọi lúc, trong mọi quyết định, trong mọi tình huống của cuộc sống, ta tìm thấy tình yêu lớn nhất ở đâu. Không phải ngẫu nhiên mà Thánh Gioan Phaolô II gọi Thánh Phanxicô đệ Salê là "Tiến sĩ của Tình yêu Thần linh"[12], không những chỉ vì ngài đã viết một Luận thuyết nặng ký về chủ đề đó, nhưng trước hết và trên hết vì ngài là chứng nhân xuất sắc cho tình yêu đó. Các trước tác của ngài không phải là lý thuyết được pha chế sau bàn giấy, khác xa với mối quan tâm của những người bình thường. Những lời dạy của ngài là kết quả của sự nhạy cảm tuyệt vời đối với kinh nghiệm. Ngài chỉ chuyển dịch thành giáo lý những gì, được Thánh Thần soi sáng, mà ngài đã kinh nghiệm và học được trong quá trình hoạt động mục vụ có tính đáng lưu ý của ngài. Chúng ta tìm thấy điều đó được tóm tắt trong Lời nói đầu của Luận thuyết về Tình yêu Thiên Chúa: "Trong Giáo hội Thánh thiện, mọi sự đều liên quan đến tình yêu, sống trong tình yêu, được thực hiện vì tình yêu và xuất phát từ tình yêu"[13].

Giáo dục sớm: cuộc phiêu lưu để nhận biết chính mình trong Thiên Chúa

Thánh Phanxicô sinh ngày 21 tháng 8 năm 1567 tại Lâu đài Salê, gần Thorens, con trai của Francois de Nouvelles, Lãnh chúa của Boisy, và Francoise de Sionnaz. "Cuộc đời của ngài kéo dài qua hai thế kỷ, mười sáu và mười bảy, và ngài hiện thân các giáo huấn và thành tựu văn hóa tốt nhất của thế kỷ lúc đó sắp kết thúc, dung hòa sự kế thừa của chủ nghĩa nhân bản với sự phấn đấu cho Thể Tuyệt đối phù hợp với các trào lưu của chủ nghĩa huyền bí"[14].

Sau nền giáo dục sớm, đầu tiên tại Trung học La Roche-sur-Foron và sau đó tại trung học Annecy, Thánh Phanxicô đã đến Paris, tại Ðại học Dòng Tên mới thành lập ở Clermont. Tại thủ đô của Vương quốc Pháp, bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh tôn giáo, ngài đã trải qua hai cuộc khủng hoảng nội tâm liên tiếp sẽ để lại dấu ấn lâu dài trong cuộc đời ngài. Một lời cầu nguyện tha thiết được dâng lên trong Nhà thờ Saint-Étienne-des-Grès, trước Ðức Mẹ Ðen của Paris, sẽ thắp lên, giữa bóng tối của trái tim ngài, một ngọn lửa sẽ tiếp tục cháy trong ngài và cung cấp chìa khóa để hiểu chính kinh nghiệm của ngài và của người khác. "Lạy Chúa, bất cứ điều gì có thể xảy ra, Ngài là Ðấng nắm giữ mọi sự trong tay Ngài và đường lối của Ngài đều là công lý và sự thật,... Lạy Chúa, con sẽ yêu mến Ngài,... Con sẽ yêu mến Ngài ở đây, ôi Thiên Chúa của con; Con sẽ luôn hy vọng vào lòng thương xót của Chúa và luôn lặp lại lời ca tụng Chúa... Ôi lạy Chúa Giêsu, Chúa sẽ luôn là niềm hy vọng và là ơn cứu độ của con trên đất người sống"[15].

Ðạt được bình an, Thánh Phanxicô đã ghi lại những lời đó trong nhật ký của mình. Kinh nghiệm về cuộc khủng hoảng này, với sự lo lắng và bất ổn của nó, sẽ tiếp tục soi sáng cho ngài, và cung cấp cho ngài một cách tiếp cận độc đáo mầu nhiệm về mối liên hệ của Thiên Chúa với nhân loại. Nó giúp ngài có cái nhìn sâu sắc về cuộc sống của người khác và nhận ra, với một tinh thần biện phân tinh tế, thái độ nội tâm kết hợp suy nghĩ và cảm xúc, lý trí và tình cảm, mà ngài gọi là "Chúa của trái tim con người". Kết quả là, Thánh Phanxicô không bao giờ có nguy cơ gán tầm quan trọng về mặt lý thuyết cho kinh nghiệm bản thân của chính mình và tuyệt đối hóa nó. Thay vào đó, ngài đã học được một điều đáng lưu ý, hoa trái của ân sủng: khả năng biện phân, nơi Thiên Chúa, kinh nghiệm sống của chính ngài và của những người khác.

Mặc dù ngài chưa bao giờ tuyên bố sẽ phát triển một hệ thống thần học như vậy, nhưng suy tư của ngài về đời sống tâm linh đã chứng tỏ có tầm quan trọng thần học nổi bật, vì nó hiện thân hai chiều kích thiết yếu của bất cứ nền thần học chân chính nào. Ðầu tiên là chính đời sống thiêng liêng, vì chính trong lời cầu nguyện khiêm tốn và kiên trì, mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần, mà chúng ta cố gắng hiểu và truyền đạt lời Thiên Chúa; các nhà thần học phát xuất từ lò luyện cầu nguyện. Thứ hai là đời sống của Giáo hội, khả năng suy nghĩ trong Giáo hội và với Giáo hội. Bản thân thần học cảm nhận được những tác động của nền văn hóa duy cá nhân của chúng ta, thế nhưng các nhà thần học Kitô giáo được kêu gọi thực hiện công việc của mình trong khi dìm mình trong đời sống cộng đoàn, bẻ tấm bánh lời Chúa trong đó[16]. Tư tưởng của Thánh Phanxicô đệ Salê, mặc dù ở bên lề các cuộc tranh luận học thuật ở thời đại ngài và tôn trọng chúng, được đặc trưng bởi hai chiều kích thiết yếu này.

Sự khám phá ra một thế giới mới

Sau khi hoàn thành khóa học về các môn nhân văn, Thánh Phanxicô tiếp tục học luật tại Ðại học Padua. Khi trở về Annecy, ngài đã quyết định hướng đi của đời ngài, bất chấp sự phản đối từ phía cha ngài. Thụ phong linh mục ngày 18-12-1593, đến đầu tháng 9 năm sau, theo yêu cầu của Ðức cha Claude de Granier, ngài được gọi thi hành sứ vụ khó khăn tại Le Chablais, một lãnh địa thuộc giáo phận Annecy. Mặc dù theo giáo phái Calvin, do một mạng lưới chiến tranh và hiệp ước hòa bình phức tạp, Le Chablais một lần nữa lại nằm dưới sự kiểm soát của Công quốc Savoy. Ðây là những năm căng thẳng và thú vị, khi Thánh Phanxicô khám phá ra năng khiếu của mình như một người hòa giải và một người đối thoại, cũng như một sự không khoan nhượng nào đó mà sau này ngài sẽ thừa nhận. Ngài cũng sáng nghĩ ra một số thực hành mục vụ táo bạo và độc đáo, chẳng hạn như các tờ yết thị (affiches) nổi tiếng được dán ở khắp mọi nơi và thậm chí luồn qua cửa nhà.

Năm 1602, Thánh Phanxicô trở lại Paris, được giao nhiệm vụ theo đuổi một sứ mệnh ngoại giao nhạy cảm thay mặt Giám mục de Granier theo chỉ đạo đặc biệt của Tòa thánh, tiếp theo sau một sự thay đổi khác trong bối cảnh chính trị và tôn giáo của lãnh thổ Giáo phận Geneva. Bất chấp ý định tốt của Vua Pháp, sứ mệnh đã thất bại. Ngài viết cho Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII, "Sau chín tháng, con buộc phải tính toán lại các bước của mình, hầu như chẳng đạt được gì cả"[17]. Thế nhưng, sứ vụ đó đã làm phong phú một cách bất ngờ cho ngài và cho Giáo hội xét về khía cạnh nhân bản, văn hóa và tôn giáo. Trong bất cứ thời gian rảnh rỗi nào mà các cuộc đàm phán ngoại giao của ngài cho phép, Thánh Phanxicô đã thuyết giảng trước sự chứng kiến của Vua Pháp và triều đình của ông. Ngài đã tạo được những tình bạn quan trọng và trên hết, ngài hoàn toàn đắm mình trong sự nở rộ về văn hóa và tinh thần phi thường của thủ đô hiện đại của Vương quốc.

Ở đó mọi sự đều lên men liên tục. Thánh Phanxicô có ấn tượng và suy nghĩ trước các vấn đề lớn đang nổi lên trên thế giới, bởi những cách mới lạ chúng được đề cập, bởi mối quan tâm mới và đáng lưu ý về tâm linh và những câu hỏi chưa từng có do nó đặt ra. Nói một cách dễ hiểu, ngài cảm nhận được một "sự thay đổi mang tính thời đại" đích thực đòi hỏi một phản ứng ẩn dưới ngôn ngữ cả cũ lẫn mới. Ðây chắc chắn không phải là lần đầu tiên ngài gặp các cá nhân Kitô hữu nhiệt thành, nhưng bây giờ mọi sự đã ra khác. Paris không còn là thành phố bị tàn phá bởi những cuộc chiến tranh tôn giáo mà ngài từng biết trong những năm đi học, hay bởi những xung đột gay gắt mà ngài đã thấy ở Chablais. Thay vào đó, ngài gặp một điều bất ngờ: một cơn lũ "các thánh, các thánh đích thực, rất đông và ở khắp mọi nơi"[18]. Có những người đàn ông và đàn bà thuộc lãnh vực văn hóa, các giáo sư của Sorbonne, các thẩm quyền dân sự, các hoàng tử và công chúa, người hầu và người giúp việc, nam và nữ tu sĩ. Cả một thế giới đang khao khát Thiên Chúa theo nhiều cách khác nhau.

Gặp gỡ những người đó và những câu hỏi của họ là một trong những sự kiện quan trọng và may mắn nhất trong cuộc đời ngài. Những ngày dường như vô ích và không hiệu quả đã trở thành một trường học vô song để giải thích tinh thần của thời đại mà không cần chạy theo nó. Thánh Phanxicô, một nhà tranh luận khéo léo và không biết mệt mỏi, đã được ân sủng biến đổi thành một người quan sát sâu sắc về thời đại của mình và một vị linh hướng phi thường của các linh hồn. Hoạt động mục vụ của ngài, những tác phẩm vĩ đại của ngài - Dẫn nhập vào Ðời sống Ðạo dức và Luận thuyết về Tình yêu Thiên Chúa- và hàng ngàn bức thư về tình bạn thiêng liêng mà ngài đã viết cho các tu viện và đan viện, cho các tu sĩ và nữ tu, cho các triều thần và dân thường, không kể cuộc gặp gỡ của ngài với Jane Frances de Chantal và việc thành lập Dòng Thăm Viếng vào năm 1610: không điều gì trong số này có thể hình dung được nếu không có bước ngoặt nội tâm đó. Do đó, Tin Mừng và văn hóa đã tìm thấy nơi ngài một sự tổng hợp hữu hiệu, dẫn đến sự phát triển một phương pháp mà một khi nó đã hình thành, sẽ gặt hái được một vụ mùa bội thu và lâu dài.

Trong một lá thư đầu tiên về linh hướng và tình bạn, gửi cho một cộng đoàn tu trì mà ngài đã viếng thăm ở Paris, Thánh Phanxicô đã nói một cách khá khiêm tốn về "phương pháp của ngài", một phương pháp khác với những phương pháp khác và nhằm mục đích cải cách thực sự. Ðó là một phương pháp từ bỏ mọi sự khắc nghiệt và tôn trọng hoàn toàn phẩm giá và hồng phúc của một linh hồn đạo đức, bất kể những điểm yếu của nó. Ngài viết: "Tôi tự hỏi liệu có thể có một khó khăn khác liên quan đến cải cách của các bạn hay không: có lẽ những người áp đặt nó lên các bạn đã chữa vết thương một cách quá khắc nghiệt... Tôi đánh giá cao phương pháp của họ, mặc dù đó không phải là điều mà tôi có thói quen sử dụng, đặc biệt là đối với những linh hồn cao quý và được tu luyện như linh hồn của các bạn. Tôi tin rằng tốt hơn hết là chỉ ra căn bệnh và đặt con dao mổ vào tay họ, để họ tự thực hiện việc mổ cần thiết. Tuy nhiên, đừng vì lý do này mà bỏ qua việc cải cách mà các bạn đang cần"[19]. Những lời này cho thấy cái nhìn sâu sắc đã làm cho chủ nghĩa lạc quan Phanxicô trở nên nổi tiếng và để lại dấu ấn lâu dài trong lịch sử linh đạo qua sự nở rộ sau này, chẳng hạn như trường hợp của Thánh Gioan Bosco khoảng hai thế kỷ sau.

Khi trở về Annecy, Thánh Phanxicô được tấn phong giám mục vào ngày 8 tháng 12 cùng năm 1602. Ảnh hưởng của thừa tác vụ giám mục của ngài đối với châu Âu vào thời của ngài và trong nhiều thế kỷ sau đó vô cùng lớn lao. "Ngài là một tông đồ, nhà thuyết giáo, nhà văn, một người hành động và cầu nguyện, tận tụy thực hiện những lý tưởng của Công đồng Trent. Tham gia vào các cuộc tranh cãi và đối thoại với những người Thệ phản, ngài ngày càng nhận ra, cùng với nhu cầu thảo luận thần học, tính hiệu năng của các mối liên hệ bản thân và đức ái. Ngài được giao nhiệm vụ ngoại giao ở châu Âu và với các nhiệm vụ trung gian và hòa giải trong xã hội"[20]. Trên hết, Thánh Phanxicô là người giải thích những thay đổi mang tính thời đại và là người hướng dẫn tinh thần trong thời đại khát khao Thiên Chúa một cách mới mẻ.

Bác ái làm tất cả vì con cái mình

Giữa năm 1620 và 1621, khi sắp qua đời, Thánh Phanxicô đã viết cho một trong những linh mục của ngài một lá thư làm sáng tỏ quan điểm của ngài về thời đại mà ngài đã sống. Ngài khuyến khích ý của vị này muốn sáng tác những tác phẩm mới để đáp ứng các vấn đề mới, và cho thấy ngài nhận ra sự cần thiết của những tác phẩm như vậy. "Tôi phải nói với cha rằng khi tôi nhận thức rõ hơn mỗi ngày về những điều hài hước của thế giới, tôi càng khao khát tha thiết rằng Thiên Chúa, vì lòng nhân từ của Người, sẽ truyền cảm hứng cho một trong những tôi tớ của Người viết theo cách phù hợp với sở thích của thế giới nghèo khổ này"[21]. Ngài đưa ra quan điểm của riêng mình về thời đại làm lý do: "Thế giới đang trở nên mong manh đến mức, trong một thời gian ngắn nữa, sẽ không còn ai dám đụng tới nó ngoại trừ với đôi găng tay nhung, hoặc băng bó vết thương cho nó ngoại trừ bằng băng tẩm nước hoa; tuy nhiên, điều đó có quan trọng gì nếu không phải chỉ là những người đàn ông và đàn bà được chữa lành và cuối cùng được cứu vớt? Ðức ái, nữ hoàng của chúng ta, làm mọi điều cho con cái của mình"[22]. Ðây không phải là lời nói nhàm chán ngoan đạo hay biểu thức cam chịu khi đối diện với thất bại. Thay vào đó, đây là một việc nhận ra rằng thế giới đang thay đổi và là dấu hiệu của một ý thức hoàn toàn mang tính tin mừng về nhu cầu đáp ứng những thay đổi đó.

Thánh Phanxicô đã sớm nhận ra điều đó và ngài đã bày tỏ điều đó trong Lời nói đầu cuốn Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa: "Tôi đã xem xét lối suy nghĩ của con người thời đại này, và tôi không thể làm khác được: điều rất quan trọng là phải ghi nhớ thời đại khi người ta viết"[23]. Rồi, trong khi xin độc giả lượng thứ, ngài tiếp tục viết: "Nếu bạn thấy văn phong hơi khác so với văn phong mà tôi đã sử dụng trong Phần giới thiệu, và cả hai văn phong này đều khác với văn phong của cuốn Bảo vệ Thập giá, thì bạn nên biết rằng nhiều điều đã học được và bị lãng quên trong mười chín năm. Ngôn ngữ chiến tranh khác với ngôn ngữ hòa bình, và chúng ta nói cách này với các tập viên trẻ và nói cách khác với các anh em lớn tuổi hơn"[24]. Thế nhưng, để đáp ứng với thời gian thay đổi, người ta nên bắt đầu từ đâu, nếu không phải từ lịch sử đối xử của Thiên Chúa với nhân loại? Ðây là mục đích cuối cùng của cuốn Khảo luận: "Ý định của tôi chỉ là trình bày, một cách đơn giản và thẳng thắn, không giả tạo và chắc chắn không có màu sắc giả tạo, lịch sử ra đời, tiến triển, suy tàn, vận hành, tính chất, ưu điểm và phẩm chất siêu phàm của tình yêu Thiên Chúa"[25].

Các yêu cầu của một sự thay đổi mang tính thời đại

Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của ngài, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về di sản của Thánh Phanxicô đệ Salê để lại cho thời đại chúng ta. Tôi thấy sự linh hoạt và tầm nhìn xa trông rộng của ngài có nhiều điều để nói với chúng ta. Một phần nhờ ơn Thiên Chúa và một phần nhờ tính cách của chính ngài, nhưng cũng nhờ sự trau dồi kinh nghiệm sống bền bỉ của ngài, Thánh Phanxicô nhận thức rõ ràng thời thế đang thay đổi. Tự sức riêng của ngài, có lẽ ngài không bao giờ tưởng tượng được rằng những thay đổi đó lại là một cơ hội tuyệt vời cho việc rao giảng Tin Mừng. Lời Chúa mà ngài yêu mến từ thuở còn trẻ giờ đây đã mở ra trước mắt ngài nhiều chân trời mới và bất ngờ trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng.

Nhiệm vụ tương tự đang chờ đợi chúng ta trong thời đại thay đổi mang tính thời đại này của chính chúng ta. Chúng ta được thách thức trở thành một Giáo hội hướng ngoại và thoát khỏi mọi tính chất thế tục, ngay cả khi chúng ta sống trong thế giới này, chia sẻ cuộc sống của mọi người và hành trình với họ trong sự lắng nghe và chấp nhận một cách chăm chú[26]. Ðó là điều mà Thánh Phanxicô đệ Salê đã làm khi nhận ra các biến cố trong thời đại của ngài với sự trợ giúp của ân sủng Thiên Chúa. Ngày nay, ngài kêu gọi chúng ta hãy gạt sang một bên mối quan tâm thái quá cho bản thân, cho các cơ cấu của chúng ta và cho những gì xã hội nghĩ về chúng ta, và thay vào đó hãy quan tâm đến những nhu cầu và mong đợi thiêng liêng thực sự của người dân chúng ta[27]. Trong thời đại của chúng ta cũng vậy, thật hữu ích khi xem xét lại một số quyết định quan trọng mà ngài đã đưa ra, để về phần chúng ta, chúng ta có thể đáp ứng những thay đổi của ngày hôm nay bằng sự khôn ngoan do Tin Mừng mang lại.

Gió và đôi cánh

Quyết định đầu tiên trong số đó là giải thích lại và đề xuất một lần nữa cho mỗi người nam và nữ, trong hoàn cảnh chuyên biệt của họ, vẻ đẹp của mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Lý do cuối cùng và mục đích thực tế của Khảo luận của ngài là để minh họa cho những người cùng thời với ngài sức hấp dẫn của tình yêu Thiên Chúa. Ngài hỏi: "Ðâu là 'sợi dây' mà sự quan phòng của Thiên Chúa sử dụng để kéo trái tim chúng ta về với tình yêu của Người?"(28) Lặp lại lời lẽ của Tiên tri Hôxêa (11:4), ngài định nghĩa các phương tiện thông thường này là "các sợi dây nhân tính, bác ái và hữu nghị". Ngài viết: "Rõ ràng, chúng ta không bị lôi cuốn tới Thiên Chúa bằng xiềng xích sắt, như bò mộng hay bò đực, nhưng bằng những lời mời gọi, lôi kéo và linh hứng thánh thiện; đó là những sợi dây của Ađam và của lòng tốt con người, phù hợp với trái tim con người, vốn tự do một cách tự nhiên"(30). Cũng bằng những sợi dây đó, Thiên Chúa đã giải thoát dân Người khỏi ách nô lệ, dạy họ biết đi và nắm tay họ như cha mẹ với con cái. Cách của ngài không phải là cách áp đặt bên ngoài, chuyên quyền và độc đoán, hay bạo lực, mà là cách thuyết phục tôn trọng quyền tự do của con người chúng ta. Thánh Phanxicô viết tiếp, chắc chắn nghĩ đến nhiều câu chuyện sống mà ngài đã gặp, "Sức mạnh của ân sủng không kìm hãm con tim, nhưng thu hút nó. Ân sủng sở hữu một sức mạnh thần thánh, không vi phạm quyền tự do của chúng ta nhưng hướng dẫn nó đến tình yêu. Ân sủng hành động mạnh mẽ, nhưng một cách dễ chịu đến nỗi ý chí của chúng ta không bị áp đảo bởi một sức mạnh quá mạnh mẽ; trong khi thúc đẩy chúng ta, nó không áp bức quyền tự do của chúng ta. Thành thử, trước mọi sức mạnh của nó, chúng ta có thể đồng ý hoặc chống lại những thúc đẩy của nó theo ý muốn của chúng ta"[31].

Trước đó, Thánh Phanxicô đã nói về mối quan hệ này bằng cách sử dụng một thí dụ gây tò mò rút ra từ khoa nói về chim: "Theotimos, có một số loài chim mà Aristốt gọi là 'apodans', bởi vì chúng có đôi chân ngắn và yếu đến mức chẳng có tác dụng gì đối với chúng; như thể thậm chí chúng không có chúng. Nếu rơi xuống đất, chúng vẫn ở đó, không thể bay vì nếu không sử dụng chân hoặc bàn chân, chúng không thể bay lên và cất cánh được. Do đó, chúng vẫn ở trên mặt đất và chết ở đó, trừ khi một cơn gió mạnh, bù đắp cho sự bất lực của chúng, nâng chúng lên, như thường xảy ra với những thứ khác. Trong trường hợp đó, nếu chúng đập cánh để đáp lại sức đẩy của gió, thì chính gió sẽ tiếp tục giúp chúng bằng cách đẩy chúng bay cao hơn nữa, để giúp chúng bay ngày càng cao hơn"[32]. Ðiều này cũng đúng với chúng ta: chúng ta được Chúa tạo ra để bay, để dang rộng đôi cánh đáp lại tiếng gọi của tình yêu, nhưng một khi chúng ta rơi xuống trái đất, trừ khi chúng ta chọn mở rộng đôi cánh đó trước làn gió của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ gặp nguy cơ không bao giờ có thể bay được nữa.

Như thế, đây là cách được ân sủng của Thiên Chúa dùng để đến với chúng ta: qua "dây Adam", những mối liên kết nhân tính và tình yêu. Quyền năng của Ðức Chúa Trời luôn có thể nâng chúng ta lên để cất cánh, tuy nhiên, sự dịu dàng, lòng nhân từ yêu thương của Người khiến Người tôn trọng sự tự do của chúng ta. Việc cất cánh hay ở lại trên mặt đất là tùy thuộc chúng ta. Ngay cả khi ban ân sủng của Người, Thiên Chúa sẽ không để chúng ta bay cao nếu không có sự đồng ý của chúng ta. Do đó, Thánh Phanxicô có thể kết luận: "Theotimos, những linh hứng của Thiên Chúa dự ứng chúng ta và khiến chúng ta cảm thấy trước khi chúng ta nhận thức được chúng, nhưng một khi chúng ta nhận thức được chúng, thì chúng ta phải đồng ý và làm theo sự hướng dẫn của chúng, hoặc từ chối và bác bỏ chúng. Chúng làm chúng được cảm nhận bởi chúng ta mà không cần chúng ta; tuy nhiên, không có chúng ta, chúng không tạo ra sự đồng ý của chúng ta"[33]. Trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta luôn cảm nghiệm được một sự nhưng không chứng tỏ tình yêu sâu thẳm của Chúa Cha dành cho chúng ta.

Ðồng thời, ân sủng này không bao giờ làm cho chúng ta trở nên thụ động. Nó dẫn chúng ta đến chỗ nhận ra rằng tình yêu của Thiên Chúa hoàn toàn đi trước chúng ta, và hồng ân đầu tiên của Người chính là ở việc chúng ta chấp nhận tình yêu đó. Do đó, mỗi người có trách nhiệm hợp tác với sự viên mãn của chính mình, với việc dang rộng đôi cánh của mình một cách tín thác đầy tin tưởng vững chắc trước cơn gió mạnh của Thiên Chúa. Ở đây chúng ta thấy một khía cạnh quan trọng của ơn gọi làm người của chúng ta. "Trong câu chuyện Sáng thế, Thiên Chúa ra lệnh cho Ađam và Evà phải sinh sôi nảy nở. Nhân loại có sứ mệnh thay đổi, xây dựng, làm chủ sáng thế theo nghĩa tích cực là sáng tạo từ nó và cùng với nó. Vì vậy, những gì sắp tới không phụ thuộc vào một cơ chế vô hình nào đó, một tương lai mà nhân loại là khán giả thụ động. Không: chúng ta là những nhân vật chủ đạo, chúng ta là các người đồng sáng tạo, nếu tôi có thể kéo dài hạn từ này"[34]. Ðó là điều mà Thánh Phanxicô đệ Salê đã nhận ra và tìm cách truyền lại qua chức vụ hướng dẫn tinh thần của mình.

Lòng sùng kính đích thực

Một quyết định quan trọng thứ hai của Thánh Phanxicô là tiếp cận vấn đề sùng kính. Ở đây cũng như trong thời đại của chúng ta, buổi bình minh của một thời đại mới đã đặt ra một số vấn đề. Hai khía cạnh của vấn đề cần được hiểu và đánh giá lại hiện nay. Thứ nhất liên quan đến chính ý tưởng về lòng sùng kính, thứ hai là tính chất phổ quát và phổ biến của nó.

Mở đầu cuốn Nhập Môn Ðời Sống Sùng Kính, Thánh Phanxicô làm sáng tỏ ý nghĩa của lòng sùng kính: "Trước hết cần phải biết nhân đức sùng kính bao gồm những gì. Chỉ có một lòng sùng kính đích thực, và nhiều lòng sùng kính giả dối và hão huyền. Nếu không phân biệt được lòng sùng kính đích thực, bạn có thể rơi vào lầm lạc và lãng phí thời gian để chạy theo một số lòng sùng kính vô bổ và mê tín"[35].

Sự mô tả của Thánh Phanxiô về lòng sùng kính sai lầm thật thú vị và luôn hợp thời. Mọi người đều có thể liên hệ với nó, vì ngài thêm mắm thêm muối nó một cách hài hước. "Người nào gắn bó với việc ăn chay sẽ cho mình là mộ đạo vì không ăn, mặc dù lòng đầy cay đắng; và trong khi, do yêu thích sự tỉnh táo, họ sẽ không để một giọt rượu, hay thậm chí một giọt nước, đụng tới lưỡi của họ, nhưng họ lại không ngần ngại nhúng nó vào máu của người hàng xóm bằng những lời đàm tiếu và vu khống. Một người khác sẽ tự coi mình là người mộ đạo vì suốt ngày họ lầm bầm một chuỗi những lời cầu nguyện, nhưng vẫn không để ý đến những lời độc ác, cao ngạo và gây tổn thương mà lưỡi họ tung vào những người hầu và hàng xóm của họ. Lại có những người sẵn sàng mở hầu bao bố thí cho người nghèo, nhưng lại không thể moi ra một chút lòng thương xót nào để tha thứ cho kẻ thù của mình. Kẻ khác sẽ tha thứ cho kẻ thù của mình, nhưng thậm chí không bao giờ nghĩ đến việc trả nợ; phải cần một vụ kiện mới khiến họ làm như vậy"[36]. Tất nhiên, tất cả những điều này đều là những tật xấu và những cuộc đấu tranh muôn thuở, và chúng khiến thánh nhân kết luận rằng "tất cả những người tốt này, thường được coi là sùng đạo, nhưng chắc chắn là không phải vậy"[37].

Nguồn gốc của sự sùng kính đích thực được tìm thấy ở nơi khác; gốc rễ sâu xa nhất của nó là ở trong sự sống của Thiên Chúa ngự nơi lòng chúng ta. "Lòng sùng kính đích thực và sống động đòi hỏi phải có tình yêu đối với Thiên Chúa; thực vậy, đó không là gì khác hơn là một tình yêu Thiên Chúa đích thực, chứ không chung chung" [38]. Theo ngôn ngữ sống động của Thánh Phanxicô, lòng sùng kính là "một loại năng lực và sự tỉnh táo tâm linh, nhờ đó đức ái hành động trong chúng ta hoặc, chúng ta hành động nhờ nó, một cách nhanh chóng và đầy tình cảm"[39]. Vì lý do này, lòng sùng kính không tồn tại bên cạnh đức ái, mà là một trong những biểu hiện của đức ái, đồng thời dẫn trở lại đức ái. Lòng sùng kính giống như ngọn lửa đối với lửa: nó gia tăng cường độ của đức ái mà không làm thay đổi phẩm chất của nó. "Cuối cùng, đức ái và lòng sùng kính có thể nói là khác nhau như lửa với ngọn lửa. Ðức ái là ngọn lửa tinh thần, khi được thổi bùng thành ngọn lửa được gọi là lòng sùng kính. Như vậy, lòng sùng kính không thêm gì vào ngọn lửa đức ái mà là ngọn lửa làm cho đức ái mau mắn, tích cực và siêng năng, không những trong việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa mà còn trong việc thực thi các lời khuyên và linh hứng của Thiên Chúa"[40]. Hiểu theo cách này, lòng sùng kính không phải là một điều gì trừu tượng. Thay vào đó, nó trở thành một phong cách sống, một cách sống hòa mình vào cuộc sống cụ thể hàng ngày của chúng ta. Nó bao trùm và khám phá ý nghĩa trong những điều nhỏ nhặt: thức ăn và quần áo, công việc và thư giãn, tình yêu và thiên chức làm cha mẹ, sự ý thức trong việc chu toàn bổn phận của chúng ta. Tóm lại, nó làm sáng tỏ ơn gọi của mỗi cá nhân.

Ở đây chúng ta bắt đầu thấy chiều kích bình dân của lòng sùng kính, vốn hiện diện ngay từ những lời đầu tiên của cuốn Dẫn nhập vào Ðời sống Sùng kính: "Hầu như tất cả những ai từng đối xử với lòng sùng kính đều tìm cách hướng dẫn những người sống tách biệt với thế giới, hoặc ít nhất là họ đã dạy một loại sùng kính dẫn đến sự cô lập như vậy. Tôi có ý định đưa ra những lời dạy của mình cho những người sống ở các thành phố, trong các gia đình, tại tòa án và những người, do hoàn cảnh sống của họ, buộc phải sống giữa những người khác"[41]. Những người nghĩ rằng lòng sùng kính chỉ giới hạn trong một khung cảnh yên tĩnh và hẻo lánh nào đó là hết sức nhầm lẫn. Lòng sùng kính dành cho mọi người, trong mọi hoàn cảnh và mỗi người chúng ta có thể thực hành nó theo ơn gọi của mình. Như Thánh Phaolô VI đã viết vào dịp kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Thánh Phanxicô đệ Salê, "Sự thánh thiện không phải là đặc quyền của bất cứ nhóm nào, nhưng là lời kêu gọi khẩn cấp gửi đến mọi Kitô hữu: 'Bạn ơi, hãy lên cao hơn' (Lc 14:10). Tất cả chúng ta đều được mời gọi lên núi Thiên Chúa, mặc dù không cùng một con đường. 'Lòng sùng kính phải được thực hành khác nhau bởi những người sang trọng, thợ thủ công, thị thần, hoàng tử, góa phụ, thiếu nữ, các bà vợ. Hơn nữa, việc thực hành lòng sùng kính phải thích ứng với khả năng, công việc và bổn phận của mỗi người'"[42]. Sống giữa thành phố thế tục trong khi nuôi dưỡng đời sống nội tâm, kết hợp ước muốn hoàn thiện với mọi trạng thái của cuộc sống, và khám phá một sự bình an nội tâm không tách rời chúng ta ra khỏi thế giới nhưng dạy chúng ta cách sống trong đó và để đánh giá cao nó, nhưng cũng để duy trì một sự tách biệt thích hợp khỏi nó. Ðó là mục tiêu của Thánh Phanxicô đệ Salê, và nó vẫn là một bài học quý giá cho những người đàn ông và đàn bà trong thời đại của chúng ta.

Ðây cũng là giáo huấn của Công đồng Vatican II về ơn gọi nên thánh phổ quát: "Ðược củng cố bởi rất nhiều và những phương tiện cứu rỗi vĩ đại như vậy, tất cả các tín hữu, bất kể hoàn cảnh hay bậc sống nào, đều được Chúa mời gọi - mỗi người trong con đường riêng của họ - đến sự thánh thiện hoàn hảo nhờ đó chính Chúa Cha trở nên hoàn thiện"[43]. Mỗi người theo cách riêng của mình... "Chúng ta đừng nản lòng trước những mẫu gương thánh thiện dường như không thể đạt được"[44]. Mẹ Giáo hội đề xuất chúng với chúng ta không phải để sao chép chúng, nhưng để chúng ta có thể được thúc đẩy theo đuổi con đường chuyên biệt mà Chúa đã chọn cho mỗi người chúng ta. "Ðiều quan trọng nhất là mỗi tín hữu biện phân được con đường riêng của họ, để họ phát huy hết những gì tốt nhất của họ, những hồng ân riêng tư nhất mà Thiên Chúa đã đặt để trong lòng họ (x. 1 Cr 12:7)"[45].

Sự ngây ngất của cuộc sống

Như thế, Thánh Phanxicô xem toàn bộ đời sống Kitô hữu như "sự ngây ngất của công việc và cuộc sống"[46]. Ðối với ngài, không nên nhầm lẫn Kitô giáo với chủ nghĩa thoát ly thực tế dễ dãi hoặc chỉ loay hoay với bản thân, càng không thể nhầm lẫn với việc vâng lời buồn tẻ ảm đạm. Chúng ta biết rằng mối nguy hiểm này luôn có thể hiện diện trong đời sống đức tin. Thật vậy, "có những Kitô hữu mà cuộc sống của họ dường như là Mùa Chay mà không có Lễ Phục Sinh", và trong khi chúng ta có thể hiểu được nỗi đau buồn của những người phải chịu nhiều đau khổ, thì "tất cả chúng ta phải từ từ nhưng chắc chắn để cho niềm vui đức tin bắt đầu hồi sinh như một niềm tín thác âm thầm nhưng vững chắc, ngay trong lúc khốn cùng nhất"[47].

Cho phép niềm vui nở hoa trong trái tim chúng ta là điều mà Thánh Phanxicô đệ Salê muốn nói qua câu "sự ngây ngất của công việc và cuộc sống". Bằng cách này, "chúng ta không chỉ sống một cuộc sống dân sự, trung thực và Kitô giáo, mà còn là một cuộc sống siêu phàm, thiêng liêng, sùng kính và xuất thần, một cuộc sống mà trong bất cứ trường hợp nào cũng vượt xa và trên cả tình trạng tự nhiên của chúng ta"[48]. Ở đây chúng ta đi tới những trang trung tâm, soi sáng của Khảo luận, trong đó "sự ngây ngất" được trình bày như một niềm vui phấn khởi của một đời sống Kitô hữu vượt lên trên sự tầm thường của việc tuân thủ đơn thuần. "Không được trộm cắp, nói dối, thề thốt vô ích; yêu thương và kính trọng cha mình; không sát sinh: đây là sống thuận theo lẽ tự nhiên. Nhưng từ bỏ tất cả của cải, yêu sự nghèo khó, gọi nó và coi nó như tình nhân tuyệt vời nhất, coi sự sỉ nhục, bắt bớ và tử đạo như hạnh phúc và phước lành, giữ gìn sự thanh tịnh tuyệt đối, sống trong đời trái ngược với mọi sự khôn ngoan của thế gian và chống lại thăng trầm của cuộc sống này bằng thói quen cam chịu, từ bỏ và các hành vi tự từ bỏ: đó không phải là sống trong chính chúng ta, mà ở trên và vượt ra ngoài chính chúng ta. Và bởi vì không ai có thể vượt lên trên chính mình theo cách này trừ khi Chúa Cha hằng hữu lôi kéo người ấy, nên loại cuộc sống này là một sự sung sướng vĩnh viễn và một trạng thái ngây ngất liên tục của hành động và hoạt động"[49].

Nói cách khác, một cuộc sống khám phá lại những nguồn vui và tránh được cám dỗ của việc tự cho mình là trung tâm. Vì "mối nguy hiểm lớn trong thế giới ngày nay, chủ nghĩa tiêu thụ lan tràn khắp nơi, là sự buồn phiền và thống khổ sinh ra từ một tấm lòng tự mãn nhưng tham lam, cuồng nhiệt theo đuổi những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ. Bất cứ khi nào đời sống nội tâm của chúng ta bị cuốn vào những lợi ích và mối quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được lắng nghe, niềm vui thầm lặng của tình yêu của Người không còn được cảm nhận, và mong muốn làm điều tốt cũng phai nhạt. Ðây cũng là một mối nguy hiểm thực sự cho các tín hữu. Nhiều người trở thành con mồi của nó, và cuối cùng trở nên oán thù, giận dữ và bơ phờ"[50].

Ðối với mô tả của mình về "sự ngây ngất của công việc và cuộc sống", Thánh Phanxicô bổ sung thêm hai lời giải thích quan trọng vẫn còn giá trị cho chúng ta ngày nay. Ðiều đầu tiên đưa ra một tiêu chuẩn thực tế để biện phân tính chân thực của lối sống này, trong khi điều thứ hai liên quan đến nguồn gốc sâu xa nhất của nó. Là tiêu chuẩn của việc biện phân, ngài tuyên bố rằng trong khi, một mặt, trạng thái ngây ngất này đòi hỏi sự từ bỏ bản thân thực sự, thì mặt khác, nó không có nghĩa là chạy trốn khỏi cuộc sống. Chúng ta nên thường xuyên nhắc nhở bản thân về điều này, kẻo chúng ta có nguy cơ đi lạc khỏi con đường đúng đắn. Nói tóm lại, những ai nghĩ rằng họ đang tiến đến gần Thiên Chúa, nhưng lại không yêu thương người lân cận của mình, thì họ đang lừa dối cả chính họ và những người khác.

Ở đây chúng ta tìm thấy cùng một tiêu chuẩn được Thánh Phanxicô dùng để đo lường lòng sùng kính đích thực. "Nếu bạn thấy một người trong lúc cầu nguyện có những cơn ngây ngất nâng họ lên trên Thiên Chúa, nhưng lại không có sự ngây ngất đối với cuộc sống, nghĩa là người ấy không sống một cuộc sống được nâng cao và kết hợp với Thiên Chúa, nhất là nhờ đức ái liên lỉ, Theotimus, hãy tin tôi đi, tất cả những cơn ngây ngất của họ đều hết sức đáng ngờ và nguy hiểm". Kết luận của ngài rất sắc bén: "Vượt lên trên chính chúng ta khi cầu nguyện, nhưng lại ở dưới chính chúng ta trong cuộc sống và hành động, như một thiên thần trong suy niệm, nhưng thô bạo trong cuộc trò chuyện, là một dấu hiệu thực sự cho thấy những trạng thái ngây ngất và xuất thần như vậy không là gì khác mà chỉ là những trò tiêu khiển và lừa dối của thần xấu"[51]. Trong yếu tính, đây là điều mà Thánh Phaolô đã chỉ ra cho người Côrintô trong "bài thánh ca về đức ái" của ngài: "Nếu tôi có quyền năng tiên tri, và hiểu biết mọi điều mầu nhiệm và mọi kiến thức, và nếu tôi có tất cả đức tin, dời núi mà không có tình yêu, tôi chẳng là gì cả. Nếu tôi cho đi tất cả những gì tôi có, và nếu tôi phó thân thể mình để bị thiêu đốt, mà không có tình yêu thương, thì tôi cũng chẳng được gì" (1Cr 13:2-3).

Như thế, đối với Thánh Phanxicô đệ Salê, dù đời sống Kitô hữu không bao giờ không có sự ngây ngất, thì sự ngây ngất không chân thực nếu tách rời khỏi một đời sống Kitô hữu thực sự. Thật vậy, cuộc sống không có sự ngây ngất có nguy cơ bị giảm xuống thành sự vâng lời mù quáng, một việc lấy hết niềm vui của Tin Mừng. Mặt khác, sự ngây ngất mà không có sự sống dễ trở thành mồi ngon cho những ảo tưởng và lừa dối của Thần ác. Các phân cực lớn lao của đời sống Kitô hữu không thể được giải quyết và loại bỏ. Có thể nói, cái này bảo tồn tính chân xác của cái kia. Do đó, sự thật không tồn tại nếu không có công lý, niềm vui không tồn tại nếu không có trách nhiệm, tính tự phát không tồi tại nếu không có luật pháp và ngược lại.

Về nguồn gốc sâu xa nhất của sự ngây ngất này, Thánh Phanxicô đã khéo léo truy nguyên nó đến tình yêu được biểu lộ bởi Chúa Con nhập thể. Nếu thực sự "tình yêu là hành động và nguyên tắc đầu tiên của đời sống tôn giáo hoặc tinh thần của chúng ta, qua đó chúng ta sống, cảm nhận và xúc động" và "đời sống tinh thần giống như các hoạt động tình cảm của chúng ta", thì rõ ràng là "một trái tim không có tình cảm thì không có tình yêu", và "một trái tim có tình yêu không phải là không có tình cảm"[52]. Nguồn gốc của tình yêu thu hút trái tim này là cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô. "Không có gì lay động trái tim con người bằng tình yêu", và điều này thể hiện rõ nhất qua sự kiện "Chúa Giêsu Kitô đã chết vì chúng ta; Người đã cho chúng ta sự sống thông qua cái chết của Người. Chúng ta sống chỉ vì Người đã chết, và chết cho chúng ta, như là cái chết của chúng ta và trong chúng ta"[53].

Những lời này rất cảm động; chúng không chỉ bộc lộ sự hiểu biết rõ ràng và sâu sắc về mối tương quan giữa Thiên Chúa và loài người, mà còn cho thấy mối tương quan yêu mến sâu sắc giữa Thánh Phanxicô đệ Salê và Chúa Giêsu. Sự ngây ngất của cuộc sống và hành động không phải là một thực tại trừu tượng, nhưng tỏa sáng trong đức ái của Chúa Kitô mà tột đỉnh là thập giá. Tình yêu đó, không hề làm mất đi sự hiện hữu của chúng ta, mà làm cho nó tỏa sáng một cách sáng láng phi thường.

Vì lý do này, Thánh Phanxicô đệ Salê có thể diễn tả một cách hùng hồn đồi Canvê như "ngọn núi của những người yêu nhau"[54]. Vì ở đó và chỉ ở đó, chúng ta mới nhận ra rằng "không thể có cuộc sống nếu không có tình yêu, hoặc không có tình yêu nếu không có cái chết của Ðấng Cứu Chuộc. Ngoại trừ ở đó, mọi sự hoặc là cái chết vĩnh cửu hoặc là tình yêu vĩnh cửu, và toàn bộ sự khôn ngoan của Kitô hữu hệ ở việc biết cách lựa chọn khéo giữa chúng với nhau"[55]. Như thế, Thánh Phanxicô đã có thể kết luận Khảo luận của ngài bằng cách nại đến một bài giảng của Thánh Augustinô, "Còn gì kiên định hơn đức ái, không phải trong việc đền bù những tổn thương, mà là không tính đến chúng? Không quan tâm đến những thứ mau qua, mà quan tâm đến vĩnh cửu? Vì nó có niềm tín thác không lay chuyển vào những lời hứa hẹn ở sự sống tương lai, nên đức ái có thể bao dung mọi sự ở đời này. Nó có thể chịu đựng bất cứ điều gì nó phải chịu đựng ở đây dưới thế này, bởi vì nó hy vọng vào những lời hứa của thế giới sắp tới. Quả thật, đức ái không bao giờ thất bại. Như thế, hãy trau dồi nó, và suy nghĩ những tư tưởng thánh thiện, mang lại thành quả của công lý. Và nếu bạn khám phá ra điều gì khác để ca ngợi đức ái ngoài những gì tôi đã nói ở đây, hãy để điều đó trở nên rõ ràng trong cuộc sống của bạn"[56].

Tất cả những điều này đã được thể hiện cực kỳ rõ ràng trong cuộc đời của vị Giám mục thánh thiện của miền Annecy, và giờ đây, một lần nữa, nó được ủy thác cho mỗi người chúng ta. Ước gì lễ kỷ niệm 400 năm ngày mất của ngài giúp chúng ta tôn kính Thánh Phanxicô đệ Salê, và nhờ lời chuyển cầu của ngài, xin Chúa ban nhiều ơn Chúa Thánh Thần trên hành trình của Dân thánh thiện và trung thành của Người.

Rôma, tại Ðền thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 28 tháng 12 năm 2022

Phanxicô

- - - - - - - - - - -

[1] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Traité de l'amour de Dieu, Preface: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 336.

[2] ID., Lett.2103:À Monsieur Sylvestre de Saluces de la Mente, Abbé d'Hautecombe (3 Tháng 11, 1622), trong Oeuvres de Saint Francois de Sales, XXVI, Annecy, 1932, 490-491.

[3] ID., Lett. 1961:À une Dame (19 Tháng 12, 1622), trong Oeuvres de Saint Francois de Sales, XX (Lettres,X:1621-1622), Annecy, 1918, 395.

[4] ID.,Traité de l'amour de Dieu, I, 15: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 395.

[5] ID.,Entretiens spirituels, Dernier entretien [21]: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 1319.

[6] Tông huấn Gaudete et Exsultate(19 Tháng Ba, 2018), 49:AAS110 (2018), 1124.

[7] Ibid., 57: AAS 110 (2018), 1127.

[8] Cf. ibid., các số. 37-39:AAS110 (2018), 1121-1122.

[9] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Entretiens spirituels, Dernier entretien [21]: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 1319.

[10] Ibid., 1308.

[11] Ibid.

[12] Letter to the Right Reverend Yves Boivineau, Bishop of Annecy, on the Fourth Centenary of the Episcopal Ordination of Saint Francis de Sales, 23 November 2002, 3:Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXV/2 (2002), 767.

[13] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Traité de l'amour de Dieu, Préface, ed.RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 336.

[14] Ðức Benedictô XVI, Catechesis, 2 Tháng ba, 2011:Insegnamenti VII/1 (2011), 270.

[15] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Fragments d'écrits intimes, 3:Acte d'abandon heroique, trong Oeuvres de Saint Francois de Sales, XXII (Opuscules, I), Annecy, 1925, 41.

[16] Cf.Address to the International Theological Commission(29 November 2019): L'Osservatore Romano, 30 Tháng 11, 2019, p. 8.

[17] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Lett. 165:À Sa Sainteté Clément VIII(end of October, 1602), trong Oeuvres de Saint Francois de Sales, XII (Lettres, II:1599-1604), Annecy, 1902, 128.

[18]H. BREMOND,L'humanisme dévôt: 1580-1660, inHistoire littéraire du sentiment religieux en France: depuis la fin des guerres de religion jusqu'à nos jours, I, Jérôme Millon, Grenoble, 2006, 131.

[19] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Lett. 168:Aux religieuses du monastère des "Filles-Dieu" (22 November 1602), trong Oeuvres de Saint Francois de Sales, XII (Lettres, II:1599-1604), Annecy, 1902, 105.

[20]] Ðức Benedictô XVI,Catechesis, 2 March 2011:Insegnamenti, VII/1 (2011), 272.

[21] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Lett. 1869:À M. Pierre Jay(1620 or 1621), trong Oeuvres de Saint Francois de Sales, XX (Lettres, X:1621-1622) Annecy, 1918, 219.

[22] Ibid.

[23] ID.,Traité de l'amour de Dieu, Préface: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 339.

[24] Ibid., 347.

[25] Ibid., 338-339.

[26] Cf.Address to Bishops, Priests, Religious, Seminarians and Catechists, Bratislava, 13 September 2021, L'Osservatore Romano, 13 Tháng 9, 2021, pp. 11-12.

[27] Cf. ibid.

[28] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Traité de l'amour de Dieu, II, 12: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 444.

[29] "I led them with cords of human kindness [Vulgate:in funiculis Adam], with bands of love; I was to them like those who lift infants to their cheeks. I bent down to them and fed them".

[30] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Traité de l'amour de Dieu, II, 12: ed.RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 444.

[31] Ibid., II, 12: 444-445.

[32] Ibid., II, 9: 434.

[33] Ibid., II, 12: 446.

[34] Let Us Dream. The Path to a Better Future.In conversation with Austen Ivereigh, New York, 2020, 4.

[35] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Introduction à la vie dévote, I, 1: ed.RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 31.

[36] Ibid.: 31-32.

[37] Ibid.: 32.

[38] Ibid.

[39] Ibid.

[40] Ibid.: 33.

[41] Ibid., Preface: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 23.

[42] Tông thư Sabaudiae Gemma về Thế kỷ thứ tư Ngày sinh của Thánh Phanxicô đệ Salê, Tiến sĩ Hội thánh (29 Tháng Giêng, 1967):AAS59 (1967), 119.

[43] Công đồng Vaticna II, Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 11.

[44] Tông huấn Gaudete et Exsultate, 11:AAS110 (2018), 1114.

[45] Ibid.

[46] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Traité de l'amour de Dieu, VII, 6: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 682.

[47] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11, 2013),6:AAS105 (2013), 1021-1022

[48] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Traité de l'amour de Dieu, VII, 6: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 682-683.

[49] Ibid.: 683.

[50] Tông huấn Evangelii Gaudium,2:AAS105 (2013), 1019-1020.

[51] Thánh Phanxicô Ðệ Salê, Traité de l'amour de Dieu, VII, 7: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 685.

[52] Ibid.: 684.

[53] Ibid., VII, 8: 687, 688.

[54] Ibid., XII, 13: 971.

[55] Ibid.

[56] Các Bài giảng, 350, 3: PL 39, 1535.

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page