Thông Ðiệp Fratelli Tutti

Tất Cả Anh Em

của Ðức Giáo Hoàng Phanxicô

(Bản dịch Việt ngữ của Vũ Văn An)

 

Chương 3

Dự Kiến Và Phát Sinh Một Thế Giới Cởi Mở

 

87. Con người được tạo ra theo cách họ không thể sống, phát triển và tìm thấy sự viên mãn ngoại trừ "trong việc tự hiến chân thành cho người khác"[62]. Họ cũng không thể nhận biết đầy đủ về bản thân ngoài cuộc gặp gỡ với người khác: "Tôi chỉ thông đạt hữu hiệu với chính tôi trong chừng mực tôi thông đạt với người khác"[63]. Không ai có thể cảm nghiệm được vẻ đẹp thực sự của đời sống mà không liên hệ với người khác, mà không có khuôn mặt thực sự để yêu thương. Ðây là một phần trong mầu nhiệm của hiện sinh nhân bản đích thực. "Sự sống hiện hữu ở nơi có sự gắn bó, có hiệp thông, có tình huynh đệ; và sự sống thì mạnh mẽ hơn sự chết khi nó được xây dựng trên những mối liên hệ thực sự và dây nối kết thủy chung. Ngược lại, sẽ không có sự sống nào khi chúng ta tự cho mình là đủ và sống như những hòn đảo: trong những thái độ này, sự chết chiếm ưu thế"[64].

Vượt Quá Chính Chúng Ta

88. Trong thẳm sâu mỗi trái tim, tình yêu tạo ra mối liên kết và mở rộng hiện sinh, vì nó lôi kéo người ta ra khỏi chính mình và hướng tới người khác[65]. Vì chúng ta được tạo ra để yêu thương, nên trong mỗi chúng ta xem ra đều có "luật ekstasis [ra khỏi mình]" vận hành: "người yêu 'đi ra ngoài' bản thân để tìm một sự hiện hữu trọn vẹn hơn nơi một người khác"[66]. Vì lý do này, "con người luôn phải đón nhận thách đố vượt quá chính mình"[67].

89. Tôi cũng không thể giản lược cuộc sống tôi vào các mối liên hệ với một nhóm nhỏ, thậm chí với gia đình riêng của mình; tôi không thể biết mình ngoài một mạng lưới liên hệ rộng lớn hơn, bao gồm cả những mối liên hệ có trước và lên khuôn cho cả cuộc đời tôi. Mối liên hệ của tôi với những người tôi tôn trọng phải lưu ý đến sự kiện này là họ không sống chỉ vì tôi, cũng không phải tôi sống chỉ vì họ. Các mối liên hệ của chúng ta, muốn lành mạnh và chân thực, phải cởi mở chúng ta đón nhận những người khác, những người vốn làm chúng ta lớn thêm và làm giàu chúng ta. Ngày nay, cảm thức xã hội cao quý nhất của chúng ta dễ dàng bị giản lược thành số không nhường chỗ cho những dây liên kết vị kỷ chuyên chuộng vẻ bề ngoài của những liên hệ sâu sắc. Ngược lại, tình yêu đích thực và trưởng thành và tình bạn chân chính chỉ có thể bén rễ trong những trái tim sẵn sàng để mình được nên trọn vẹn. Sự kiện kết hôn hay trở thành bạn bè phải mở cõi lòng ta cho những giới khác giúp ta khả năng bước ra khỏi chính mình một cách có thể đón nhận mọi người. Các nhóm khép kín và các cặp vợ chồng chỉ quan tâm đến mình, tức những người thiết lập một "cái chúng tôi" trong thế đối lập với người khác, thường là các hình thức lý tưởng hóa của ích kỷ và chỉ lo bảo tồn mình không hơn không kém.

90. Ðáng chú ý là nhiều cộng đồng nhỏ sống trong các vùng sa mạc đã phát triển một hệ thống đáng chú ý chào đón những người hành hương như một việc thực thi nghĩa vụ hiếu khách thánh thiêng. Các cộng đồng đơn tu thời Trung cổ cũng làm như vậy, như chúng ta thấy trong Luật Dòng của Thánh Bênêđíctô. Dù thừa nhận rằng điều đó có thể làm sao lãng kỷ luật và sự im lặng của các đan viện, nhưng Thánh Bênêđíctô vẫn nhấn mạnh rằng "người nghèo và các khách hành hương phải được đối xử một cách hết sức quan tâm và lưu ý" [68]. Sự hiếu khách là một cách cụ thể chấp nhận thách thức và hiến thân hiện diện trong cuộc gặp gỡ với những người nằm bên ngoài vòng kết nối của chính ta. Các đan sĩ nhận ra rằng các giá trị họ tìm cách trau dồi phải đi kèm với sự sẵn sàng vượt quá bản thân để cởi mở với người khác.

Giá trị độc đáo của tình yêu

91. Người ta có thể phát triển một số thói quen nào đó bề ngoài giống như các giá trị đạo đức: mạnh mẽ, tiết độ, chăm chỉ và các nhân đức tương tự. Tuy nhiên, nếu các hành vi nhân đức luân lý khác nhau phải được điều hướng một cách đúng đắn, thì người ta cần phải lưu ý đến mức độ chúng cổ vũ sự cởi mở và kết hợp với những người khác. Ta có thể làm điều đó trở thành khả hữu nhờ đức ái Thiên Chúa đã phú ban. Không có đức ái, có lẽ chúng ta chỉ có những nhân đức bề ngoài, không có khả năng nâng đỡ cuộc sống chung. Do đó, Thánh Tôma Aquinô đã có thể nói, khi trích dẫn lời của Thánh Augustinô, rằng tính khí của một người tham lam không có cách chi nhân đức cho được[69]. Về phần mình, thánh Bonaventura giải thích rằng các nhân đức khác, nếu không có đức ái, nói đúng ra, là không chu toàn các điều răn "theo cách Thiên Chúa muốn chúng được chu toàn"[70].

92. Tầm vóc tinh thần của đời người được đo bằng tình yêu thương, một thứ tình, trước sau, vẫn là "tiêu chuẩn để xác định dứt khoát về giá trị hay vô giá trị của đời người"[71]. Tuy nhiên, một số tín hữu nghĩ rằng nó hệ ở việc áp đặt ý thức hệ riêng của họ lên mọi người khác, hoặc ở việc bảo vệ sự thật một cách bạo lực, hoặc trong những cuộc biểu dương sức mạnh đầy ấn tượng. Tất cả chúng ta, trong tư cách tín hữu, cần phải nhìn nhận rằng tình yêu chiếm vị trí hàng đầu: tình yêu không bao giờ được đặt vào thế nguy cơ, và nguycơ lớn nhất chính là việc không yêu thương (x. 1Cr 13:1-13).

93. Thánh Tôma Aquinô đã tìm cách mô tả tình yêu mà ơn thánh Thiên Chúa vốn làm cho khả hữu như một chuyển động dẫn chúng ta tập trung chú ý vào một người khác, bằng cách "đồng nhất hóa họ với chính mình"[72]. Tình cảm của chúng ta dành cho người khác khiến chúng ta tự do khao khát tìm kiếm điều tốt đẹp cho họ một cách nhưng không. Tất cả những điều này bắt nguồn từ cảm thức quý mến, biết đánh giá cao giá trị của người khác. Cuối cùng, đó chính là ý tưởng đứng đằng sau chữ "bác ái": những người được yêu rất"đắt giá" đối với tôi; nghĩa là "họ được định giá rất cao"[73]. Và "tình yêu nhờ đó một người nào đó trở nên đẹp lòng (grata) một người khác là lý do tại sao người khác này trao cho họ một thứ gì đó một cách nhưng không (gratis)"[74].

94. Vậy thì tình yêu không chỉ là một chuỗi các hành động nhân từ. Những hành động này có nguồn gốc từ sự kết hợp ngày càng hướng tới những người khác, coi họ có giá trị, xứng đáng, đẹp lòng và đẹp đẽ bất chấp dáng vẻ thể lý hay đạo đức của họ. Tình yêu của chúng ta đối với người khác, đối với con người hiện thực của họ, thúc đẩy chúng ta tìm kiếm điều tốt nhất cho cuộc sống của họ. Chỉ bằng cách nuôi dưỡng cách liên hệ với nhau này, chúng ta mới tạo ra một tình bạn xã hội không loại trừ ai và một tình huynh đệ cởi mở chào đón mọi người.

Tình Yêu Mỗi Ngày Mỗi Cởi Mở Hơn

95.Tình yêu, sau cùng, thúc đẩy chúng ta tiến tới sự hiệp thông phổ quát. Không ai có thể trưởng thành hoặc tìm thấy sự viên mãn bằng cách tự cô lập mình. Tự bản chất của nó, tình yêu đòi một tính cởi mở ngày một tăng tiến, một khả năng lớn hơn đón nhận người khác, trong cuộc phiêu lưu liên tục, một cuộc phiêu lưu hướng mọi vùng ngoại vi tới một cảm thức thực sự thuộc về nhau. Chúa Giêsu từng nói với chúng ta: "Các con đều là anh em" (Mt 23: 8).

96. Nhu cầu phải vượt quá các giới hạn của chính chúng ta cũng áp dụng vào các khu vực và quốc gia khác nhau. Thật vậy, "số lượng ngày càng gia tăng các nối kết qua lại và truyền thông trong thế giới ngày nay khiến chúng ta ý thức mạnh mẽ được tính thống nhất và vận mệnh chung của các quốc gia. Trong năng động tính của lịch sử, và trong sự đa dạng của các nhóm sắc tộc, các xã hội và nền văn hóa, chúng ta thấy những mầm mống của một ơn gọi tạo ra một cộng đồng gồm những anh chị em biết chấp nhận và chăm sóc lẫn nhau"[75].

Các xã hội cởi mở hòa nhập mọi người

97. Một số vùng ngoại vi gần với chúng ta, trong các trung tâm thành phố hoặc trong các gia đình của chúng ta. Do đó, trong tình yêu có tính hiện sinh hơn địa lý, có khía cạnh cởi mở phổ quát. Nó liên quan đến các cố gắng hàng ngày của chúng ta muốn mở rộng vòng nối kết bạn bè, vươn tay ra với những người, dù họ vốn gần gũi với tôi, nhưng tôi không tự nhiên coi họ như một phần trong vòng quan tâm của tôi. Mỗi anh chị em gặp khó khăn, khi bị xã hội nơi tôi đang sống bỏ rơi hoặc phớt lờ, đều trở thành một người ngoại quốc về phương diện hiện sinh, mặc dù cùng sinh ra trong cùng một đất nước. Họ có thể là công dân với đầy đủ quyền lợi, nhưng họ bị đối xử như người nước ngoài trong chính đất nước của họ. Phân biệt chủng tộc là một loại virút biến đổi (mutate) nhanh chóng và thay vì biến mất, chỉ ẩn núp và chờ đợi tái xuất.

98. Tôi muốn đề cập đến một số "người lưu vong giấu mặt" bị coi như những bộ phận ngoại nhân trong xã hội[76]. Nhiều người khuyết tật "cảm thấy họ hiện hữu mà không thuộc về ai và không tham gia vào đâu cả". Phần lớn vẫn ngăn cản họ quyền được bỏ phiếu hoàn toàn. Mối quan tâm của chúng ta không phải chỉ chăm sóc họ mà còn bảo đảm để họ "tham gia tích cực vào cộng đồng dân sự và giáo hội. Ðó là một diễn trình đòi hỏi và thậm chí gây mệt mỏi, nhưng là một diễn trình sẽ dần dần góp phần đào tạo lương tâm biết thừa nhận mỗi cá nhân như một con người độc đáo và không thể lặp lại". Tôi cũng nghĩ tới "những người già, những người cũng do khuyết tật của họ, đôi khi bị coi như gánh nặng". Tuy nhiên, mỗi người trong số họ có thể cống hiến "một đóng góp độc đáo cho lợi ích chung qua những câu chuyện đáng chú ý về cuộc sống của họ". Tôi xin nhắc lại: chúng ta cần có "can đảm để đem lại tiếng nói cho những người bị kỳ thị do sự khuyết tật của họ, bởi vì đáng buồn thay, ở một số quốc gia, ngay cả lúc này, người ta khó thừa nhận họ là những người có phẩm giá bình đẳng"[77].

Những hiểu biết bất cập về tình yêu phổ quát

99. Một tình yêu có khả năng vượt quá biên giới là cơ sở cho điều mà ở mọi thành phố và quốc gia có thể gọi là "tình bạn xã hội". Tình bạn xã hội chân chính trong một xã hội làm cho sự cởi mở phổ quát thực sự trở nên khả hữu. Ðiều này rất khác xa với chủ nghĩa phổ quát sai lầm của những người thường xuyên đi du lịch nước ngoài vì họ không thể bao dung hoặc yêu thương người dân của chính họ. Những người coi thường đồng bào mình có xu hướng tạo ra trong xã hội những hạng người hạng nhất và hạng hai, những người có phẩm giá cao hơn hoặc kém hơn, những người được hưởng nhiều quyền hơn hoặc ít hơn. Bằng cách này, họ phủ nhận việc có chỗ dành cho mọi người.

100. Chắc chắn, tôi không đề nghị một chủ nghĩa phổ quát độc đoán và trừu tượng, được nghĩ ra hoặc lên kế hoạch bởi một nhóm nhỏ và được trình bày như một lý tưởng nhằm mục đích san bằng, thống trị và cướp bóc. Thực thế, một mô hình hoàn cầu hóa "ý thức nhằm đạt tới sự độc dạng chỉ có một chiều và tìm cách xóa bỏ mọi khác biệt và truyền thống trong một cuộc mưu cầu thống nhất phiến diện... Nếu một loại hoàn cầu hóa nào đó có cao vọng san bằng mọi người, như thể đây là một trái cầu, thì thứ hoàn cầu hóa ấy sẽ phá hủy sự phong phú cũng như tính đặc thù của mỗi con người và mỗi dân tộc"[78]. Chủ nghĩa phổ quát sai lầm này kết cục tước đoạt của thế giới các màu sắc khác nhau, vẻ đẹp của nó và, cuối cùng, nhân tính của nó. Vì "tương lai không đơn sắc; nếu chúng ta can đảm, chúng ta có thể chiêm ngắm nó trong tất cả vẻ khác nhau và đa dạng của những gì mỗi cá nhân có dịp cung hiến. Gia đình nhân loại của chúng ta cần học hỏi xiết bao cách chung sống hòa thuận và bình an, nhưng không cần tất cả chúng ta đều giống y như nhau!"[79].

Vượt Quá Một Thế Giới "Những Kẻ Ðồng Hội"

101. Bây giờ chúng ta hãy quay lại với dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu, vì nó vẫn còn nhiều điều để nói với chúng ta. Một người đàn ông bị thương nằm bên vệ đường. Những người đi ngang qua ông không để ý đến lời hiệu triệu bên trong phải hành động như những người hàng xóm; họ quan tâm đến các nghĩa vụ, địa vị xã hội, vị thế nghề nghiệp của họ trong xã hội. Họ coi mình là người quan trọng đối với xã hội đương thời, và lo lắng đóng vai trò thích hợp của mình. Người đàn ông bên vệ đường, bầm dập và bị bỏ rơi, là một sự sao lãng, một sự gián đoạn đối với tất cả những điều đó; dù sao, ông ta đâu có quan trọng gì. Ông ta "không là ai cả", không có gì đáng kể, không liên quan đến kế hoạch của họ cho tương lai. Người Samaritanô nhân hậu vượt quá những phân loại hạn hẹp ấy. Bản thân ông không phù hợp với bất cứ loại người nào trong số đó; ông chỉ đơn giản là một người nước ngoài không có chỗ đứng trong xã hội. Thoát khỏi mọi nhãn hiệu và địa vị, ông có thể gián đoạn cuộc hành trình của mình, thay đổi kế hoạch của mình và bất ngờ đến cứu một người bị thương cần ông giúp đỡ.

102. Ngày nay, phản ứng đối với câu chuyện y hệt như thế, trong một thế giới liên tục chứng kiến sự xuất hiện và phát triển của những nhóm xã hội bám riết vào một danh tính ngăn cách họ với những người khác, sẽ như thế nào? Nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến những người tự tổ chức mình nhằm ngăn chặn bất cứ sự hiện diện nào của người nước ngoài, một sự hiện diện có thể đe dọa danh tính và các cơ cấu khép kín và tự quy chiếu của họ? Ở đó, ngay cả khả thể hoạt động như một người hàng xóm cũng bị loại trừ; người ta chỉ là láng giềng với những người phục vụ mục đích của họ. Chữ "hàng xóm" mất hết mọi ý nghĩa; chỉ còn những "người đồng hội đồng thuyền" (associates), những đối tác theo đuổi những quyền lợi riêng[80].

Tự do, bình đẳng và huynh đệ

103. Tình huynh đệ phát sinh không những từ một bầu khí tôn trọng các quyền tự do cá nhân, hoặc thậm chí từ một chính sách bình đẳng nào đó được chính phủ bảo đảm. Tình huynh đệ nhất thiết kêu gọi một điều gì đó lớn lao hơn, một điều, ngược lại, nâng cao tự do và bình đẳng. Ðiều gì xảy ra khi tình huynh đệ không được vun đắp một cách có ý thức, khi thiếu ý chí chính trị cổ vũ nó qua việc giáo dục tình huynh đệ, qua đối thoại và qua việc công nhận các giá trị của tính hỗ tương và làm giàu lẫn nhau? Lúc đó, tự do sẽ yếu đi, do đó, càng trở thành một điều kiện để sống cô lập, hoàn toàn độc lập trong việc thuộc về ai hay thuộc về điều gì, hoặc chỉ đơn giản là chiếm hữu hoặc thụ hưởng. Ðiều này vẫn không hề làm khô cạn sự phong phú của tự do, một tự do trước hết vốn hướng chúng ta tới tình yêu.

104. Bình đẳng cũng không đạt được bằng một tuyên ngôn trừu tượng cho rằng "tất cả mọi người nam và nữ đều bình đẳng". Thay vào đó, nó là kết quả của sự vun đắp tình huynh đệ một cách có ý thức và thận trọng. Những người chỉ có khả năng làm "người đồng hội đồng thuyền" tạo ra các thế giới khép kín. Trong khuôn khổ đó, đâu là nơi dành cho những người không thuộc nhóm đồng hội đồng thuyền của mình, nhưng vẫn mong muốn một cuộc sống tốt hơn cho bản thân và gia đình của họ?

105. Chủ nghĩa cá nhân không làm chúng ta tự do hơn, bình đẳng hơn, huynh đệ hơn. Nguyên tổng số các quyền lợi cá nhân mà thôi không có khả năng tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cho toàn thể gia đình nhân loại. Nó cũng không thể cứu chúng ta khỏi nhiều tệ nạn đang ngày càng được hoàn cầu hóa. Chủ nghĩa cá nhân triệt để là một thứ vi rút cực kỳ khó tận diệt, vì nó rất khôn khéo. Nó khiến chúng ta tin rằng mọi sự hệ ở việc để thả lỏng mọi tham vọng riêng của mình, như thể hễ cứ theo đuổi những tham vọng lớn hơn bao giờ hết và tạo ra các mạng lưới an toàn, là chúng ta sẽ phục vụ lợi ích chung cách nào đó.

Một Tình Yêu Phổ Quát Nhằm Cổ Vũ Con Người

106. Tình bạn xã hội và tình huynh đệ phổ quát nhất thiết kêu gọi sự thừa nhận giá trị của mỗi con người nhân bản, luôn luôn và ở mọi nơi. Nếu mỗi cá nhân đều có giá trị lớn lao như vậy, thì cần phải tuyên bố rõ ràng và chắc chắn rằng "nguyên sự kiện một số người sinh ra ở những nơi có ít tài nguyên hơn hoặc kém phát triển hơn không biện minh cho sự kiện này là họ phải sống với một phẩm giá kém hơn"[81]. Ðây là một nguyên tắc căn bản của đời sống xã hội, một đời sống có xu hướng bị làm ngơ nhiều cách khác nhau bởi những người cảm thấy rằng nó không phù hợp với thế giới quan của họ hoặc phục vụ các mục đích của họ.

107. Mọi hữu thể nhân bản đều có quyền được sống xứng đáng và được phát triển toàn diện; quyền căn bản này không thể bị bác bỏ bởi bất cứ quốc gia nào. Mọi người có quyền này ngay cả khi họ không sản xuất được chi, hoặc được sinh ra với hoặc phát triển nhiều hạn chế. Ðiều này không làm giảm phẩm giá tuyệt vời của họ như những con người nhân bản, một phẩm giá không dựa trên hoàn cảnh mà dựa trên giá trị nội tại của con người họ. Trừ khi nguyên tắc căn bản này được đề cao, sẽ không có tương lai cho tình huynh đệ hay cho sự tồn vong của nhân loại.

108. Một số xã hội chấp nhận một phần nguyên tắc trên. Họ đồng ý rằng các cơ hội nên dành cho mọi người, nhưng sau đó lại nói rằng mọi sự tùy thuộc cá nhân. Theo quan điểm lệch lạc này, "tạo dễ dàng cho việc đầu tư các nỗ lực vào việc giúp đỡ những người chậm chạp, yếu kém hoặc kém tài năng để họ tìm được cơ hội trong cuộc sống" là điều vô nghĩa[82]. Các khoản đầu tư hỗ trợ những người dễ bị tổn thương có thể không có lợi; chúng có thể làm cho mọi sự kém hiệu năng đi. Không. Ðiều thực sự cần thiết là các nhà nước và định chế dân sự, đang hiện diện và hoạt động, phải có tầm nhìn quá bên kia sự vận hành tự do và có hiệu năng của một số hệ thống kinh tế, chính trị hoặc ý thức hệ nào đó, và chủ yếu quan tâm đến các cá nhân và lợi ích chung.

109. Một số người sinh ra trong các gia đình ổn định về kinh tế, nhờ thế, nhận được nền giáo dục tốt, lớn lên được nuôi dưỡng tốt hoặc tự nhiên đã có những tài năng tuyệt vời. Họ chắc chắn sẽ không cần đến một nhà nước chủ động; họ chỉ cần đòi hỏi tự do của họ. Tuy nhiên, cùng một quy tắc y hệt rõ ràng không được áp dụng cho người khuyết tật, người sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó, những người không được giáo dục tốt và ít được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe thỏa đáng. Nếu một xã hội được điều hành chủ yếu bởi các tiêu chuẩn tự do và hiệu năng của thị trường, thì sẽ không có chỗ cho những người như vậy, và tình huynh đệ sẽ mãi mãi chỉ là một lý tưởng mơ hồ khác nữa mà thôi.

110. Thật vậy, "đòi hỏi tự do kinh tế trong khi các điều kiện thực tế ngăn cản nhiều người thực sự tiếp cận được với nó, và trong khi các khả thể có việc làm tiếp tục bị thu hẹp, là thực hành kiểu nói nước đôi"[83]. Những chữ như tự do, dân chủ hay tình huynh đệ tỏ ra vô nghĩa, vì sự thực là "chỉ khi nào hệ thống kinh tế và xã hội của chúng ta không còn tạo ra dù chỉ một nạn nhân, một người duy nhất bị gạt sang một bên, thì chúng ta mới có thể cử hành lễ hội tình huynh đệ phổ quát"[84]. Một xã hội thực sự nhân bản và huynh đệ sẽ có khả năng bảo đảm một cách hữu hiệu và ổn định để mỗi thành viên của nó được đồng hành trong mọi giai đoạn của cuộc sống. Không chỉ bằng cách chu cấp cho các nhu cầu căn bản của họ, mà còn bằng cách giúp họ có khả năng cống hiến điều tốt nhất của họ, mặc dù hiệu suất của họ có thể không ở mức tối ưu, nhịp độ của họ chậm hoặc hiệu năng của họ có giới hạn.

111. Con người nhân bản, với các quyền bất khả chuyển nhượng của họ, tự bản chất, vốn cởi mở đón nhận liên hệ. Cấy sâu trong chúng ta là lời kêu gọi vượt quá chính mình qua cuộc gặp gỡ với người khác. Vì lý do này, "cần phải thận trọng để không rơi vào một số sai sót có thể phát sinh từ việc hiểu lầm khái niệm nhân quyền và việc sử dụng nó một cách sai lầm. Ngày nay có xu hướng đòi các quyền lợi cá nhân - tôi muốn nói các quyền lợi cá nhân chủ nghĩa- ngày càng rộng rãi hơn. Bên dưới điều này là một quan niệm về con người nhân bản tách rời khỏi mọi bối cảnh xã hội và nhân học, như thể con người là một "đơn tử" (monás), ngày càng không liên quan đến người khác... Trừ khi các quyền của mỗi cá nhân được sắp xếp một cách hài hòa cho một lợi ích cao cả hơn, những quyền đó kết cục sẽ được coi là vô giới hạn và do đó sẽ trở thành nguồn gốc của xung đột và bạo động"[85].

Cổ Vũ Thiện Ích Ðạo Ðức

112. Chúng ta cũng không thể không đề cập đến sự kiện việc tìm kiếm và theo đuổi sự thiện của người khác và của toàn thể gia đình nhân loại cũng ngụ ý giúp các cá nhân và xã hội trưởng thành trong các giá trị đạo đức nhằm thúc đẩy sự phát triển con người toàn diện. Tân Ước mô tả một hoa trái của Chúa Thánh Thần (xem Gl 5:22) là agathosyne; chữ tiếng Hy Lạp này phát biểu sự gắn bó với điều tốt, theo đuổi điều tốt. Hơn thế nữa, nó còn gợi lên ý phấn đấu đạt sự tuyệt hảo và những gì tốt nhất cho người khác, sự tăng tiến trưởng thành và sức khỏe của họ, sự trau dồi các giá trị chứ không phải chỉ là phúc lợi vật chất. Một biểu thức tương tự cũng tồn tại trong tiếng Latinh: benevolentia (nhân từ). Ðây là thái độ "mong muốn điều tốt" cho người khác; nó nói lên một khao khát hướng tới sự tốt lành, một khuynh hướng hướng tới tất cả những gì tốt đẹp và tuyệt hảo, một mong muốn làm đầy cuộc sống của người khác bằng những gì đẹp đẽ, cao siêu và xây dựng.

113. Ở đây, thật đáng tiếc, tôi cảm thấy phải nhắc lại rằng "chúng ta đã có đủ sự vô luân và nhạo báng đạo đức, lòng tốt, đức tin và sự trung thực. Ðã đến lúc phải thừa nhận rằng sự hời hợt nhẹ dạ đã không hề đem lại cho chúng ta một điều tốt nào. Một khi nền tảng của đời sống xã hội bị xói mòn, điều xảy ra sau đó là những cuộc đấu tranh giành những quyền lợi xung khắc nhau"[86]. Chúng ta hãy quay lại với việc cổ vũ những điều tốt đẹp, cho chúng ta và cho cả gia đình nhân loại, và do đó cùng nhau tiến tới một sự phát triển chân chính và toàn diện. Mọi xã hội cần bảo đảm để các giá trị được lưu truyền; nếu không, những gì được lưu truyền chỉ là ích kỷ, bạo lực, tham nhũng dưới nhiều hình thức khác nhau, sự thờ ơ và cuối cùng là một cuộc sống khép kín đối với siêu việt và cố thủ trong các quyền lợi cá nhân.

Giá trị liên đới

114. Tôi muốn đặc biệt đề cập đến tình liên đới, là điều "như một nhân đức đạo đức và một thái độ xã hội phát sinh từ sự hoán cải bản thân, kêu gọi sự cam kết của những người có trách nhiệm giáo dục và đào tạo. Tôi nghĩ đầu tiên đến các gia đình, được kêu gọi đảm nhiệm sứ mệnh giáo dục chính yếu và quan trọng. Gia đình là nơi đầu tiên mà các giá trị tình yêu và tình anh em, tình đoàn kết và cùng nhau chia sẻ, quan tâm và chăm sóc người khác được đem ra sống và lưu truyền. Gia đình cũng là môi trường ưu tuyển để truyền dạy dạy đức tin, bắt đầu bằng những cử chỉ sùng kính đơn giản đầu tiên mà các bà mẹ từng dùng để dạy dỗ con cái họ. Các thầy cô, những người có nhiệm vụ đầy thách thức là đào tạo trẻ em và thanh thiếu niên trong các trường học hoặc các môi trường khác, nên ý thức rằng trách nhiệm của họ cũng trải dài đến các khía cạnh đạo đức, tinh thần và xã hội của cuộc sống. Các giá trị tự do, tôn trọng lẫn nhau và liên đới có thể được lưu truyền từ khi còn nhỏ... Người truyền thông cũng có trách nhiệm giáo dục và đào tạo, nhất là ngày nay, khi các phương tiện thông tin và truyền thông hết sức phổ biến"[87].

115. Vào lúc mà mọi sự dường như tan rã và mất đi tính nhất quán, chúng ta nên kêu gọi tính "vững chắc"[88] phát sinh từ ý thức rằng chúng ta chịu trách nhiệm về sự mỏng manh của người khác khi chúng ta cố gắng xây dựng một tương lai chung. Tình liên đới tự phát biểu một cách cụ thể qua việc phục vụ, một việc có thể có nhiều hình thức khác nhau trong cố gắng chăm sóc người khác. Và phục vụ phần lớn có nghĩa là "quan tâm đến tình trạng dễ bị tổn thương, đến những thành viên dễ bị tổn thương trong gia đình, xã hội, nhân dân chúng ta". Khi phục vụ như vậy, các cá nhân học cách "gạt bỏ những mong muốn và ước muốn của riêng họ, việc theo đuổi quyền lực của họ, trước cái nhìn cụ thể của những người dễ bị tổn thương nhất... Phục vụ luôn nhìn vào khuôn mặt của họ, đụng đến da thịt của họ, cảm nhận sự gần gũi của họ và thậm chí, trong một số trường hợp, phải 'chịu đựng' sự gần gũi đó và cố gắng giúp đỡ họ. Phục vụ không bao giờ có tính ý thức hệ, vì chúng ta không phục vụ các ý tưởng, chúng ta phục vụ những con người"[89].

116. Người nghèo nói chung "thực hành tình liên đới đặc biệt có nơi người nghèo khó và đau khổ, và là điều mà nền văn minh của chúng ta dường như đã quên hoặc thực tế thích quên đi hơn. Tình liên đới là một hạn từ không phải lúc nào cũng được đón nhận; trong một số tình huống nào đó, nó đã trở nên một hạn từ thô bỉ, một hạn từ không dám nói ra. Tình liên đới có nghĩa hơn là tham gia vào các hành vi quảng đại lẻ tẻ. Nó có nghĩa là suy nghĩ và hành động theo hướng cộng đồng. Nó có nghĩa là cuộc sống của mọi người có trước việc chiếm đoạt của cải của một số ít người. Nó cũng có nghĩa là chống lại các nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói, bất bình đẳng, thiếu việc làm, đất đai và nhà ở, bác bỏ các quyền lao động và xã hội. Nó có nghĩa là đương đầu với những hậu quả hủy diệt của đế quốc tiền bạc# Liên đới, hiểu theo nghĩa sâu xa nhất của nó, là một cách tạo lịch sử, và đó là điều các phong trào bình dân đang thực hiện"[90].

117. Khi chúng ta nói đến việc cần thiết phải chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, tức hành tinh của chúng ta, chúng ta kêu gọi tia lửa ý thức phổ quát và mối quan tâm lẫn nhau đó, những điều vẫn có thể còn đang hiện hữu trong trái tim người ta. Những ai được hưởng lượng nước dư thừa nhưng chọn bảo tồn nó vì lợi ích của đại gia đình nhân loại lớn hơn quả đã đạt được tầm vóc đạo đức giúp họ nhìn xa hơn bản thân họ và nhóm mà họ thuộc về. Thật nhân bản một cách kỳ diệu xiết bao! Cũng cần cùng một thái độ như thế nếu chúng ta muốn công nhận các quyền lợi của mọi người, ngay cả những người sinh ra ở bên ngoài biên giới của chúng ta.

Tái Dự Kiến Vai Trò Xã Hội Của Sở Hữu

118. Thế giới hiện hữu vì mọi người, bởi vì tất cả chúng ta sinh ra đều có cùng một phẩm giá. Các khác biệt về màu da, tôn giáo, tài năng, nơi sinh hoặc nơi cư trú, và nhiều điều khác, không thể được dùng để biện minh cho các đặc quyền của một số người trên quyền lợi của mọi người. Là một cộng đồng, chúng ta có nghĩa vụ bảo đảm để mọi người sống đúng phẩm giá và có đủ cơ hội để phát triển toàn diện.

119. Trong những thế kỷ Kitô giáo đầu tiên, một số nhà tư tưởng đã khai triển một viễn kiến phổ quát trong các suy tư của họ về đích đến chung của hàng hóa được tạo ra[91]. Ðiều này khiến họ nhận ra rằng nếu một người thiếu những gì cần thiết để sống đúng phẩm giá, thì đó là bởi vì một người khác đã chiếm giữ nó. Thánh Gioan Chrysostom tóm tắt điều đó như sau: "Không chia sẻ sự giàu có của chúng ta với người nghèo là cướp đi sinh kế của họ. Của cải chúng ta sở hữu không phải của riêng chúng ta mà là của cả họ nữa"[92]. Theo lời của Thánh Grêgôriô Cả, "Khi chúng ta cung cấp những nhu cầu căn bản cho người nghèo, chúng ta đang cho họ những gì thuộc về họ, chứ không thuộc chúng ta"[93].

120. Một lần nữa, tôi muốn nhắc lại câu nói của Thánh Gioan Phaolô II mà sức mạnh của nó có lẽ chưa được công nhận đầy đủ: "Thiên Chúa đã ban trái đất cho toàn thể loài người để nuôi sống mọi thành viên của nó, không loại trừ hay ưu ái bất cứ ai"[94]. Về phần mình, tôi nhận xét rằng "truyền thống Kitô giáo chưa bao giờ công nhận quyền tư hữu là tuyệt đối hoặc bất khả xâm phạm, và đã nhấn mạnh đến mục đích xã hội của mọi hình thức tư hữu"[95]. Nguyên tắc sử dụng chung các hàng hóa được tạo ra là "nguyên tắc đầu tiên của toàn bộ trật tự xã hội và đạo đức"[96]; nó là một quyền tự nhiên và cố hữu, có ưu tiên hơn những quyền khác[97]. Mọi quyền lợi khác liên quan đến hàng hóa cần thiết cho sự viên mãn toàn diện của con người, bao gồm quyền tư hữu hoặc bất cứ loại sở hữu nào khác, - theo lời Thánh Phaolô VI - "không nên cản trở [quyền này], nhưng nên tích cực tạo điều kiện để thực hiện nó"[98]. Quyền tư hữu chỉ có thể được coi là một quyền tự nhiên đệ nhị đẳng, xuất phát từ nguyên tắc đích đến phổ quát của hàng hoá được tạo ra. Ðiều này có những hậu quả cụ thể cần phải được phản ảnh trong hoạt động của xã hội. Tuy nhiên, thường xảy ra việc các quyền đệ nhị đẳng di dời các quyền đệ nhất đẳng và vượt qua các quyền này, trên thực tế biến chúng thành bất liên quan.

Các quyền không có biên giới

121. Vì vậy, không ai có thể mãi bị loại trừ vì nơi sinh của họ, càng không bị loại trừ vì những đặc ân mà những người sinh ra ở những vùng đất có nhiều cơ hội hơn được hưởng. Các giới hạn và biên giới của các quốc gia cá thể không thể cản trở điều này. Không thể chấp nhận được việc một số người ít có quyền hơn vì là phụ nữ thế nào, thì cũng không thể chấp nhận được việc nơi sinh hoặc nơi cư trú của một người sẽ khiến họ ít có cơ hội hơn để có một cuộc sống phát triển và đàng hoàng như vậy.

122. Phát triển không được nhằm việc thu tích của cải cho một số ít người, mà phải bảo đảm "các nhân quyền - quyền cá nhân và quyền xã hội, quyền kinh tế và quyền chính trị, kể cả các quyền của các quốc gia và dân tộc"[99]. Quyền của một số người được tự do doanh nghiệp hoặc tự do thị trường không thể thay thế quyền của các dân tộc và phẩm giá của người nghèo, hoặc, cũng trong vấn đề này, việc tôn trọng môi trường tự nhiên, vì "nếu chúng ta tự làm ra được thứ gì đó, thì chỉ là để quản lý nó vì thiện ích của mọi người"[100].

123. Hoạt động kinh doanh, trong yếu tính, là "một ơn gọi cao quý, hướng đến việc sản xuất ra của cải và cải thiện thế giới của chúng ta"[101]. Thiên Chúa khuyến khích chúng ta phát triển các tài năng Người đã ban cho chúng ta, và Người đã biến vũ trụ của chúng ta thành một vũ trụ có tiềm năng mênh mông. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, mỗi cá nhân được kêu gọi cổ vũ sự phát triển của chính họ[102], và điều này bao gồm việc tìm ra các phương tiện kinh tế và kỹ thuật tốt nhất để nhân thừa của cải và gia tăng thịnh vượng. Các khả năng kinh doanh, vốn là hồng phúc của Thiên Chúa, nên luôn được điều hướng rõ ràng vào việc phát triển người khác và xóa bỏ nghèo đói, đặc biệt là qua việc tạo ra các cơ hội việc làm đa dạng. Quyền tư hữu luôn đi kèm với nguyên tắc đệ nhất đẳng và đi trước là bắt mọi tư hữu tùy thuộc việc phân phối phổ quát các của cải của trái đất, và do đó quyền của mọi người được sử dụng chúng[103].

Quyền của các dân tộc

124. Ngày nay, niềm tin vững chắc vào đích đến chung của của cải trên trái đất đòi hỏi nguyên tắc này cũng phải được áp dụng cho các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tài nguyên của họ. Nhìn từ quan điểm không những về tính hợp pháp của quyền tư hữu và quyền của các công dân mà còn về nguyên tắc đầu tiên về đích đến chung của của cải, thì chúng ta có thể nói rằng mỗi quốc gia cũng thuộc về người nước ngoài, do đó, không được từ khước của cải của lãnh thổ đối với một người túng thiếu phát xuất từ một lãnh thổ khác. Như các Giám mục Hoa Kỳ đã dạy, có những quyền căn bản "đi trước bất cứ xã hội nào vì chúng xuất phát từ phẩm giá được ban cho mỗi người vốn được Thiên Chúa tạo dựng nên"[104].

125. Ðiều này giả định một lối hiểu khác về các mối liên hệ và trao đổi giữa các quốc gia. Nếu mỗi con người đều sở hữu một phẩm giá bất khả chuyển nhượng, nếu mọi người đều là anh chị em của tôi, và nếu thế giới thực sự thuộc về mọi người, thì đâu có quan hệ bao nhiêu khi người hàng xóm của tôi sinh ra ở nước tôi hay ở nơi khác. Ðất nước tôi cũng chia sẻ trách nhiệm đối với sự phát triển của họ, mặc dù nó có thể chu toàn trách nhiệm đó theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể cung ứng sự chào đón quảng đại cho những người có nhu cầu cấp thiết, hoặc nỗ lực cải thiện điều kiện sống ở quê hương của họ bằng cách từ chối khai thác các quốc gia đó hoặc tiêu hao các tài nguyên thiên nhiên của họ, ủng hộ các hệ thống thối nát vốn cản trở sự phát triển xứng đáng của dân tộc họ. Ðiều áp dụng cho các quốc gia cũng áp dụng cho các khu vực khác nhau trong mỗi quốc gia, vì thường có sự bất bình đẳng quá lớn. Ðôi khi, việc không thể thừa nhận phẩm giá bình đẳng của con người dẫn các khu vực phát triển hơn ở một số quốc gia nghĩ rằng họ có thể loại bỏ "những gánh nặng chết người" của các khu vực nghèo hơn và do đó gia tăng mức tiêu thụ của họ.

126. Chúng ta thực sự đang nói tới một mạng lưới tương quan quốc tế mới, vì không có cách nào để giải quyết các vấn đề nghiêm trọng của thế giới nếu chúng ta tiếp tục chỉ nghĩ theo sự tương trợ giữa các cá nhân hoặc các nhóm nhỏ. Chúng ta cũng không nên quên rằng "sự không công bằng không những ảnh hưởng đến các cá nhân mà còn toàn bộ các quốc gia; nó buộc chúng ta xem xét một nền đạo đức tương quan quốc tế"[105]. Thật vậy, công lý đòi hỏi phải công nhận và tôn trọng không những các quyền của cá nhân, mà còn cả các quyền xã hội và quyền của các dân tộc[106]. Ðiều này có nghĩa phải tìm ra cách để bảo đảm "quyền căn bản của các dân tộc được sống còn và tiến bộ"[107], một quyền đôi khi bị hạn chế nghiêm trọng bởi áp lực do nợ nước ngoài tạo ra. Trong nhiều trường hợp, việc trả nợ không những không cổ vũ sự phát triển mà còn hạn chế và buộc điều kiện cho nó một cách nghiêm trọng. Mặc dù tôn trọng nguyên tắc mọi khoản nợ nhận được một cách hợp pháp phải được hoàn trả, nhưng cách thức trong đó nhiều nước nghèo chu toàn nghĩa vụ này không nên kết cục bằng việc xâm hại đến sự tồn vong và phát triển của họ.

127. Chắc chắn, tất cả những điều này đòi hỏi một cách suy nghĩ khác. Nếu không cố gắng đi vào lối suy nghĩ này, những gì tôi đang nói ở đây sẽ nghe có vẻ không thực tiễn. Mặt khác, nếu chúng ta chấp nhận nguyên tắc lớn này là có những quyền phát sinh từ nhân phẩm bất khả chuyển nhượng của chúng ta, thì chúng ta có thể đương đầu với thách thức dự kiến một nhân loại mới. Chúng ta có thể khát mong một thế giới biết cung cấp đất đai, nhà ở và công việc cho mọi người. Ðây là con đường hòa bình chân thực, không phải là chiến lược vô nghĩa và thiển cận gieo rắc sợ hãi và ngờ vực khi đối diện với các mối đe dọa từ bên ngoài. Vì một nền hòa bình chân thực và lâu bền chỉ khả hữu "trên cơ sở nền đạo đức hoàn cầu chuyên dạy tình liên đới và sự hợp tác nhằm phục vụ một tương lai được lên khuôn bởi sự liên lập và trách nhiệm chung nơi toàn thể gia đình nhân loại"[108].

- - - - - - - - - -

 

[62] Công Ðồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong Thế giới Ngày nay Gaudium et Spes, 24.

[63] Gabriel Marcel, Du refus à l'invocation, ed. NRF, Paris, 1940, 50.

[64] Buổi Ðọc Kinh Truyền Tin(10 Tháng 11 2019): L'Osservatore Romano, 11-12 Tháng 11 2019, 8.

[65] Xem Thánh Tôma Aquinô: Scriptum super Sententiis, lib. 3, dist. 27, q. 1, a. 1, ad 4: "Dicitur amor extasim facere et fervere, quia quod fervet extra se bullit et exhalat".

[66] Karol Wojtyla, Love and Responsibility, London, 1982, 126.

[67] Karl Rahner, Kleines Kirchenjahr. Ein Gang durch den Festkreis, Herderbucherei 901, Freiburg, 1981, 30.

[68] Luật Dòng, 53, 15: "Pauperum et peregrinorum maxime susceptioni cura sollicite exhibeatur".

[69] Xem Summa Theologiae, II-II, q. 23, a. 7; Thánh Tháng 8 inô, Contra Julianum, 4, 18: PL 44, 748: "How many pleasures do misers forego, either to increase their treasures or for fear of seeing them diminish!".

[70] "Secundum acceptionem divinam" (Scriptum super Sententiis, lib. 3, dist. 27, a. 1, q. 1, concl. 4).

[71] Ðức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25 Tháng 12 2005), 15: AAS 98 (2006), 230.

[72] Summa Theologiae II-II, q. 27, a. 2, resp.

[73] Cf Ðã dẫn, I-II, q. 26, a. 3, resp.

[74] Ðã dẫn, q. 110, a. 1, resp.

[75] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2014 (8 Tháng 12 2013), 1: AAS 106 (2014), 22.

[76] Xem Kinh Truyền tin (29 Tháng 12 2013): L'Osservatore Romano, 30-31 Tháng 12 2013, p. 7; Diễn văn với Ngoại giao đoàn Bên cạnh Tòa Thánh (12 Tháng 1 2015): AAS 107 (2015), 165.

[77] Thông điệp nhân Ngày Người Khuyết Tật Thế giới (3 Tháng 12 2019): L'Osservatore Romano, 4 Tháng 12 2019, 7.

[78] Diễn văn với Cuộc Gặp gỡ về Tự do Tôn giáo với Cộng đồng Nói tiếng Tây Ban Nha và các Nhóm Di dân, Philadelphia, Pennsylvania, United States of America (26 Tháng 9 2015): AAS 107 (2015), 1050-1051.

[79] Diễn văn với Giới trẻ, Tokyo, Japan (25 Tháng 11 2019): L'Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, 10.

[80] Trong các xem xét này, tôi được gợi hứng bời tư tưởng của Paul Ricoeur, "Le socius et le prochain", trong Histoire et Verité, ed. Le Seuil, Paris, 1967, 113-127.

[81] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 190: AAS 105 (2013), 1100.

[82] Ðã dẫn, 209: AAS 105 (2013), 1107.

[83] Thông điệp Laudato Si' (24 Tháng 5 2015), 129: AAS 107 (2015), 899.

[84] Thông điệp gửi cho Biến cố "Economy of Francesco" (1 Tháng 5 2019): L'Osservatore Romano, 12 Tháng 5 2019, 8.

[85] Diễn văn với Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25 Tháng 11 2014): AAS 106 (2014), 997.

86] Thông điệp Laudato Si' (24 Tháng 5 2015), 229: AAS 107 (2015), 937.

[87] Thông điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế giới năm 2016 (8 Tháng 12 2015), 6: AAS 108 (2016), 57-58.

[88] "Vững chắc" (Solidity) về từ nguyên có liên hệ với "liên đới" (solidarity). Liên đới, trong nghĩa đạo đức học chính trị mà nó mặc lấy trong 2 thế kỷ vừa qua, đem lại tác động an toàn và chắc chắn.

[89] Bài Giảng lễ, Havana, Cuba (20 Tháng 9 2015): L'Osservatore Romano, 21-22 Tháng 9 2015, 8.

[90] Diễn văn với Các Tham dự viên cuộc gặp gỡ các Phong trào Bình dạn (28 Tháng 10 2014): AAS 106 (2014), 851-852.

[91] Xem Thánh Basil, Homilia XXI, Quod rebus mundanis adhaerendum non sit, 3.5: PG 31, 545-549; Regulae brevius tractatae, 92: PG 31, 1145-1148; Thánh Peter Chrysologus, Sermo 123: PL 52, 536-540; Thánh Ambrose, De Nabuthe, 27.52: PL 14, 738ff.; Thánh Augustinô, In Iohannis Evangelium, 6, 25: PL 35, 1436ff.

[92] De Lazaro Concio, II, 6: PG 48, 992D.

[93] Regula Pastoralis, III, 21: PL 77, 87.

[94] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 31: AAS 83 (1991), 831.

[95] Thông điệp Laudato Si' (24 Tháng 5 2015), 93: AAS 107 (2015), 884.

[96] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens (14 Tháng 9 1981), 19: AAS 73 (1981), 626.

[97] Cf. Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyền Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội, 172.

[98] Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 268.

[99] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30 Tháng 12 1987), 33: AAS 80 (1988), 557.

[100] Thông điệp Laudato Si' (24 Tháng 5 2015), 95: AAS 107 (2015), 885.

[101] Ðã dẫn, 129: AAS 107 (2015), 899.

[102] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 265; Ðức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 16: AAS 101 (2009), 652.

[103] Xem Thông điệp Laudato Si' (24 Tháng 5 2015), 93: AAS 107 (2015), 884-885; Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 189-190: AAS 105 (2013), 1099-1100.

[104] Hội Ðồng Giám Mục Hoa Kỳ, Thư Mục vụ chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Open Wide Our Hearts: The Enduring Call to Love (Tháng 11 2018).

[105] Thông điệp Laudato Si' (24 Tháng 5 2015), 51: AAS 107 (2015), 867.

[106] Xem Ðức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 6: AAS 101 (2009), 644.

[107] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 Tháng 5 1991), 35: AAS 83 (1991), 838.

[108] Diễn văn về Vũ khí Hạt nhân, Nagasaki, Japan (24 Tháng 11 2019): L'Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, 6.

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page