Tự bản chất, Kitô giáo đã là một mầu nhiệm. Tuy nhiên, trong các Mầu Nhiệm của Kitô Giáo, nền tảng nhất là Mầu Nhiệm Nhập Thể, quan trọng nhất là Mầu Nhiệm Phục Sinh, và cao cả nhất là Mầu Nhiệm Ba Ngôi.
Nói đến Mầu Nhiệm Ba Ngôi là nói đến Mầu Nhiệm Tam Vị Nhất Thể, nghĩa là Mầu Nhiệm về Một Thiên Chúa Duy Nhất Song Lại Có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Tuy nhiên, trong Ba Ngôi Thiên Chúa, thực tế cho thấy, Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần được nói đến ít nhất, kể cả trong nguồn Mạc Khải Thánh Kinh cũng như nơi cảm hứng Kitô Giáo!
Tại sao?
Phải chăng vì một trong ba hay cả ba
lý do sau đây:
Lý do thứ nhất, nơi Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần được nói đến ít nhất là vì vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc cứu chuộc không quan trọng bằng Chúa Cha và Chúa Con?
Lý do thứ hai, nơi nhân loại, Chúa Thánh Thần được nói đến ít nhất là vì kiến thức về Chúa Thánh Thần không có bao nhiêu, hay có thì cũng không tường tận như về Chúa Cha và Chúa Con??
Lý do thứ ba, nơi Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần được nói đến ít nhất vì Ngài là chính Nội Tâm Thiên Chúa (x.1Cor.2:10; Rm.5:5) và là chính bản chất Thần Linh của Thiên Chúa (x.Jn.4:24), nên tự mình không nổi nang và chỉ được nhận biết qua các biểu hiệu tượng trưng (như gió, lửa, nước, bồ câu v.v.), hay dựa vào các công cuộc của Ngài (như nơi Thánh Kinh, Thánh Truyền, Huấn Quyền, Ðức Ái v.v.)???
Riêng về các biểu hiệu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần, không phải hay sao, qua những lần Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ mình ra hiển nhiên nhất được Phúc Âm ghi nhận, như khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Dược Ðăng (x.Mt.3:16-17), hay khi Người biến hình trên núi cao (x.Mt.17:2,5), Ngôi Cha bao giờ cũng tỏ mình ra bằng Tiếng Nói phán ra từ tầng trời (x.Mt.3:17) hay từ đám mây (x.Mt.17:5), Ngôi Con bao giờ cũng tỏ mình ra bằng hình tượng con người ta, còn Ngôi Thánh Thần tỏ mình ra bằng hình tượng con chim bồ câu đậu xuống trên Chúa Kitô (x.Mt.3:16), hay bằng hình tượng đám mây sáng bao phủ các thánh tông đồ, từ đó phát ra Tiếng Nói (x.Mt.17:5).
Phải, trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Ngôi Hai là Chúa Con nổi nhất, vì Ngài "là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha" (Heb.1:3), là "Lời đã hoá thành nhục thể và ở giữa chúng ta (để) chúng ta được thấy vinh hiển của Ngài, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Jn.1:14). Với sứ mệnh đến để "tỏ Cha ra" (Jn.1:18) như thế, Lời nhập thể là Chúa Giêsu Kitô chính là tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người, nói cách khác, Chúa Giêsu Kitô chẳng những là đường lối tỏ mình của Thiên Chúa mà còn là chính mạc khải của Thiên Chúa, của Ngôi Cha. Do đó, Chúa Giêsu Kitô là trung tâm của chung toàn bộ Thánh Kinh, nhất là của riêng phần Thánh Kinh Tân Ước.
Trong Ba Ngôi Thiên Chúa, sau Ngôi Con là Ngôi nổi nang nhất thì đến Ngôi Cha, Ðấng tỏ mình ra qua Con (x.Jn.17:1,8), và bằng cách ban Con mình cho thế gian (x.Jn.3:16). Nếu Ngôi Con là Chúa Giêsu Kitô được đặc biệt nổi nang nơi phần Thánh Kinh Tân Ước, thì Thiên Chúa là Ngôi Cha được nổi nang nơi phần Thánh Kinh Cựu Ước, Ðấng đã từ từ tỏ mình ra cho nhân loại qua việc tạo dựng, nhất là qua lịch sử dân Do Thái, cho tới khi Ngài chính thức nói với chúng ta qua Con Ngài trong thời gian sau hết (x.Heb.1:1-2), để nhờ Con toàn thể nhân loại được thực sự và hoàn toàn nhận biết Ngài mà được sống đời đời (x.Jn.17:3).
Nếu nói để phân biệt giữa các Ngôi Vị nơi Thiên Chúa, thì chính vì Ngôi Thánh Thần chỉ là động lực mạc khải nơi Thiên Chúa, chứ không phải là chủ thể mạc khải như Ngôi Cha, và chính vì Ngôi Thánh Thần chỉ là tác nhân mạc khải nơi Ngôi Con Nhập Thể, chứ không phải là thực tại mạc khải như Chúa Giêsu Kitô, nên Ngài mới là một Ngôi Thiên Chúa hoàn toàn âm thầm giữ một vị thế và vai trò nội tại hơn là biểu dương hiển hiện.
Tuy nhiên, nếu nói đến hoạt động ngoại tại của Thiên Chúa, thì việc làm Thần Linh nào của Ngài, như việc tạo dựng (vẫn hiểu là của Ngôi Cha, Ðấng Hóa Công), việc cứu chuộc (vẫn hiểu là của Ngôi Con, Ðấng Cứu Thế) và việc thánh hoá (vẫn hiểu là của Ngôi Thánh Thần, Ðấng Ban Sự Sống), tất cả 3 việc này đều có đủ Ba Ngôi.
Trước hết, trong việc tạo dựng, không phải Ba Ngôi Thiên Chúa cùng làm hay sao, ở chỗ, Thiên Chúa Ngôi Cha "ngay từ ban đầu đã dựng nên các tầng trời và đất" (Gn.1:1) do Ngôi Thánh Thần thúc đẩy, Ðấng được Thánh Kinh Cựu Ước diễn tả ngay đầu Sách Khởi Nguyên như "một luồng gió mạnh thổi trên các giòng nước" (Gn.1:2). Ngôi Cha chẳng những được Ngôi Thánh Thần thúc đẩy trong việc tạo dựng, mà còn thực hiện việc tạo dựng theo Ý Nghĩ (Lời) của mình nữa, nghĩa là Thiên Chúa Ngôi Cha tạo dựng trong Ngôi Con (x.Col.1:16), nhờ Ngôi Con (x.Jn.1:3; Col.1:16) và cho Ngôi Con (x.Col.1:16) là "Lời hiện diện nơi Thiên Chúa ngay từ ban đầu" (Jn.1:2).
Sau nữa, trong việc cứu chuộc, không phải Ba Ngôi Thiên Chúa cùng làm hay sao, ở chỗ, Thiên Chúa Ngôi Con hóa thành nhục thể "bởi Chúa Thánh Thần" (Mt.1:20; x.Lk.1:35), để có thể "tỏ Cha ra" (Jn.1:18), Ðấng đã sai Người (x.Jn.17:8) cũng là "Ðấng muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý" (1Tim.2:4).
Sau hết, trong việc thánh hóa, không phải Ba Ngôi Thiên Chúa cùng làm hay sao, ở chỗ, Thiên Chúa Ngôi Ba được Ngôi Cha sai xuống trên Giáo Hội nhân danh Chúa Giêsu Kitô (x.Jn.14:26) để Ngôi Ba tỏ Ngôi Con ra cho Giáo Hội cho tới khi (x.Jn.15:26;16:13) hoàn toàn đạt đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô là đầu (x.Eph.4:13,15; Jn.16:10,14-15).
Như thế, mạc khải cho chúng ta thấy rằng, Ngôi Cha sai Ngôi Con đến thế gian là để tỏ mình ra cho chung thế gian (x.Jn.3:16) cũng như cho riêng thành phần Ngài đã ban cho Con giữa thế gian (x.Jn.17:6); Ngôi Con là Chúa Giêsu Kitô cũng từ Cha sai Ngôi Thánh Thần đến để tỏ mình ra (x.Jn.15:26) qua thành phần chứng nhân môn đệ của Người (x.Jn.15:26); phần Ngôi Thánh Thần, như Ngôi Con nhập thể làm Con Người để tỏ Ngôi Cha ra thế nào thì Ngài cũng như "quyền lực từ trên cao" (Lk.24:49; x.Acts 1:8) xuống trên Giáo Hội để qua Giáo Hội làm chứng cho Chúa Kitô như vậy, nhờ đó, thế gian "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Ðấng Cha sai là Ðức Giêsu Kitô" (Jn.17:3).
Nếu Ngôi Cha tỏ mình ra qua Lời Nhập Thể, Ngôi Con tỏ mình ra qua Con Người Giêsu Kitô thì Ngôi Thánh Thần tỏ mình ra qua Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô. Như thế, để nhận biết Chúa Cha, con người cần phải nhận biết Chúa Kitô thế nào, thì để nhận biết Chúa Thánh Thần, con người cũng cần phải nhận biết Giáo Hội như vậy.
Ðối với chung nhân loại và riêng Giáo Hội, việc nhận biết Thiên Chúa có thể đi từ Chúa Kitô là Lời nhập thể, vừa là đường lối mạc khải vừa là chính mạc khải của Thiên Chúa, qua Chúa Thánh Thần, Ðấng vừa là động lực mạc khải nơi Thiên Chúa vừa là tác nhân mạc khải nơi Chúa Kitô, đến Chúa Cha, vừa là chủ thể mạc khải vừa là nguồn đích mạc khải. Ðó là lý do và ý nghĩa để dọn mừng Ðại Năm Thánh 2000, như Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Ðang Ðến của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phác họa ở các đoạn 40, 44 và 49, Giáo Hội cũng đã theo lịch trình Ba Ngôi như vậy: từ Chúa Kitô (năm 1997), qua Chúa Thánh Thần (năm 1998), đến Chúa Cha (năm 1999).
Chính Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị khởi xướng việc mừng Kỷ Niệm 2000 năm Mầu Nhiệm Nhập Thể và hoạch định chương trình tiến đến năm 2000 hồng phúc trọng đại này, đã tự xác nhận lý do và ý nghĩa về thứ tự mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi (từ Con, qua Thánh Thần, đến Cha, chứ không phải Cha, Con và Thánh Thần), cho 3 năm kết thúc thiên niên thứ hai và thế kỷ 20 này, trong bài chia sẻ nguyện kinh Truyền Tin vào Chúa Nhật 23-11-1997, như sau:
"Hôm nay là chấm
dứt năm thứ nhất trong giai đoạn
gần để sửa soạn cho Ðại
Năm Thánh 2000, một giai đoạn 3 năm
được đánh dấu bằng
một lịch trình 'nhờ Chúa Kitô
- trong Thần Linh - đến với Chúa
Cha'"
(L'Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ, 26-11-1997)
Trong buổi chia sẻ để
mở màn cho loạt bài Giáo Lý
Năm 2000 vào ngày thứ Tư 19-11-1997,
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng
lập lại cũng ý hướng này
của Ngài như sau: "Theo ý nghĩa
về Chúa Ba Ngôi, 'những điều
sau hết' (trong Kinh Tin Kính là xác sống
lại và sự sống đời
sau) cũng mới có ý nghĩa,
và mới có thể hiểu được
một cách sâu xa hơn cuộc hành
trình của con người cũng như
của lịch sử hướng về
đích điểm tối hậu của
mình: việc trở về với Thiên
Chúa là Cha, Ðấng mà Ðức
Kitô, Con Thiên Chúa và là Chúa
của lịch sử, dẫn chúng ta đến
nhờ tặng ân ban sự sống của
Chúa Thánh Thần"
(xin xem cùng nguồn trích dẫn trên
đây)
Thứ tự Giáo Hội dâng kính Thiên Chúa Ba Ngôi vào 3 năm kết thúc chung thiên niên thứ hai và riêng thế kỷ 20 này trên đây còn được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Ðang Ðến của Ngài, ở các đoạn 42, 46 và 50, ghép vào việc chú trọng đến ba thần đức Tin, Cậy, Mến. Ở chỗ, năm 1997 dâng kính Chúa Kitô chú trọng đến việc thực hành Ðức Tin, năm 1998 dâng kính Chúa Thánh Thần chú trọng đến việc thực hành Ðức Cậy, và năm 1999 dâng kính Chúa Cha chú trọng đến việc thực hành Ðức Mến.
Nếu đối tượng của Ðức Tin là Lời Chúa, thì quả thật Giáo Hội cần phải khởi hành cuộc lữ thữ trần gian của mình từ Chúa Kitô là Lời nhập thể. Nếu đối tượng của Ðức Cậy là Ơn Chúa, thì quả thật Giáo Hội cần phải tiến hành cuộc lữ thữ trần gian của mình nhờ Chúa Thánh Thần là Tặng Ân Thiên Chúa. Và nếu đối tượng của Ðức Mến là Tình Chúa, thì quả thật Giáo Hội cần phải hướng về và đạt đến đích điểm lữ hành trần gian của mình là Chúa Cha, Ðấng xót thương và trọn lành trên trời (x.Mt.5:48; Lk.6:36).
Trong năm thứ hai của giai đoạn Giáo Hội sửa soạn trực tiếp vào việc dọn mừng Ðại Năm Thánh 2000 được dâng kính Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu Ðấng trong Ba Ngôi vẫn được ít biết đến nhất và ít nói đến nhất.
Là Kitô hữu, chúng ta hãy nhớ rằng: Nếu Ngôi Cha là Thiên Chúa ở trên trời, và Ngôi Con là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt.1:23; Is.7:14; x.Jn.1:14), thì Ngôi Thánh Thần là Thiên Chúa ở trong mỗi người chúng ta, để dẫn từng người chúng ta "vào tất cả sự thật" (Jn.16:13) là hoàn toàn đạt đến tầm vóc trọn vẹn của Chúa Kitô là đầu (x.Eph.4:13,15), tức hoàn toàn "được nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Jn.17:21).
Phải, để Kitô hữu chúng ta có thể hoàn toàn được thần hiệp với Thiên Chúa như thế, hay hoàn toàn được hiệp thông với Sự Sống Thần Linh là Sự Sống Ba Ngôi cũng thế, Chúa Thánh Thần, như Chúa Giêsu nói, phải "lấy những gì từ Thày mà truyền đạt cho các con" (Jn.16:15), nghĩa là Ngài phải hình thành nơi mỗi người chúng ta một "Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt.16:16), hay nói cách khác, Ngài sẽ làm cho Chúa Kitô Phục Sinh tiếp tục sống động trong chúng ta và tỏ mình qua chúng ta, nhờ đó, chúng ta trở thành nhân chứng đích thực của Chúa Kitô, và nhờ đó, thế gian sẽ nhận biết Chúa Kitô nơi chúng ta: "Con ở trong họ, Cha ở trong Con, cho sự hiệp nhất của họ được nên trọn, để thế gian nhận biết rằng Cha đã sai Con, và Cha đã thương họ cũng như yêu Con" (Jn.17:23).
Như thế, Chúa Thánh Thần đúng là "tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ vào lòng chúng ta" (Rm.5:5) để Kitô hữu chúng ta có đủ tư cách và khả năng yêu mến Thiên Chúa như Thiên Chúa là, nhờ đó có thể nên một với Thiên Chúa như ý định của Thiên Chúa muốn tỏ mình ra cho loài người chúng ta, và nhờ đó có thể làm cho thế gian nhận biết Thiên Chúa là Ðấng "muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý" (1Tim.2:4).
Chúa Thánh Thần ở đây, từ lòng Kitô hữu chúng ta, qủa là một "Mạch Nước Vọt Lên Sự Sống Ðời Ðời" (Jn.7:37).
Mạch Nước Thánh Linh này đã bắt đầu vọt lên sự sống đời đời là Chúa Giêsu Kitô (x.1Jn.1:2) từ cung lòng Mẹ Maria. Thật thế, trong toàn thể thụ tạo nói chung và loài người nói riêng, chỉ có một mình Mẹ Maria "đầy ơn phúc" (Lk.1:28). Bởi thế, chỉ có một mình Mẹ mới hoàn toàn xứng đáng là Bạn Tình chí ái của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Thánh Thần đã yêu thương Mẹ đến nỗi, Mẹ tới với ai là người ấy cũng sẽ được "đầy Thánh Linh" (Lk.1:41) và nhờ đó họ sẽ nhận biết "Giêsu quả phúc bởi lòng Mẹ" (Lk.1:42), như trường hợp của thai nhi Gioan cùng với thai mẫu Isave của thánh nhân.
Thánh Louis Gnignion de Montfort đã xác nhận vai trò của Mẹ Maria trong công cuộc thánh hóa của Chúa Thánh Thần như sau:
"Thiên Chúa Ngôi Thánh Thần, một Ngôi Vị son sẻ nơi Thiên Chúa - nói cách khác, nghĩa là Ngài không làm phát sinh ra một Ngôi Vị Thần Linh nào khác - đã sinh hoa kết trái nhờ Mẹ Maria, Ðức Nữ Trinh mà Ngài đã kết duyên. Với Mẹ, trong Mẹ và từ Mẹ Chúa Thánh Thần đã tác sinh Tuyệt Phẩm của Ngài, đó là Thiên Chúa làm Người, và Ngài tiếp tục tác sinh hằng ngày, cho đến tận thế, thành phần được tiền định và các phần thể thuộc Thân Mình của Ðầu khả tôn này. Ðó là lý do tại sao Ngài, Chúa Thánh Thần, càng thấy Mẹ Maria là bạn tình yêu dấu bất khả phân ly của Ngài nơi một linh hồn nào, thì Ngài càng trở nên sinh động và dồi dào trong việc tác sinh Chúa Giêsu Kitô nơi linh hồn ấy, cũng như tác sinh linh hồn ấy trong Chúa Giêsu Kitô. Nói như thế chúng tôi không có ý nói là Ðức Mẹ ban cho Chúa Thánh Thần sinh lực phong phú như thể tự Ngài không có vậy... Chúng tôi chỉ có ý nói là Chúa Thánh Thần đã quyết chọn dùng Ðức Mẹ, dù Ngài tuyệt đối không cần đến Mẹ, để làm cho sinh lực phong phú của Ngài được thể hiện, bằng việc tác sinh nơi Mẹ và nhờ Mẹ Chúa Giêsu Kitô cùng các chi thể của Chúa Giêsu - một mầu nhiệm ân sủng kín mật đối với cả những Kitô hữu khôn ngoan và đạo đức nhất" (Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 20-21).
Như đã nói tiên tri rất chính xác về số phận cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của ngài (xem đoạn 114), Thánh Montfort còn nói tiên tri về vai trò của Mẹ Maria vào thời tận thế nữa:
Cùng với Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria đã sản sinh ra một điều cao cả nhất chưa bao giờ có hay sẽ không bao giờ có - đó là một Thiên Chúa làm Người; và nhờ đó, Mẹ sẽ sản sinh ra các vị đại thánh, những vị thánh sẽ xuất hiện vào ngày tận thế. Việc đào tạo và giáo huấn những vị đại thánh sẽ xuất hiện vào ngày tận thế là việc dành riêng cho Mẹ" (đoạn 35).
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta hiểu được 33 bài Giáo Lý về Chúa Thánh Thần hết sức sâu xa và đầy đủ của chính vị Giáo Hoàng "Totus Tuus" của Mẹ.
Cuốn sách này chính yếu gồm có 33 bài Giáo Lý về Chúa Thánh Thần của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, những bài giáo lý được người dịch chọn lọc từ tổng số 80 buổi giáo lý do chính ngài đích thân hướng dẫn chung tại Ðại Thính Ðường Phaolô VI vào các ngày Thứ Tư hằng tuần, trong thời khoảng từ ngày 24-6-1989 đến ngày 3-7-1991, và đã được tuần san L'Osservatore Romano ấn bản Anh Ngữ phổ biến.
33 bài Giáo Lý về Chúa Thánh Thần này được người dịch chia ra làm ba phần, dựa theo lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samaritanô về những ai uống nước Người ban cho và được nước của Người tác dụng nơi họ phát sinh một "Mạch Nước Vọt Lên Sự Sống Ðời Ðời".
Phần nhất của cuốn sách là 14 bài Giáo Lý về Ngôi Vị và sự Hiện Diện của Chúa Thánh Thần, một Vị Thiên Chúa ẩn thân như một nguồn "Mạch" song lại vô cùng dồi dào để tuôn ban như một "Mạch Nước".
Phần hai của cuốn sách là 8 bài Giáo Lý về Biến Cố Hiện Xuống của Chúa Thánh Thần, một biến cố chính thức tỏ mình của Chúa Thánh Thần, chẳng khác gì như việc "Vọt Lên" vô cùng mãnh liệt của "Mạch Nước" Thần Linh này.
Phần ba của cuốn sách là 11 bài Giáo Lý về Tác Ðộng và Hoa Trái của Chúa Thánh Thần làm phát sinh "Sự Sống Ðời Ðời" nơi chung Giáo Hội cũng như mỗi Kitô hữu, để nhờ đó Ngài có thể thực hiện sứ vụ của Ngài trong việc canh tân bộ mặt trái đất.
Nếu để ý độc giả hay thính giả sẽ thấy, trong mỗi bài hay mỗi buổi Giáo Lý về Chúa Thánh Thần, (tất nhiên kể cả các bài giáo lý chủ đề khác cũng thế), Ðức Thánh Cha thường chứng minh đầu đề của từng bài giáo lý này bằng mạc khải Thánh Kinh, có những chỗ ngài dẫn chứng bằng cả Thánh Truyền, nhất là của Thánh Giáo Phụ Augustinô, có những chi tiết ngài lấy thần học giải thích, nhất là thần học theo Thánh Tiến Sĩ Thiên Thần Tôma, thỉnh thoảng ngài cũng viện dẫn thêm niềm tin của Giáo Hội, được diễn đạt qua Phụng Vụ, nhất là qua Công Ðồng Chung Vaticanô II.
Do đó, khi đọc kỹ hay lắng nghe xong một bài giáo lý của Ðức Thánh Cha, như các bài Giáo Lý về Chúa Thánh Thần trong cuốn "Mạch Nước Vọt Lên Sự Sống Ðời Ðời" này, chúng ta sẽ thấu triệt được từng đầu đề (nghĩa là từng vấn đề hay từng khía cạnh) về Chúa Thánh Thần. Ðể rồi, sau khi đọc xong cuốn sách tổng hợp 33 bài Giáo Lý về Chúa Thánh Thần chọn lọc này, Vị Thiên Chúa Mầu Nhiệm mang danh xưng đích thực là Thần Linh có thể được sáng tỏ hơn trước tâm thức của chúng ta, nhờ đó, chúng ta dễ cảm mến và gắn bó với Ngài hơn, trong việc thánh hóa bản thân cũng như trong việc cùng với Ngài canh tân bộ mặt trái đất vào thời điểm khẩn cấp hiện nay, Thời Ðiểm Maria, thời điểm của Người Bạn Tình Chí Ái của Ngài!
Khởi dịch Lễ Mẹ
Thiên Chúa, 1-1-1998
Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL