Tĩnh tâm Mùa Vọng 2019
của giáo triều Rôma:
Bài ca Magnificat của Ðức Mẹ
Tĩnh tâm Mùa Vọng 2019 của giáo triều Rôma: Bài ca Magnificat của Ðức Mẹ.
J.B. Ðặng Minh An dịch
Vatican (VietCatholic News 14-12-2019) - Lúc 9g sáng thứ Sáu 13 tháng 12 năm 2019, tại nhà nguyện Mẹ Ðấng Cứu Chuộc trong điện Tông Tòa của Vatican, Ðức Thánh Cha và giáo triều Rôma đã tham dự buổi tĩnh tâm Tuần thứ Hai Mùa Vọng. Vị giảng thuyết là cha Raniero Cantalamessa, thần học gia, và là giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng.
Chủ đề của các bài thuyết giảng trong cuộc tĩnh tâm Mùa Vọng là một câu từ Phúc Âm theo Thánh Matthêu "Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người."
Trong phần thứ nhất, cha Raniero Cantalamessa giảng thuyết về bài ca Magnificat, khi Ðức Mẹ đi thăm bà Êlisabét. Phần thứ hai bàn về bài ca Magnificat trong ý hướng truyền giáo và hoán cải.
Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ:
Bài ca Magnificat của Ðức Mẹ
Trong bài suy niệm này, chúng ta cùng đi với Ðức Maria đến một "thành miền núi" và vào nhà bà Êlisabét. Ðức Maria nói một cách thân tình với từng người chúng ta qua bài vinh tụng ca của Mẹ, bài Magnificat. Hôm nay, Giáo Hội Công Giáo cử hành Kim Khánh linh mục của người kế vị Thánh Phêrô và bài ca của Ðức Maria là lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim một cách tự nhiên trong hoàn cảnh như thế này. Thiết tưởng, một bài suy niệm về bài ca này là một cách đơn sơ của chúng ta để kỷ niệm sự kiện đó.
Ðể hiểu được vị trí và ý nghĩa của bài thánh ca của Ðức Maria, chúng ta cần nói ít điều về các bài ca vịnh nói chung. Trong các trình thuật Phúc Âm về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, các ca vịnh - Benedictus, Magnificat, Nunc dimittis - được dùng để giải thích những gì xảy ra một cách siêu nhiên, nghĩa là, để tăng cường ý nghĩa của các sự kiện Truyền tin, Thăm viếng, và Giáng sinh, làm cho các biến cố này trở thành một hình thức tuyên xưng đức tin và ngợi khen [tán tụng Chúa]. Các bài ca ấy nhấn mạnh đến ý nghĩa tiềm tàng của các sự kiện cần phải được đưa ra ánh sáng.
Như thế, các ca vịnh là một phần không thể thiếu trong trình thuật lịch sử và không chỉ là các đọan xen kẽ hay các đoạn riêng biệt, bởi vì mọi sự kiện lịch sử được tạo thành từ hai yếu tố: sự kiện và ý nghĩa của sự kiện. Có lời chép rằng "Phụng vụ Kitô giáo bắt đầu bằng những ca vịnh về thời thơ ấu [của Chúa Giêsu]". (H. Sch#rmann). Nói cách khác, những ca vịnh này chứa đựng phụng vụ Giáng sinh trong một giai đoạn phôi thai. Chúng là sự hoàn thành các yếu tố thiết yếu của phụng vụ, vốn là một cử hành hân hoan của đức tin trong biến cố cứu độ.
Theo các học giả Kinh Thánh, đến nay vẫn còn nhiều vấn đề vẫn chưa được giải quyết về các ca vịnh này: chẳng hạn như những ai là các tác giả thực sự, những nguồn gốc, và cấu trúc. May mắn thay, chúng ta có thể để lại tất cả những vấn đề này cho các nhà phê bình tiếp tục nghiên cứu chúng. Chúng ta không cần phải chờ đợi những điểm tối nghĩa này được giải quyết mà vẫn có thể được soi sáng bởi những ca vịnh này. Ðiều này không phải vì những vấn đề này không quan trọng, nhưng vì có một xác tín khiến cho tất cả những điều không chắc chắn ấy trở nên ít quan trọng hơn. Thánh Sử Luca đã chấp nhận những ca vịnh này trong Phúc Âm của ngài và Giáo Hội đã chấp nhận Phúc Âm của Thánh Luca trong Giáo Luật của mình. Những ca vịnh này là "Lời Chúa" được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần.
Bài Magnificat là bài ca của Ðức Maria vì Chúa Thánh Thần đề cập đến Mẹ và điều này làm cho ca vịnh này là "của Mẹ" còn mạnh mẽ hơn cả yếu tố là liệu Mẹ có thực sự tự viết ra ca vịnh này hay không! Trên thực tế, chúng ta không thực sự quan tâm đến việc liệu Ðức Maria có sáng tác ra bài Magnificat hay không nhưng là liệu Mẹ có sáng tác ca vịnh ấy theo cảm hứng của Chúa Thánh Thần hay không. Cho dù chúng ta có chắc chắn rằng Ðức Maria đã sáng tác ra bài này đi nữa, chúng ta sẽ không quan tâm đến điều đó cho bằng sự kiện là Chúa Thánh Thần nói với chúng ta qua bài ca này.
Ca vịnh của Ðức Maria là một cách mới để nhìn Thiên Chúa và thế giới. Trong phần đầu tiên bao gồm các câu từ 46 đến 50, theo sau những gì đã xảy ra nơi Mẹ, ánh mắt Ðức Maria hướng về phía Thiên Chúa; trong phần thứ hai bao gồm những câu thơ còn lại, ánh mắt của Mẹ hướng về thế giới và lịch sử.
Một cái nhìn mới về Thiên Chúa
Ðộng thái đầu tiên trong Magnificat là hướng về Thiên Chúa; Thiên Chúa có tính ưu việt tuyệt đối so với mọi thứ khác. Ðức Maria không chậm trễ trong việc đáp lại lời chào của bà Êlisabét, Mẹ cũng không tham gia vào cuộc thảo luận với con người, nhưng với Thiên Chúa. Mẹ hồi tưởng lại bản thân và đắm mình trong Thiên Chúa vô hạn. Một kinh nghiệm khôn sánh về Thiên Chúa đã được "chỉnh sửa" trong Magnificat cho mọi thời đại. Ðó là ví dụ tuyệt vời nhất của cái gọi là ngôn ngữ siêu nhiên. Người ta thấy rằng khi một thực tại thiêng liêng được mạc khải cho một linh hồn, nó thường tạo ra hai tình cảm trái ngược nhau: sợ hãi và yêu mến, ngỡ ngàng và cuốn hút. Thiên Chúa mạc khải chính Ngài như một mầu nhiệm "uy nghi và hấp dẫn", "uy nghi vì sự vĩ đại của Ngài", "hấp dẫn vì lòng nhân hậu của Ngài". Khi ánh sáng của Thiên Chúa lần đầu tiên chiếu vào ngài, Thánh Augustinô thú nhận: "Tôi run rẩy vì tình yêu và nỗi sợ" và thậm chí cả những tiếp xúc sau đó với Chúa cũng khiến ngài "vừa run rẩy vừa rực cháy". [1]
Chúng ta tìm thấy một cái gì đó tương tự nơi bài ca của Ðức Maria, được thể hiện bằng Kinh thánh, thông qua các tước hiệu được sử dụng. Thiên Chúa được gọi là Adonai [tiếng Hêbrơ, nghĩa là Ðức Chúa - chú thích của người dịch] (có ý nghĩa hơn nhiều so với thuật ngữ "Lord" chúng ta dùng để dịch), hay "Ðức Chúa", hay Ðấng Toàn Năng, và trên hết là Qadosh [tiếng Hêbrơ, nghĩa là Ðấng Chí Tôn Chí Thánh - chú thích của người dịch], danh Người thật chí thánh chí tôn! Tuy nhiên, cùng lúc đó, Thiên Chúa thật linh thiêng và toàn năng được mọi người tin tưởng, được xem như là "Ðấng Cứu Ðộ tôi", là một Ðấng nhân hậu và đáng yêu, một Thiên Chúa "của riêng ta", một Thiên Chúa đối với mọi loài thụ tạo của Ngài. Trên hết, chính sự nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thiên Chúa đã làm sáng tỏ lòng nhân từ và sự gần gũi của Người với loài người chúng ta. Lòng thương xót của Chúa từ đời này đến đời khác: những từ này cho thấy ý tưởng về lòng thương xót của Chúa như một dòng sông hùng vĩ chảy suốt lịch sử loài người.
Kiến thức về Thiên Chúa gợi lên, như một phản ứng và một sự tương phản, một nhận thức và kiến thức vừa mới mẻ vừa chân thực về chính mình và bản ngã của riêng mình. Bản ngã chỉ được nhận ra trước Coram Deo, nghĩa là trước Nhan Thánh Chúa. Ðây là những gì xảy ra trong Magnificat. Ðức Maria cảm thấy được Chúa "nhìn đến"; Mẹ bước vào cái nhìn đó và thấy mình như Chúa thấy Mẹ. Và Mẹ nhìn thấy mình thế nào trong ánh sáng thánh thiêng này? Thưa, như là người nữ tì "hèn mọn" (ở đây, "sự khiêm nhường" có nghĩa là sự nhỏ bé và thấp hèn thật sự chứ không phải là nhân đức khiêm nhường!). Mẹ thấy mình là "một nữ tì" của Chúa. Mẹ thấy mình chẳng là gì để Chúa đoái thương nhìn đến. Ðức Maria không cho rằng sự lựa chọn của Chúa là vì đức tính khiêm nhường của mình, nhưng vì ân sủng của Chúa. Nghĩ khác đi sẽ có nghĩa là tiêu diệt sự khiêm nhường của Ðức Maria. Ðức tính này có một cái gì đó rất đặc biệt: ta có đức tính này khi nghĩ rằng mình không có, và ta không có đức tính này khi nghĩ rằng mình có nó.
Từ nhận thức này về Thiên Chúa, về chính Mẹ và về chân lý, bùng lên niềm vui và niềm hân hoan: thần trí tôi hớn hở vui mừng... niềm vui của sự thật bùng nổ, niềm vui trước kỳ công Chúa, một niềm vui của lời tán tụng thuần khiết và nhưng không. Ðức Maria tán dương Thiên Chúa vì chính Ngài, cho dù Mẹ ca ngợi Chúa vì những gì Ngài đã làm nơi Mẹ; Mẹ tán dương Thiên Chúa vì kinh nghiệm cá nhân của riêng mình, như tất cả những người thờ phượng nổi bật được nhắc đến trong Kinh thánh. Niềm hân hoan của Ðức Maria là một sự hân hoan cánh chung cho hành động có tính quyết định của Thiên Chúa và đó là sự hân hoan của tạo vật vì được Ðấng Tạo Hóa của mình yêu thương, đó là niềm vui được phục vụ Ðấng Thánh, tình yêu, vẻ đẹp, sự vĩnh cửu. Ðó là sự viên mãn của niềm vui.
Thánh Bônaventura, người đã trực tiếp trải nghiệm những tác động biến đổi đối với một linh hồn được Thiên Chúa viếng thăm, đã mô tả sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần trước Ðức Maria tại thời điểm Truyền tin như một ngọn lửa bao trùm toàn bộ Ðức Mẹ:
Ngài viết: "Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ như một ngọn lửa thần thánh thổi vào tâm trí Mẹ và thánh hóa thân xác Mẹ, ban cho Mẹ một sự thuần khiết hoàn hảo nhất.... Ồ, giá mà bạn có thể cảm nhận được ở một mức độ nào đó ngọn lửa từ trời rơi xuống uy nghi và tuyệt vời như thế nào, cũng như sự tươi mát mà lửa ấy mang lại. Giá mà bạn có thể nghe thấy bài thánh ca tưng bừng của Ðức Trinh Nữ." [2]
Ngay cả những nhà khoa học nghiêm khắc và chính xác nhất cũng nhận thức được rằng chúng ta đang đối diện với những từ không thể hiểu được thông qua các phương thức phân tích triết học thông thường, và thừa nhận rằng: "Bất cứ ai đọc những dòng này đều được mời gọi để chia sẻ trong hân hoan; chỉ có cộng đồng cử hành của những người tin vào Chúa Kitô và những ai trung tín với Người mới có thể hiểu được những văn bản này." Nó được nói "trong Thần Khí" và không thể hiểu được nếu không ở trong Thần Khí.
Một cái nhìn mới về thế giới
Như tôi đã nói, Magnificat được tạo thành từ hai phần. Những gì thay đổi giữa phần thứ nhất và phần thứ hai không phải là ngôn ngữ được sử dụng, cũng chẳng phải là âm điệu. Từ quan điểm đó, bài ca này là một dòng chảy không bị gián đoạn, không có sự phá vỡ; các động từ tiếp tục ở thì quá khứ tường thuật lại những gì Chúa đã làm hay đúng hơn là những gì Ngài "đã bắt đầu làm". Chỉ có bối cảnh hành động Thiên Chúa đã thay đổi; từ những gì Ngài đã thực hiện "nơi Mẹ", chúng ta chuyển sang những gì Ngài đã làm cho thế giới và cho lịch sử. Nói cách khác, phần tiếp theo đề cập đến những tác động từ việc Chúa quyết định tỏ mình ra và điều đó ảnh hưởng thế nào đối với nhân loại và lịch sử.
Ở đây, chúng ta có một đặc điểm thứ hai của sự khôn ngoan được đề cập đến trong Kinh Thánh, trong đó kết hợp sự tỉnh táo trong cách nhìn thế giới với sự say sưa do sự tiếp xúc với Thiên Chúa mang đến, và cân bằng sự hân hoan và phó thác cho Thiên Chúa với chủ nghĩa hiện thực phê phán đối với lịch sử và con người. Trong phần thứ hai của Magnificat, sau khi vui mừng trong Chúa, Ðức Maria hướng ánh mắt sâu sắc của mình vào những gì đang xảy ra trên thế giới.
Sử dụng một loạt các động từ mạnh mẽ ở thời bất định, từ câu 51 trở đi, Ðức Maria mô tả một sự kéo xuống và đảo ngược triệt để các vị trí của con người: kẻ bị hạ bệ, người được nâng lên; người được ban của đầy dư, kẻ bị đuổi về tay trắng. Một bước ngoặt bất ngờ và không thể đảo ngược mọi thứ bởi vì đó là công việc của Thiên Chúa và Thiên Chúa không bao giờ thay đổi hoặc phản lại lời nói của chính mình như con người. Trong sự thay đổi này, hai nhóm khác nhau xuất hiện; một bên là những kẻ giàu có kiêu hãnh, và bên kia là những người đói khát khiêm nhường. Ðiều quan trọng là phải hiểu sự đảo ngược này và nó bắt đầu từ đâu nếu chúng ta muốn tránh những hiểu lầm về toàn bộ bài thánh ca này và cùng với nó là các mối phúc thật có thể được dự đoán ở đây trong gần như cùng những từ ngữ tương tự.
Chúng ta hãy nhìn vào lịch sử: những gì thực sự đã xảy ra khi biến cố được Ðức Maria nêu lên trong bài ca bắt đầu được thực hiện? Phải chăng sẽ có một cuộc cách mạng xã hội bên ngoài qua đó người giàu đột nhiên bị bần cùng hóa và người nghèo đói được nhận lãnh đầy những điều tốt đẹp? Phải chăng sẽ có một sự phân phối công bằng hơn giữa các tầng lớp xã hội? Không. Không phải đâu. Phải chăng kẻ quyền thế thực sự bị kéo xuống khỏi ngai vàng và người khiêm nhường được nâng lên? Không. Hêrôđê tiếp tục được gọi là "Ðức Vua" trong khi vì chính ông ta mà Ðức Maria và Thánh Giuse phải chạy trốn sang Ai Cập.
Nếu những gì được mong đợi chỉ là một sự thay đổi xã hội ở bề ngoài, thì lịch sử đã dạy chúng ta rằng điều đó không đúng. Vậy thì, sự đảo ngược này đã diễn ra ở đâu (vì nó đã diễn ra)? Thưa, nó đã diễn ra trong đức tin! Vương quốc của Thiên Chúa đã thể hiện ra mang lại một cuộc cách mạng thầm lặng nhưng triệt để. Như thể có thứ gì đó đột nhiên được phát hiện gây ra sự đảo lộn giá trị bất ngờ. Người giàu giống như những người đã tích lũy được khối tài sản lớn nhưng khi thức dậy vào một buổi sáng, họ thấy mình nghèo khổ vì sự mất giá đến một trăm phần trăm đã diễn ra chỉ sau một đêm. Trái lại, người nghèo và người đói khát được hưởng lợi vì họ sẵn sàng chấp nhận tình huống mới này và không sợ sự thay đổi mà nó sẽ mang lại: trái tim của họ đã sẵn sàng.
Như tôi đã đề cập, sự đảo ngược được Ðức Maria đề cập đến trong bài hát của Mẹ tương tự như những gì Chúa Giêsu công bố trong Các Mối Phúc Thật và trong dụ ngôn về người đàn ông giàu có. Ðức Maria nói về sự giàu có và nghèo khó bắt đầu từ Thiên Chúa; một lần nữa Mẹ nói Coram Deo, trước Nhan Thánh Chúa; Thiên Chúa, chứ không phải con người, là thước đo của Mẹ. Mẹ thiết lập nguyên tắc cánh chung có tính chung cuộc. Do đó, khi nói rằng chúng ta đang đối diện với một sự đảo ngược "trong đức tin", thì điều đó không có nghĩa là nó không thực tế và triệt để, hoặc không nghiêm chỉnh; nó nhiều hơn như thế rất nhiều. Ðây không phải là một mô hình được tạo ra bởi những con sóng trên cát mà con sóng tiếp theo sẽ cuốn trôi đi. Ðó là một sự giàu có vĩnh cửu và một sự nghèo đói cũng vĩnh cửu như thế.
Bài ca Magnificat, trường truyền giáo
Nhận xét về biến cố Truyền tin, Thánh Irênê (Irenaeus) nói rằng "Ðức Maria, lòng đầy hân hoan, đã thốt lên một cách tiên tri nhân danh Hội Thánh: Linh hồn ngợi khen Chúa." [3] Ðức Maria giống như nghệ sĩ độc tấu bắt đầu một giai điệu mà dàn hợp xướng phải hát theo. Ðiều này giải thích diễn đạt "Ðức Maria, mô hình của Giáo Hội" (typus Ecclesiae), được các Giáo Phụ sử dụng và được Công đồng Vatican II (LG 63) công nhận. Nói rằng "Ðức Maria là mô hình của Giáo Hội", có nghĩa là Mẹ là sự nhân cách hóa của Giáo Hội, là đại diện dễ nhận biết của một thực tại tâm linh; điều đó có nghĩa là Mẹ là mô hình gương mẫu của Giáo Hội theo nghĩa là ý tưởng về Giáo Hội được thực hiện hoàn hảo trước hết nơi Mẹ, đồng thời Mẹ là thành viên chính, là gốc rễ và trái tim của Giáo Hội.
Nhưng "Giáo Hội" có ý nghĩa gì ở đây và ở chỗ mà Thánh Irênê nói Ðức Maria hát bài Magnificat nhân danh Hội Thánh? Không phải nhân danh Giáo Hội về mặt danh nghĩa, nhưng là nhân danh một Giáo Hội thực sự, nghĩa là không phải một Giáo Hội trừu tượng, nhưng là một Giáo Hội cụ thể, bao gồm những người và những linh hồn tạo nên Giáo Hội. Magnificat không chỉ được đọc mà còn được sống. Mỗi người trong chúng ta nên biến nó thành của riêng mình; thành bài thánh ca của chúng ta. Khi chúng ta nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa", thì chữ "tôi" ấy phải là một tham chiếu trực tiếp. Thánh Ambrôsiô đã viết: "Xin cho linh hồn Ðức Maria ở trong anh chị em để anh chị em hân hoan trong Chúa.... Ðúng là về phương diện thể lý Mẹ của Chúa Kitô chỉ có một, nhưng tất cả các linh hồn đều có Chúa Kitô trong đức tin bởi vì mỗi tín hữu đều đón nhận vào chính mình Lời của Thiên Chúa." [4]
Dưới ánh sáng của những nguyên tắc này, bây giờ chúng ta hãy cố gắng áp dụng bài ca của Ðức Maria cho chính chúng ta, cho Giáo Hội và các linh hồn, để học biết những gì chúng ta phải làm để có thể "nên giống như" Ðức Maria không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động.
Khi Ðức Maria loan báo việc hạ bệ những người quyền thế và kiêu hãnh, bài Magnificat nhắc nhở Giáo Hội về thông điệp thiết yếu mà Giáo Hội phải công bố với thế giới. Bài ca ấy dạy Giáo Hội phải có tính "tiên tri". Giáo Hội sống và thực hành bài thánh ca của Ðức Trinh Nữ khi Giáo Hội lặp lại cùng với Ðức Maria: "Chúa hạ bệ những ai quyền thế, người giàu có, lại đuổi về tay trắng!" Giáo Hội lặp lại điều này với đức tin, tạo ra sự khác biệt giữa điều này và tất cả các lời loan báo khác, Giáo Hội cũng có quyền kêu gọi sự chú ý đến công lý, hòa bình và trật tự xã hội vì Giáo Hội là thông dịch viên về luật tự nhiên được công nhận và là người bảo vệ các lệnh truyền của Chúa Kitô về tình huynh đệ.
Hai tầm nhìn [về Thiên Chúa và về thế giới] tuy khác biệt, nhưng chúng không tách biệt và có ảnh hưởng tương tác với nhau. Việc tuyên xưng đức tin về những gì Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ (tầm nhìn về Thiên Chúa trong Magnificat) trở thành dấu chỉ tốt nhất về những gì con người đến lượt mình phải làm trong lịch sử cá nhân của mình, và, đúng hơn là những gì bản thân Giáo Hội, về phương diện bác ái, phải làm đối với những người giàu có, liên quan đến ơn cứu rỗi của họ. Magnificat không phải là lời "kích động việc hạ bệ những kẻ quyền thế khỏi ngai vàng của họ nhằm nâng lên những người khiêm nhường", nhưng đó là lời cảnh báo lành mạnh dành cho người giàu có và quyền thế về nguy cơ to lớn mà họ gặp phải như trong câu chuyện ngụ ngôn về ông phú hộ, được Chúa Giêsu đưa ra sau này.
Do đó, Magnificat không phải là cách duy nhất để đối mặt với vấn đề mà ngày nay có thể cảm nhận rõ rệt hơn bao giờ là giàu có và nghèo đói, là đói khát và thừa mứa. Có những cách hợp pháp khác đến với chúng ta từ lịch sử, chứ không phải từ đức tin, mà các Kitô hữu hỗ trợ và Giáo Hội phân định. Nhưng cách thế được nêu trong Kinh thánh phải được Giáo Hội công bố luôn luôn cho tất cả mọi người như là một nhiệm vụ đặc thù của mình và qua đó Giáo Hội hỗ trợ những nỗ lực chung của tất cả những người thiện chí. Ðiều này luôn luôn có giá trị phổ quát và có liên quan. Nếu tình cờ có một lúc, một nơi nào đó không còn bất công hay bất bình đẳng xã hội giữa con người với nhau, mọi người đều giàu có và hài lòng, thì Giáo Hội vẫn phải tuyên bố, như Ðức Maria đã làm, rằng người giàu có, Chúa đuổi về tay trắng. Trên thực tế, Giáo Hội còn phải công bố điều đó với một nhiệt tình thậm chí còn lớn hơn nữa. Magnificat có liên quan ở các nước giàu có cũng như ở các nước thuộc Thế giới thứ ba.
Có những kế hoạch và những khía cạnh của cuộc sống chỉ có thể nắm bắt được với sự trợ giúp của một ánh sáng đặc biệt, mắt trần thôi thì không đủ; chúng ta cần tia hồng ngoại hoặc tia cực tím. Hình ảnh mà ánh sáng đặc biệt này mang lại rất khác biệt và đáng ngạc nhiên đối với những người đã quen nhìn thấy những hiện tượng tương tự trong ánh sáng tự nhiên. Nhờ lời của Thiên Chúa, Giáo Hội có một hình ảnh khác về tình hình thế giới, là hình ảnh duy nhất lâu dài, bởi vì nó có được nhờ ánh sáng của Thiên Chúa và đó là hình ảnh mà chính Thiên Chúa có. Giáo Hội không thể cất giấu hình ảnh này. Nhưng Giáo Hội phải truyền bá nó một cách không mệt mỏi, làm cho nó được mọi người biết đến vì phần số đời đời của họ đang bị đe dọa. Ðó là hình ảnh sẽ còn lại khi "khuôn mẫu của thế giới" này qua đi. Ðôi khi Giáo Hội phải làm sáng tỏ điều này qua những từ đơn giản, trực tiếp và tiên tri, giống như những lời mà Ðức Maria đã sử dụng; qua đó, chúng ta bày tỏ những điều mà chúng ta tin tưởng một cách mật thiết và thanh thản. Ðiều này phải được thực hiện ngay cả với giá phải trả là thế gian, theo ý kiến và quan điểm phổ biến của thời đại, xem chúng ta là những kẻ dại khờ và bị tách biệt khỏi thế giới này.
Sách Khải Huyền cho chúng ta một ví dụ về ngôn ngữ tiên tri trực tiếp và táo bạo này, trong đó sự thật thánh thiêng trái ngược lại với ý kiến của con người: "Ngươi nói: 'Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi'; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng." (Kh 3:17).
Hãy nghĩ về câu chuyện nổi tiếng của Andersen, trong đó một số kẻ lừa đảo đã khiến một vị vua tin rằng có một chất liệu đẹp đẽ sẽ khiến những người mặc nó trở nên vô hình trước những kẻ ngu si và đần độn, và chỉ người khôn ngoan mới có thể nhìn thấy được. Trước hết, bản thân nhà vua không nhìn thấy điều đó nhưng ông ta sợ nói như vậy thì sẽ bị coi là một trong những kẻ ngu si đần độn và tất cả các văn võ bá quan cũng như thần dân của ông ta cũng cư xử theo cùng một cách như thế. Vì vậy, gần như hoàn toàn khỏa thân, nhà vua diễu hành qua đường phố và mọi người, để không tự phản bội chính mình, giả vờ chiêm ngưỡng chiếc áo choàng đẹp đẽ của ông ta cho đến khi vang lên tiếng trẻ con trong đám đông: "Nhưng nhà vua không mặc gì hết kia kìa!", điều đó đã đặt một dấu chấm hết cho trò này, và mọi người cuối cùng cũng có can đảm thừa nhận rằng những chiếc áo choàng nổi tiếng không hề tồn tại.
Giáo Hội phải giống như giọng nói trẻ con đó. Ðối với một thế giới mê đắm sự thịnh vượng của chính mình và với những ai cho thấy họ không tin vào mình, Giáo Hội lặp đi lặp lại những lời của sách Khải Huyền: "Ngươi không biết rằng ngươi là kẻ trần truồng!" Ðiều này cho thấy Ðức Maria đã thực sự "thốt lên một cách tiên tri nhân danh Hội Thánh" trong bài ca Magnificat: bắt đầu từ Thiên Chúa, Mẹ là người đầu tiên vạch trần sự cơ bần cùng cực của những kẻ giàu có trong thế giới này. Chính bài ca Magnificat biện minh cho danh hiệu "Ánh sao truyền giáo", mà Thánh Giáo Hoàng Phaolô Ðệ Lục xưng tụng Ðức Maria trong Tông huấn "Evangelii nuntiandi" - nghĩa là "Loan Báo Tin Mừng" - của ngài.
Bài ca Magnificat, trường học hoán cải
Tuy nhiên, giới hạn phần nói về kẻ kiêu hãnh và người khiêm nhường, kẻ giàu có và người nghèo đói của bài ca Magnificat trong phạm vi những gì Giáo Hội và các tín hữu phải thuyết giảng cho thế giới sẽ gây ra một sự hiểu nhầm hoàn toàn bài ca này. Chúng ta không chỉ đối diện với một cái gì đó phải được rao giảng nhưng trên hết, phải được thực hành. Ðức Maria có thể công bố mối phúc cho người khiêm tốn và nghèo khổ vì bản thân Mẹ là người khiêm tốn và thanh bần. Sự đảo ngược được Mẹ đề cập đến phải diễn ra đặc biệt là trong trái tim của bất cứ ai nói về bài ca Magnificat và cầu nguyện qua bài ca này. Ðức Maria nói: Chúa dẹp tan phường kiêu căng "trong lòng trí tâm hồn họ".
Thật bất ngờ, chủ đề chuyển từ ngoài vào trong, từ các cuộc thảo luận thần học trong đó mọi người đều đúng sang những suy nghĩ của con tim mà mọi người đều sai. Những ai sống cho bản thân mình, coi mình là thần minh của chính mình, chứ không phải Chúa, thì những người ấy đang tự xây dựng ngai vàng cho mình ngồi lên ra lệnh cho người khác. Giờ đây, Ðức Maria nói, Chúa đã hạ bệ những người ấy xuống khỏi ngai vàng của họ; Ngài đã vạch trần sự thiếu vắng chân lý và sự bất công của họ. Có một thế giới nội tâm được tạo thành từ những suy nghĩ, ý chí, mong muốn và đam mê, mà theo Thánh Giacôbê, luôn gây ra các cuộc chiến và xung đột, bất công và lạm dụng trong anh em (xem Gb 4: 1) và khi không ai cố gắng thay đổi tình trạng này từ gốc, sẽ không có gì thực sự thay đổi trên thế giới; và nếu có cái gì đó thay đổi đi chăng nữa thì chỉ sau một thời gian ngắn nó lại tái tạo một tình trạng tương tự như trước đây.
Như thế, chúng ta cảm động đến mức nào trước bài ca của Ðức Maria, bài ca ấy xem xét kỹ lưỡng chúng ta như thế nào và "chặt đứt các cội rễ" triệt để biết bao. Tôi sẽ ngu ngốc và bất nhất đến mức nào nếu hàng ngày, trong các giờ Kinh Chiều, tôi lặp lại cùng với Ðức Maria rằng "Chúa hạ bệ những ai quyền thế" trong khi đó tôi lại tiếp tục khao khát quyền lực, một vị trí cao hơn, thăng quan tiến chức, một sự nghiệp tốt hơn và đánh mất đi sự bình an nội tâm nếu tôi không thành công; và mỗi ngày tôi tuyên bố cùng với Ðức Maria rằng người giàu có, Chúa đuổi về tay trắng, nhưng đồng thời tôi lại khao khát không mệt mỏi sự giàu có và của cải cùng những thứ càng lúc càng thượng hạng hơn; và rồi tôi cũng thích trắng tay trước mặt Chúa hơn là trắng tay trước mắt thế gian. Tôi sẽ ngu ngốc đến mức nào nếu tôi tiếp tục nói với Ðức Maria rằng Chúa "nâng cao mọi kẻ khiêm nhường", Ngài gần gũi với họ, xa lánh phường kiêu căng và những kẻ giàu có, nhưng tôi lại làm điều ngược lại. Trong bài bình luận về bài ca Magnificat, Martin Luther viết,
Mỗi ngày chúng ta thấy rằng mọi người đều nhắm quá cao, vào các vị trí danh dự, quyền thế, sự giàu có, quyền thống trị, một cuộc sống thoải mái hơn, và vào bất cứ điều gì mang lại cho họ tầm quan trọng. Và tất cả chúng ta đều thích làm bạn với những người như vậy; chúng ta chạy theo họ, sẵn lòng phục vụ họ, chia sẻ sự vĩ đại của họ. Không ai muốn nhìn xuống những nơi thấp hơn, là những nơi đang ngự trị nghèo đói, ô nhục, túng quẫn, phiền não và thống khổ. Thay vào đó, chúng ta đảo mắt khỏi những điều như vậy. Chúng ta trốn tránh và tránh xa những người đang gặp rắc rối và để mặc họ ra sao thì ra. Không ai nghĩ đến việc giúp đỡ hoặc chìa ra một bàn tay cho họ hoặc làm bất cứ điều gì để giúp họ trở thành một cái gì đó; họ phải ở lại bậc thang thấp hèn và bị coi thường [5].
Ðức Maria nói rằng Chúa làm điều ngược lại; Ngài xa lành phường kiêu căng và nâng dậy những ai khiêm nhường và không quan trọng; Ngài sẵn sàng gần gũi hơn với những người nghèo khổ và đói khát đang quấy rầy Ngài với những lời cầu xin và các thỉnh cầu hơn là với những người giàu có và hài lòng, những người không cần đến Ngài và không xin sự gì nơi Ngài. Vì thế, với sự dịu dàng từ mẫu, Ðức Maria khuyên chúng ta bắt chước Chúa và biến lựa chọn của Ngài thành lựa chọn của chính chúng ta. Mẹ dạy chúng ta đường lối Chúa. Magnificat thực sự là một trường học tuyệt vời của sự khôn ngoan theo Kinh thánh, và là một trường hoán cải liên tục.
Thông qua sự hiệp thông của các thánh trong Nhiệm Thể, toàn bộ di sản to lớn này giờ đây gắn bó với bài ca Magnificat. Ðây là cách bài ca này phải được hát, đó là đồng ca với tất cả các tín hữu trong Giáo Hội. Ðây là cách làm cho Chúa vui thích. Ðể trở thành một phần của dàn đồng ca đã phát triển trong suốt nhiều thế kỷ, tất cả những gì chúng ta phải làm là dâng lên Thiên Chúa tình cảm và ý hướng muốn chuyển tải của Ðức Maria, là người đầu tiên hát lên "nhân danh Giáo Hội", nhân danh các học giả đã nhận xét về bài ca này, nhân danh những nhạc sĩ đã phổ nhạc ca vịnh ấy trong đức tin, nhân danh những người mộ đạo và nhân danh những người khiêm nhượng trong lòng đã sống bài ca ấy. Nhờ có bài thánh ca tuyệt vời này, Ðức Maria tiếp tục tán dương Chúa cho tất cả các thế hệ. Tiếng hát của Mẹ, như tiếng hát của một người dẫn hát, hỗ trợ và mang theo cùng tiếng hát của Mẹ tiếng hát của Giáo Hội.
Vịnh gia mời tất cả chúng ta cùng tham gia: "Hãy cùng tôi ngợi khen Ðức Chúa," (Tv 34: 4). Ðức Maria lặp lại những lời tương tự với chúng ta, là con cái của Mẹ. Nếu tôi được phép diễn giải tâm trí của Ðức Thánh Cha trong ngày Kim Khánh linh mục này của ngài, thì ngài cũng nói cùng chúng ta: "Hãy cùng tôi ngợi khen Ðức Chúa!" Và chúng ta hứa sẽ làm điều đó.
- - - - - - - - -
[1] x. Thánh Augustinô, Tự Thú, VII, 16; XI, 9.
[2] Thánh Bonaventure, Lignum vitae - Rừng sự sống, I, 3.
[3] Thánh Irênê, Adv. Haer., III, 10, 2 (SCh 211, trang 118).
[4] x. Thánh Ambrôsiô, Luận về các trinh nữ, I, 31 (PL 16, 208).
[5] Weimar ed., 7, tr. 547.
(Source: RANIERO CANTALAMESSAMy Soul Proclaims the Greatness of the Lord)