Bài giảng của cha Raniero Cantalamessa
Bài tĩnh tâm thứ nhất Mùa Vọng của giáo triều Rôma
Bài giảng của cha Raniero Cantalamessa - Bài Tĩnh tâm thứ nhất Mùa Vọng của giáo triều Rôma.
J.B. Ðặng Minh An dịch
Vatican (VietCatholic News 06-12-2019) - Sáng thứ Sáu 6 tháng 12 năm 2019, tại nhà nguyện Mẹ Ðấng Cứu Chuộc trong điện Tông Tòa của Vatican, Ðức Thánh Cha Phanxicô và giáo triều Rôma đã tham dự buổi tĩnh tâm Mùa Vọng. Vị giảng thuyết là cha Raniero Cantalamessa, thần học gia, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng.
Dưới đây là bản dịch Việt Ngữ:
Phần 1: Ðức Maria trong biến cố truyền tin
Bài tĩnh tâm thứ nhất Mùa Vọng của cha Raniero Cantalamessa, OFMCap
Em thật có phúc, vì đã tin!
Mỗi năm phụng vụ dẫn chúng ta đến lễ Giáng sinh với ba người hướng dẫn: tiên tri Isaia, Thánh Gioan Tiền Hô và Ðức Maria, như thế, chúng ta có một tiên tri, một người loan báo, và một người mẹ. Vị đầu tiên tuyên bố Ðấng Cứu Thế từ xa, vị thứ hai chỉ cho chúng ta thấy Người có mặt trên thế giới, và vị thứ ba mang Người trong cung lòng mình. Mùa Vọng này tôi nghĩ chúng ta sẽ giao phó hoàn toàn cho Mẹ của Chúa Giêsu. Không ai tốt hơn Mẹ có thể chuẩn bị cho chúng ta chào đón sự ra đời của Ðấng Cứu Chuộc chúng ta.
Mẹ không cử hành Mùa Vọng, Mẹ sống Mùa Vọng trong xương trong thịt mình. Giống như mọi bà mẹ sinh con, Mẹ biết ý nghĩa của việc chờ đợi ai đó và có thể giúp chúng ta tiến đến lễ Giáng Sinh với một đức tin trông mong. Chúng ta sẽ chiêm ngưỡng Mẹ Thiên Chúa trong ba thời điểm mà Kinh Thánh trình bày Mẹ ở trung tâm của các sự kiện: Truyền tin, Thăm viếng và Giáng sinh.
"Nầy, tôi là nữ tỳ của Chúa"
Chúng ta bắt đầu với biến cố Truyền tin. Khi Ðức Maria đến thăm bà Êlisabét, người chị họ này chào đón Ðức Maria với niềm vui dạt dào và khen ngợi Mẹ vì đức tin của Mẹ "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1:45). Ðiều kỳ diệu đã xảy ra ở Nagiarét sau lời chào của thiên thần là Ðức Maria đã "tin" và vì thế Mẹ đã trở thành "Mẹ của Chúa." Chúng ta không có chút nghi ngờ rằng từ 'tin' ở đây đề cập đến câu trả lời của Ðức Maria với thiên thần: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền." (Lc 1:38).
Trong vài từ đơn giản này, hành động đức tin lớn nhất và quyết định nhất trong lịch sử đã diễn ra. Câu trả lời của Ðức Maria tiêu biểu cho "đỉnh cao của tất cả các hành vi tôn giáo trước mặt Thiên Chúa, bởi vì nó thể hiện, đến mức cao nhất, cả thái độ sẵn sàng thụ động lẫn thái độ sẵn sàng chủ động, khoảng trống sâu nhất đi kèm với sự sung mãn nhất." [1] Origen nói rằng như thể Ðức Maria đã nói với Thiên Chúa, 'Này tôi là tấm bảng để được viết trên đó: Xin Người Viết cứ viết bất cứ điều gì Ngài muốn, xin Thiên Chúa mọi loài làm cứ làm cho tôi như Ngài mong muốn' [ 2]. Ông đã so sánh Ðức Maria với một tấm bảng bằng sáp được dùng trong thời của ông. Ngày nay, chúng ta có thể nói rằng Ðức Maria dâng mình cho Chúa như một tờ giấy trắng mà Chúa có thể viết bất cứ điều gì Ngài muốn.
Trong một khoảnh khắc, sẽ tồn tại trong mọi thời và còn mãi cho đến muôn đời, lời của Ðức Maria là lời của loài người và tiếng 'xin vâng' của Mẹ là tiếng Amen của mọi tạo vật để trả lời 'xin vâng' với Thiên Chúa (K. Rahner). Như thể Chúa một lần nữa thách thức sự tự do của tạo vật thông qua Mẹ, cho nó cơ hội được cứu chuộc. Ðây là ý nghĩa sâu sắc của sự đối ứng Evà - Maria, rất có ý nghĩa đối với các Giáo phụ của Giáo hội và tất cả các truyền thống. "Ðiều mà bà Evà đã trói buộc vì sự không tin của mình, thì Ðức Maria đã cởi trói qua đức tin của mình." [3]
Từ lời nói của bà Êlisabét "Em thật có phúc, vì đã tin" chúng ta lưu ý rằng trước đó Phúc Âm nói rằng việc Ðức Mẹ mang thai Chúa không chỉ có ý nghĩa vật lý nhưng, hơn thế nữa, điều này còn có một ý nghĩa thiêng liêng, dựa trên đức tin. Ðây là những gì Thánh Augustinô đã dựa vào khi ngài nói: "Ðức Trinh Nữ Maria đã hạ sinh Chúa với niềm tin mà Mẹ đã cưu mang trong lòng.... Khi được thiên thần truyền tin, Mẹ, tràn đầy niềm tin (fide plena), đã thụ thai Chúa Kitô trong tâm hồn mình trước khi Mẹ thụ thai Chúa trong cung lòng Mẹ, vì thế, Mẹ đáp lại: 'Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền.' Sự viên mãn trong đức tin về phía Ðức Maria tương ứng với sự viên mãn của ân sủng về phía Thiên Chúa, fide plena tương ứng với gratia plena.
Cô độc với Chúa
Thoạt nhìn, hành động đức tin của Ðức Maria có vẻ rất dễ dàng và thậm chí có thể được coi là điều đương nhiên. Mẹ sắp trở thành mẹ của một vị vua sẽ trị vì mãi mãi trong nhà của Giacóp, Mẹ của Ðấng Thiên Sai! Chẳng lẽ đó không phải là giấc mơ của mọi cô gái Do Thái sao? Nhưng đây là một cách suy luận khá nhân văn và trần tục. Ðức tin thực sự không bao giờ là một đặc quyền hay vinh dự; nó có nghĩa là chết đi một chút, và điều này đặc biệt đúng với đức tin của Ðức Maria tại thời điểm đó.
Trước hết, Thiên Chúa không bao giờ lừa dối và không bao giờ lặng lẽ bó buộc sự đồng ý của con cái mình bằng cách che giấu những hậu quả không cho họ biết những gì sẽ xảy đến. Chúng ta có thể thấy điều này trong mọi lời kêu gọi về phía Thiên Chúa. Ngài cảnh báo tiên tri Giêrêmia: "Chúng sẽ giao chiến với ngươi" (Jer 1:19), và để cho ông Anania nói với Saolô rằng: "Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta." (Cv 9:16). Liệu Người có hành động khác đi với riêng một mình Ðức Maria trước một sứ vụ như sứ vụ của Mẹ không? Trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần đi kèm với tiếng gọi của Chúa, Mẹ chắc chắn cảm nhận được rằng con đường Mẹ sẽ không có gì khác biệt so với tất cả "những người được chọn" khác. Trong thực tế, không lâu sau đó, ông Simêon sẽ diễn tả linh tính này thành lời, khi ông nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Mẹ.
Nhưng ngay cả trên bình diện người ta thường tình, Ðức Maria cũng thấy mình hoàn toàn cô độc. Mẹ giải thích làm sao về những gì đã xảy ra với Mẹ? Ai có thể tin Mẹ khi Mẹ nói rằng hài nhi mà Mẹ mang trong bụng là công việc của Chúa Thánh Thần? Ðây là điều chưa từng diễn ra trước đây và sẽ không bao giờ diễn ra lần nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa, Ðức Maria đã nhận thức rõ luật pháp sẽ được áp dụng thế nào nếu các dấu chỉ trinh tiết không được tìm thấy nơi một phụ nữ trẻ khi kết hôn: Mẹ sẽ bị đưa đến cửa nhà cha mình và bị những người đàn ông trong thành phố ném đá đến chết (xem Ðnl 22:20 f.).
Ngày nay chúng ta nhanh chóng nói về rủi ro của đức tin, và chúng ta thường muốn nói đến các rủi ro về mặt tri thức, nhưng Ðức Maria phải đối mặt với những rủi ro thực sự! Trong cuốn sách về Ðức Mẹ, Carlo Carretto đã nói với chúng ta về cách ông hiểu đức tin của Ðức Maria [4]. Khi ông sống ở sa mạc, ông đã nghe một số bạn bè người Tuareg nói rằng có một cô gái trẻ ở trong trại đã được hứa hôn với một chàng trai trẻ nhưng cô ta đã không đến sống với anh này vì cô ta còn nhỏ quá. Carretto đã liên kết thực tế này với những gì Thánh Sử Luca nói về Ðức Maria. Vì thế, hai năm sau đó, khi trở lại trại này, ông hỏi thăm về cô gái. Carretto nhận thấy có một sự ngượng ngùng nhất định nơi những người đang trò chuyện với mình, và sau đó, một người trong số họ, bí mật gặp ông, ra dấu cho ông thế này: anh ta dùng tay nắm cổ họng của mình trong cử chỉ đặc trưng của người Ả Rập khi họ muốn nói "Cổ họng của cô ta bị siết lại" Người ta đã phát hiện ra rằng cô ấy đã có con trước khi kết hôn, và cái chết của cô là điều cần thiết vì danh dự của gia đình. Rồi ông nghĩ đến Ðức Maria, về ánh mắt tàn nhẫn của người dân Nagiarét, về những cái nháy mắt ra hiệu, và ông hiểu sự cô độc của Ðức Maria, và ngay tối hôm đó, ông đã chọn Mẹ làm người bạn đồng hành và là vị bảo trợ đức tin.
Ðức Maria là người duy nhất đã tin tưởng vào một "tình huống tức thời", nghĩa là, Mẹ tin trong khi sự kiện đang được diễn ra và trước khi có bất kỳ xác nhận nào bởi sự kiện này hay bởi lịch sử. Mẹ tin trong một trạng huống hoàn toàn đơn lẻ. Chúa Giêsu nói với Tôma: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20:29). Ðức Maria là người đầu tiên không thấy mà tin.
Trong một tình huống có thể nói là một chiến thắng và một sự ngạc nhiên tương tự, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng tổ phụ Abraham, người đã được hứa sẽ có một con trai mặc dù ông đã lớn tuổi, "Ông tin ÐỨC CHÚA, và vì thế, ÐỨC CHÚA kể ông là người công chính". (Stk 15: 6). Và giờ đây chúng ta có thể nói chiến thắng của Ðức Maria còn vinh quang đến mức nào! Ðức Maria có niềm tin vào Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa xem Mẹ là người công chính - đó là hành vi công chính vĩ đại nhất được thực hiện trên trái đất bởi một con người, kế đó là hành vi công chính của Chúa Giêsu, tuy nhiên, Ngài cũng là Thiên Chúa.
Thánh Phaolô nói rằng "ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương" (2 Cor 9: 7), và Ðức Maria thốt lên tiếng 'xin vâng' đầy hân hoan. Ðộng từ Ðức Maria sử dụng để thể hiện sự đồng ý của Mẹ được dịch ra từ văn bản gốc là fiat, hay "xin cứ làm như vậy", là nói với một tâm trạng mong mỏi (genoito). Nó không thể hiện một sự chấp nhận cam chịu nhưng là một khát vọng sống động. Như thể Mẹ đang nói, tôi cũng vậy, tôi cũng mong muốn với tất cả lòng trí mình những gì Chúa muốn; hãy để ước muốn của Người nhanh chóng được thực hiện. Thật vậy, như thánh Augustinô đã nói, trước khi thụ thai Chúa Kitô trong thân xác mình, Mẹ đã hoài thai trong lòng mình.
Ðức Maria đã không sử dụng từ fiat trong tiếng Latinh; Mẹ cũng không sử dụng từ genoito trong tiếng Hy Lạp. Như thế Mẹ đã nói thế nào? Từ nào hoặc thành ngữ nào? Một người Do Thái sẽ nói gì khi muốn nói "xin vâng như thế"? Người ấy sẽ nói "Amen!" Nếu chúng ta cung kính cố gắng quay trở lại cái ipsissima vox, có nghĩa là, chính xác từ ngữ Ðức Maria sử dụng - hoặc ít nhất là từ ngữ đã tồn tại ở điểm này trong nguồn Hêbrơ mà Thánh Sử Luca sử dụng - nó thực sự phải là từ "amen". "Amen" - một từ Hêbrơ mà gốc gác của nó có nghĩa là sự kiên vững, sự tốt lành - được sử dụng trong phụng vụ như một câu trả lời trong đức tin đối với Lời Chúa. Mỗi lần trong bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Latinh, bản phổ thông Vulgate, nơi có từ fiat, thường xuất hiện ở cuối các thánh vịnh nhất định (trong phiên bản Septuagint, genoito, genoito), thì bên tiếng Do Thái gốc, mà Ðức Maria biết, là từ amen, amen!
Từ "amen" được dùng để nhìn nhận những gì được nói như là vững chắc, ổn định, hợp lệ, và ràng buộc. Cách dịch chính xác của từ này trong ngữ cảnh một câu trả lời đối với Lời Chúa là: "Chính thế, xin cho được như thế." Nó chỉ ra cả đức tin lẫn sự vâng phục; nó công nhận rằng những gì Chúa nói là đúng và ta phục tùng điều đó. Ðó là nói tiếng xin vâng với Chúa. Ðây là cách Chúa Giêsu sử dụng từ ấy: "Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha." (Mt 11:26). Hơn thế nữa, Chúa Giêsu là tiếng Amen được nhân cách hóa (xem Kh 3:14), và đó là lý do tại sao chúng ta nhờ Người mà thốt lên tiếng amen để tôn vinh Thiên Chúa (xem 2 Cor 1:20). Như tiếng fiat của Ðức Maria đi trước tiếng fiat của Chúa Giêsu trong vườn Giệtsimani thế nào, thì tiếng amen của Mẹ cũng đi trước Chúa Con. Ðức Maria cũng là một tiếng amen với Chúa được nhân cách hóa.
Phần 2: Noi gương Ðức Maria
Bài tĩnh tâm thứ nhất Mùa Vọng của cha Raniero Cantalamessa, OFMCap
Em thật có phúc, vì đã tin!
Noi gương Ðức Maria
Dấu vết còn lại trên mặt nước của một con tàu đáng yêu dần dần lan rộng cho đến khi nó biến mất hoàn toàn và hòa nhập với đường chân trời, nhưng nó bắt đầu từ chính con tàu. Ðiều tương tự cũng đúng với dấu vết của các tín hữu tạo nên Giáo Hội. Nó bắt đầu tại một thời điểm nhất định, và điểm này là đức tin của Ðức Maria, là lời fiat của Mẹ. Ðức tin, cùng với người em của mình, là đức cậy, là điều duy nhất không bắt đầu với Chúa Kitô nhưng bắt đầu với Giáo Hội, và do đó với Ðức Maria, là thành viên đầu tiên theo thứ tự thời gian và tầm quan trọng. Chúa Giêsu không thể là chủ thể của đức tin Kitô giáo vì Ngài là đối tượng của đức tin ấy. Thư gửi tín hữu Do Thái cho chúng ta một danh sách những người có đức tin: "Nhờ đức tin, ông Aben. ... Nhờ đức tin Ápraham. . . . Nhờ đức tin, ông Môise" (Dt 11:. 4 ff). Chúa Giêsu không được bao gồm trong danh sách này! Chúa Giêsu được gọi là "Ðấng khai mở và kiện toàn lòng tin" (Dt 12: 2), là Ðấng đức tin chúng ta dựa vào từ khởi thủy đến cùng tận, nhưng không phải một trong những tín hữu, cho dù là người đầu tiên đi chăng nữa.
Do đó, từ thực tại của niềm tin chúng ta thấy mình đang noi gương Ðức Maria, và bây giờ chúng ta muốn nhìn sâu hơn vào ý nghĩa của việc noi gương Ðức Mẹ. Từ việc đọc những gì liên quan đến Ðức Maria trong Kinh Thánh, chúng ta có thể thấy rằng Giáo Hội, ngay từ thời các Giáo Phụ, đã theo một tiêu chuẩn có thể được thể hiện như sau: Maria, vel Ecclesia, vel anima: nghĩa là "Ðức Maria, hay đúng hơn là Giáo Hội, hay đúng hơn là Linh hồn". Ý nghĩa của câu này là những gì được nói cách riêng về Mẹ Maria trong Kinh Thánh cũng muốn nói một cách phổ quát cho Giáo Hội, và những gì được nói một cách phổ quát cho Giáo Hội thì cũng muốn nói một cách cá vị cho mỗi tín hữu.
Theo nguyên tắc này, bây giờ chúng ta hãy xem đức tin của Ðức Maria nói gì trước hết đối với Giáo Hội nói chung và sau đó với mỗi người chúng ta, nói riêng. Như chúng ta đã từng làm với ân sủng, trước tiên chúng ta hãy nhấn mạnh ý nghĩa giáo hội học hoặc thần học của đức tin của Ðức Maria, và sau đó là những hệ quả có tính cách cá nhân hay khổ hạnh của đức tin ấy. Như thế, cuộc sống của Ðức Mẹ không chỉ hữu ích trong việc phát triển lòng đạo đức riêng của chúng ta mà còn giúp chúng ta hiểu sâu hơn về Lời Chúa và các vấn đề của Giáo Hội.
Trước hết, Ðức Maria nói với chúng ta về tầm quan trọng của đức tin. Không thể có âm thanh hay âm nhạc nếu không có tai để nghe, cho dù có bao nhiêu giai điệu hay hợp âm cao siêu tràn ngập không khí đi chăng nữa. Chẳng có ân sủng, hoặc có đi nữa thì ân sủng cũng không thể hoạt động được, nếu không có đức tin để chấp nhận nó. Giống như mưa không thể nảy mầm bất cứ thứ gì trừ khi nó rơi xuống mảnh đất có thể hấp thụ nó, cũng thế, ân sủng đòi phải có đức tin. Chính nhờ đức tin mà chúng ta nhạy cảm với ân sủng. Niềm tin là nền tảng cho mọi thứ; nó là cái trước hết và tốt nhất trong số các việc lành phúc đức. Chúa Giêsu nói việc Thiên Chúa muốn chúng ta làm, là hãy tin (xem Ga 6:29). Ðức tin rất quan trọng bởi vì một mình nó duy trì sự nhưng không của ân sủng. Nó không cố gắng đảo ngược trật tự, biến Thiên Chúa thành con nợ và con người trở thành chủ nợ. Ðó là lý do tại sao đức tin rất thân thiết với Chúa, Ðấng làm cho hầu hết mọi sự phụ thuộc vào niềm tin trong mối quan hệ của Ngài với con người.
Ân sủng và đức tin: đây là cách thế hai trụ cột của ơn cứu rỗi được đặt để. Ðó là hai chân con người được ban cho để bước đi hoặc hai cánh để bay. Tuy nhiên, đó không phải là vấn đề về hai điều song song với nhau, như thể ân sủng đến từ Thiên Chúa và đức tin từ chúng ta, và ơn cứu rỗi qua đó phụ thuộc một cách đồng đều vào Thiên Chúa và chúng ta, vào ân sủng và sự tự do. Xin Chúa giúp những ai nghĩ rằng ân sủng tùy thuộc vào Chúa nhưng đức tin phụ thuộc vào tôi; và cùng với nhau, Chúa và tôi mang đến ơn cứu rỗi! Nghĩ như thế là một lần nữa chúng ta lại biến Thiên Chúa thành con nợ, bằng cách nào đó tùy thuộc vào chúng ta và Ngài phải chia sẻ công đức và vinh quang với chúng ta. Thánh Phaolô xua tan tất cả mọi hồ nghi khi ngài nói, "Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây [có nghĩa là, đức tin, hoặc tổng quát hơn, là việc được cứu độ do ân sủng nhờ đức tin, cũng tương tự thôi] không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện" (Eph 2: 8 ff). Cũng cần nói thêm, hành động đức tin của Ðức Maria đã được thúc đẩy bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Ðiều khiến chúng ta quan tâm bây giờ là đưa ra ánh sáng một số khía cạnh trong đức tin của Ðức Maria có thể đưa Giáo Hội ngày nay đến với niềm tin lớn hơn. Hành động đức tin của Ðức Maria rất cá nhân, độc đáo và không bao giờ có thể lặp lại. Ðó là niềm tin vào Chúa và sự phó thác hoàn toàn bản thân cho Chúa. Ðó là một mối quan hệ cá vị giữa hai người với nhau. Ðây được gọi là đức tin chủ quan. Sự nhấn mạnh là tin vào nhau hơn là tin những gì. Nhưng đức tin của Ðức Maria cũng rất khách quan. Mẹ không tin vào một vị thần chủ quan và cá vị, tách rời khỏi mọi thứ, và chỉ tiết lộ mình cho riêng Mẹ trong bí mật. Thay vào đó, Mẹ tin vào Chúa Cha, là Chúa của dân tộc mình. Mẹ nhìn thấy nơi Thiên Chúa, Ðấng đã tỏ mình ra với Mẹ, Thiên Chúa của những lời hứa, Thiên Chúa của Ápraham và con cháu ông. Mẹ khiêm tốn cảm thấy mình là một phần của đoàn lũ đông đảo các tín hữu và trở thành tín hữu đầu tiên của giao ước mới, giống như Ápraham là tín hữu đầu tiên của giao ước cũ. Kinh Magnificat chứa đầy đức tin này dựa trên Kinh Thánh, và đầy các tham chiếu đến lịch sử của dân tộc Mẹ. Thiên Chúa của Ðức Maria là một Thiên Chúa với các tính cách Kinh Thánh sắc sảo: Ngài là Chúa, là Ðấng Toàn năng, Thánh Thiện, và là Ðấng Cứu độ. Ðức Maria sẽ không tin thiên thần nếu thiên thần tiết lộ với Mẹ về một Thiên Chúa khác, mà Mẹ không thể nhận ra là Thiên Chúa của dân tộc mình. Cũng trong cuộc sống bên ngoài, Ðức Maria tuân theo đức tin này. Mẹ đã tùng phục tất cả những gì mà Luật quy định: Mẹ đã cắt bì cho con, Mẹ đã dâng hài nhi vào Ðền thờ, Mẹ đã trải qua các nghi thức thanh tẩy, và Mẹ đã lên Giêrusalem để mừng lễ vượt qua.
Có một bài học tuyệt vời cho chúng ta nơi tất cả những điều này. Ðức tin, giống như ân sủng, trong suốt nhiều thế kỷ đã trải qua hiện tượng phân tích và phân chia, khiến chúng ta có vô số các dạng thức chính và phụ của đức tin. Chẳng hạn, anh em Tin Lành của chúng ta, coi trọng khía cạnh đầu tiên hơn, tức là khía cạnh chủ quan và cá vị, của đức tin. Luther đã viết, "Ðức tin là một sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ân sủng của Thiên Chúa"; nó là một "niềm tin vững chắc." Trong một số xu hướng Tin Lành, chẳng hạn nơi những người theo phái Mộ Ðạo (Pietism), xu hướng này được thực hiện đến cực độ, trong khi tín lý và những điều được gọi là chân lý đức tin có rất ít tầm quan trọng. Một thái độ nội tâm cá vị đối với Thiên Chúa chiếm ưu thế gần như tuyệt đối.
Trái lại, theo truyền thống Công Giáo và Chính thống, vấn đề đức tin đúng đắn và chính thống luôn có tầm quan trọng rất lớn ngay từ thời xa xưa. Vấn đề những gì phải tin nhanh chóng chiếm ưu thế trên các khía cạnh chủ quan và cá nhân của niềm tin, nghĩa là chiếm ưu thế trên hành động đức tin. Các luận thuyết của các Giáo phụ được gọi là "Về Ðức Tin" (De fide) thậm chí không đề cập đến đức tin như một hành động chủ quan hoặc như sự phó thác và phó dâng, nhưng chúng liên quan đến việc xác định các chân lý phải tin trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội nhằm chống lại các dị giáo.
Sau cuộc Cải cách và như một phản ứng đối với sự nhấn mạnh đơn phương vào đức tin-đức cậy, xu hướng này trở nên được nhấn mạnh hơn trong Giáo Hội Công Giáo. "Tin" về cơ bản có nghĩa là gắn bó với niềm tin của Giáo Hội. Thánh Phaolô nói rằng con người tin bằng con tim và tuyên xưng bằng đôi môi của mình (xem Rm 10:10), nhưng lời tuyên xưng một đức tin đúng đắn thường chiếm ưu thế hơn là tin bằng con tim.
Trong trường hợp này cũng vậy, Ðức Maria thúc đẩy chúng ta tìm lại "tổng thể," phong phú hơn và đẹp hơn nhiều so với từng bộ phận riêng lẻ. Một đức tin chủ quan đơn sơ, một đức tin phó mình cho Thiên Chúa theo lương tâm bên trong của một người, là không đủ. Thật dễ dàng để hạ giảm Chúa theo ý riêng của mình theo cách này. Ðiều này xảy ra khi chúng ta hình thành ý tưởng của riêng mình về Thiên Chúa, dựa trên sự giải thích cá nhân của chúng ta về Kinh Thánh hoặc dựa trên sự diễn dịch trong vòng một ít người của chính chúng ta, và sau đó tuân thủ điều này với tất cả sức mạnh của chúng ta, thậm chí đến mức cuồng tín, mà không nhận ra rằng chúng ta đang tin vào chính bản thân chúng ta hơn là tin vào Thiên Chúa; và không nhận ra rằng niềm tin không thể lay chuyển của chúng ta vào Thiên Chúa thực ra không gì khác hơn là một niềm tin không thể lay chuyển vào chính con người chúng ta.
Tuy nhiên, một đức tin khách quan và dựa theo tín lý thôi cũng không đủ, nếu nó không dẫn đến một liên hệ cá vị thân mật như Con và Cha với Thiên Chúa. Nó có thể dễ dàng trở thành niềm tin chết, một niềm tin thông qua một người hoặc một tổ chức thứ ba, thất bại ngay khi có khủng hoảng giữa đức tin của một người và mối quan hệ cá nhân của người ấy với tổ chức của Giáo Hội, bất kể vì lý do gì. Như thế, một Kitô hữu có thể dễ dàng đi đến tận cùng của cuộc đời mình mà không bao giờ làm được một hành động đức tin nào một cách tự do và cá vị, là điều duy nhất biện minh cho danh xưng "tín hữu".
Do đó, cần phải tin một cách cá vị, nhưng trong tình hiệp thông với Giáo Hội; chúng ta phải tin trong tình hiệp thông với Giáo Hội, nhưng một cách cá vị. Ðức tin tín lý của Giáo Hội không lấy đi đức tin cá nhân hoặc sự tự phát trong niềm tin, thay vào đó, nó bảo tồn và cho phép chúng ta nhận biết và đón nhận một Thiên Chúa vĩ đại hơn Thiên Chúa từ kinh nghiệm hạn chế của chúng ta. Trên thực tế, không có ai có thể đón nhận qua hành động đức tin của chính mình tất cả những gì có thể được biết về Thiên Chúa. Ðức tin của Giáo Hội giống như một ống kính với góc nhìn thật rộng, mà trong một bức tranh toàn cảnh cụ thể, cho phép chúng ta nhìn và chụp ảnh được một góc nhìn rộng hơn nhiều so với các ống kính đơn sơ. Khi kết hợp bản thân với đức tin của Giáo Hội, tôi làm cho đức tin của tất cả những người đi trước tôi trở thành đức tin của tôi: đó là đức tin của các tông đồ, các vị tử đạo và các Tiến sĩ Hội Thánh. Các thánh, không thể mang đức tin của các ngài lên thiên đàng, nơi họ không còn cần đến nữa, đã để lại thế gian này, di truyền cho Giáo Hội.
Những lời "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng" chứa sức mạnh đáng kinh ngạc. Cái "tôi" nhỏ bé của tôi được kết hiệp và nhập đoàn vào cái "Ta" vĩ đại của toàn nhiệm thể Chúa Kitô, và lúc này đây, tạo ra một âm thanh mạnh mẽ hơn so với tiếng gầm của biển cả và làm cho chính các nền tảng thống trị của bóng tối phải run rẩy.
Cả chúng ta cũng hãy tin!
Giờ đây chúng ta hãy xem xét các hệ quả cá nhân và khổ hạnh xuất phát từ đức tin của Ðức Maria. Sau khi khẳng định ở trên rằng "Ðức Trinh Nữ Maria đã hạ sinh Chúa với niềm tin mà Mẹ đã cưu mang trong lòng", Thánh Augustinô giải thích những gì ngài muốn nói: "Ðức Maria đã tin và những gì Mẹ tin đã được ứng nghiệm nơi Mẹ. Chúng ta cũng vậy, hãy tin rằng những gì đã hoàn thành nơi Mẹ cũng có thể là lợi thế của chúng ta."
Cả chúng ta cũng hãy tin! Chiêm ngắm đức tin của Ðức Maria thúc giục chúng ta đổi mới, trên hết, là hành động đức tin cá vị và phó thác của chúng ta cho Thiên Chúa. Ðó là lý do tại sao rất quan trọng để nói với Thiên Chúa, một lần trong đời, xin cứ làm cho tôi, fiat, như Ðức Maria đã làm. Ðây là một hành động được bao bọc trong mầu nhiệm bởi vì nó liên quan đến ân sủng và tự do cùng một lúc; đó là một hình thái của nhận thức. Linh hồn không thể làm điều đó một mình; do đó, Thiên Chúa giúp đỡ, mà không lấy đi tự do.
Chúng ta nên làm gì tiếp theo? Câu trả lời rất đơn giản: sau khi cầu nguyện, sao cho lời cầu nguyện của chúng ta không còn hời hợt, chúng ta hãy nói với Chúa, bằng chính những lời mà Ðức Maria đã dùng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Chúa phán! Tôi đang nói amen, vâng, lạy Chúa, trước toàn bộ kế hoạch của Chúa. Con phó thác chính con trong tay Chúa!
Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng Ðức Maria phát âm từ fiat của mình một cách tự nguyện và hân hoan. Bao lần chúng ta lặp lại từ này với một thái độ cam chịu được che đậy một cách sơ sài, và môi mím lại, thì thầm, "Nếu nó không thể tránh được, thì thôi, đành chiều theo ý Chúa vậy!" Ðức Maria dạy chúng ta nói từ ấy một cách khác. Biết rằng thánh ý Chúa là vô cùng đẹp hơn, phong phú hơn, và đầy hứa hẹn hơn bất kỳ kế hoạch nào của chúng ta, và biết rằng Thiên Chúa là tình yêu vô hạn và nuôi dưỡng "các kế hoạch cho phúc lợi chứ không phải cho những sự dữ đối với chúng ta" (xem Gr 29:11), chúng ta hãy nói, đầy khát khao và gần như thiếu kiên nhẫn, như Ðức Maria đã làm: Lạy Chúa, xin thánh ý yêu thương và hòa bình của Chúa được thực hiện trong con!
Như thế, ý nghĩa của cuộc sống con người và phẩm giá cao trọng nhất của nó được viên mãn. Nói xin vâng, amen, với Thiên Chúa không làm giảm phẩm giá của con người, như con người hiện đại thường nghĩ; nhưng thay vào đó, điều này làm nổi bật nó. Và có gì thay thế được cho từ amen này khi thưa với Thiên Chúa? Chính triết học hiện đại, đặc biệt là trào lưu hiện sinh, đã thể hiện rõ ràng nhu cầu nói tiếng amen của con người, và nếu từ ấy không được nói với Thiên Chúa, Ðấng là tình yêu, thì từ ấy phải được nói với một điều khác chắc chắn là lạnh lùng và tê liệt: đó là nói với định mệnh hay số phận.
"Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống"
Tất cả chúng ta đều được kêu gọi hãy bắt chước đức tin của Ðức Maria, nhưng đặc biệt là các mục tử và những người cách này cách khác được mời gọi để truyền bá đức tin và Lời Chúa cho người khác. Thiên Chúa nói người công chính nhờ đức tin sẽ được sống (xem Dt 2: 4; Rm 1:17), và điều này đúng một cách đặc biệt với các mục tử. Chúa nói tư tế của Ta, nhờ đức tin sẽ được sống. Linh mục là người của đức tin. "Trọng lượng cụ thể" của một linh mục phụ thuộc vào đức tin của ngài. Ảnh hưởng của ngài đối với người khác sẽ được xác định bởi đức tin của ngài. Sứ vụ của một linh mục, hoặc một mục tử, trong dân của ngài không chỉ đơn thuần là phân phát các bí tích và phục vụ, nhưng còn là thắp sáng niềm tin và làm chứng cho niềm tin đó. Ngài sẽ thực sự là người hướng dẫn và dẫn dắt các linh hồn đến với Chúa đến mức mà ngài tin tưởng và trao phó tự do của mình cho Chúa, như Ðức Maria đã làm.
Ðiều cốt yếu mà các tín hữu ngay lập tức nhận ra nơi một linh mục hay một mục tử là liệu ngài có tin hay không, liệu ngài có tin vào những gì ngài đang nói và vào những gì ngài đang cử hành hay không. Bất cứ ai đang tìm kiếm Thiên Chúa thông qua một linh mục sẽ nhận ra điều này ngay lập tức. Những ai không tìm kiếm Thiên Chúa qua ngài đều có thể dễ dàng bị lừa dối và đến lượt mình có thể lừa dối chính người linh mục ấy, khiến ngài cảm thấy mình quan trọng, thông minh nhưng trong thực tế, đôi khi, ngài cũng có thể trống rỗng, giống như người đàn ông không có ân sủng mà chúng ta đã đề cập trong đoạn cuối. Ngay cả một người chưa tin khi tiếp cận một linh mục với một tinh thần tìm kiếm cũng ngay lập tức hiểu được sự khác biệt. Nói chung, những gì có thể khiêu khích ngài và khiến ngài truy vấn tích cực lối sống của mình thường không phải là những cuộc thảo luận đòi hỏi những năng khiếu nhất định về đức tin, nhưng chính là đức tin đơn sơ. Niềm tin là truyền nhiễm. Sự lây nhiễm không xảy ra khi chỉ đơn giản là đề cập đến hay nghiên cứu về một loại vi khuẩn, nhưng phải qua tiếp xúc với nó, đức tin cũng thế.
Sức mạnh của người tôi tớ Chúa tương xứng với sức mạnh đức tin của người ấy. Ðôi khi chúng ta đau khổ hoặc có thể phàn nàn với Chúa khi cầu nguyện vì mọi người từ bỏ Giáo Hội, họ cứ tiếp tục phạm tội và chúng ta cứ nói mãi mà không có kết quả. Một ngày nọ, các tông đồ đã cố gắng đuổi một con quỷ khỏi một cậu bé mà không thành công. Sau khi Chúa Giêsu đã đuổi quỉ ấy đi, các môn đệ đến với Chúa Giêsu và hỏi riêng Ngài "Tại sao chúng con không thể trừ nổi quỉ ấy?" Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bởi vì anh em kém tin" (Mt 17: 19-20).
Như chúng ta đã nói, thế giới, giống như biển, bị xáo trộn bởi làn nước gây ra bởi một con tàu đẹp, đó là sự trỗi dậy của đức tin, bắt đầu với Ðức Maria. Chúng ta hãy là một phần của sự thức tỉnh này. Chúng ta cũng hãy tin, để những gì đã ứng nghiệm nơi Mẹ sẽ được hoàn thành nơi chúng ta. Chúng ta hãy cầu khẩn Ðức Mẹ với danh hiệu ngọt ngào Virgo fidelis: Ðức Nữ trung tín thật thà, cầu cho chúng con!
- - - - - -
[1] H. Schurmann, Das Lukasevangelium - Diễn giải Phúc Âm Luca, Freiburg ở Br., 1982, ad loc.
[2] Origen, Commentary on the Gospel of Luke - Bình luận về Tin mừng Luca, Ðoạn 18 (GCS 49, trang 227).
[3] Thánh Irenaeus, Against the Heresies - Chống lại các dị giáo, III, 22, 4 (SCh 211, tr. 442).
[4] Xem C. Carretto, Blessed Are You Who Believed - Phúc cho bạn là người tin, London, Burns & Oates, 1982, tr. 3 f.
(Source: Vatican NewsFr Cantalamessa gives first Advent reflection to Pope and Roman Curia)