Kỷ niệm 50 năm Hội nghị Medellin
Kỷ niệm 50 năm Hội nghị Medellin.
Colombia (Vat. 4-05-2018) - Trong các ngày từ mùng 3 tới mùng 5 tháng 4 năm 2018 Hội nghị quốc tế với đề tài "Medellin: 50 năm sau" đã diễn ra tại Ðại học giáo hoàng Javeriana trong thủ đô Bogota bên Colombia. Ðại hội đã do Phân khoa thần học đại học Javeriana và Trường thần học và thừa tác đại học Boston cùng tổ chức, bảo trợ, và do Ðức Hồng Y Baltazar Porras Cardoso, Tổng Giám Mục Merida điều hợp. Trong số các thuyết trình viên có Ðức Cha Raul Biord Castillo, Giám Mục La Guaira, kiêm phó chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Venezuela, nói về đề tài "Rao giảng Tin Mừng và thăng tiến nhân bản tại Medellin".
Tham dự đại hội đã có khoảng 25 vị gồm các Hồng Y, Giám Mục, giáo sư và hàng trăm sinh viên đại học. Trong các ngày đại hội mọi người đã suy tư về nhiều đề tài, trong đó có giá trị thời sự của việc Giáo Hội lựa chọn "sống cho dân nghèo và sống nghèo", cũng như về "gương mặt của một Giáo Hội thực sự nghèo, truyền giáo và phục sinh".
Trong thông cáo gửi tới hãng tin Fides của Bộ Truyền Giáo, ban tổ chức khẳng định rằng đại hội muốn đào sâu tính cách mục vụ như là thực tại nội tại trong công việc của Giáo Hội và nền thần học, chứ không phải chỉ như một áp dụng mục vụ hay thực hành của nền thần học và cuộc sống giáo hội. Ngoài ra mục đích đại hội cũng là đào sâu cuộc đối thoại giữa các thế hệ trung gian và đang lên để góp phần vào việc hiểu biết tiến trình cải cách đang được Ðức Thánh Cha Phanxicô đề ra và hướng dẫn.
Hồi tháng 2 năm 2017 Trường Thần học và Thừa Tác đã tổ chức một cuộc gặp gỡ thần học mễ - mỹ với sự tham dự của 50 thần học gia châu Mỹ Latinh, Tây Ban Nha, Latinh và Bắc Mỹ để thảo luận về cuộc đối thoại thần học mục vụ trong các bối cảnh châu mỹ. Trong đại hội lần này ban tổ chức muốn đưa ra hai sinh hoạt: thứ nhất là để cho nhóm Hispano-americano tái gặp gỡ và làm việc; thứ hai là thực hiện hội nghị quốc tế rộng mở cho mọi người. Nền thần học châu mỹ latinh đã nắm giữ một vai trò quan trọng trong tiến trình canh tân Giáo Hội mà Ðức Thánh Cha Phanxicô đang thực hiện.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung bài viết của thần học gia Jose Oscar Beozzo người Brasil, nhân lần kỷ niệm 40 năm Hội nghị của Liên Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ Latinh triệu tập tại Medellin bên Colombia trong các ngày từ 26 tháng 8 đến mùng 7 tháng 9 năm 1968.
Khi đọc lại tài liệu của Hội nghị Medellin chúng ta có thể nhận ra nhiều điểm quan trọng:
Trước hết với thời gian qua đi càng ngày người ta càng ý thức được rằng Hội nghị Medellin đã khai sinh ra một Giáo Hội châu Mỹ Latinh và vùng Caraibi với một gương mặt riêng, và trở thành tác nhân ý nghĩa đối với chính mình cũng như đối với các Giáo Hội anh em trong các đại lục khác. Ngoài ra Hội nghị Medellin cũng có ảnh hưởng lớn trên cuộc sống của các kitô hữu, cũng như các cộng đoàn và các hoạt động mục vụ. Thật thế, chính tại Medellin Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh đã nhận ra thực tại thê thảm của đại lục này và đối chiếu với biến cố và các tài liệu của Công Ðồng Chung Vaticăng II (1962-1965), bằng cách phát triển việc tiếp nhận Công Ðồng một cách vừa trung thành vừa sáng tạo, vừa lựa lọc vừa canh tân. Lắng nghe tiếng kêu của người nghèo như lời gọi hỏi của Tin Mừng, cùng nhau dấn thân với họ và hành động để biến đổi Giáo Hội và thế giới đã là nguồn hứng linh hoạt Hội nghị Medellin: "Suy tư, có được sự rõ ràng lớn hơn và lên tiếng thôi, không đủ. Cần phải hành động. Ðây đã không ngừng là giờ của lời nói, đã trở thành giờ của hành động với sự cấp bách thê thảm".
Sáu năm sau, hướng đi của Hội nghi Medellin đã được Giáo Hội hoàn vũ chính thức thừa nhận trong Thượng Hội Ðồng Giám Mục về rao giảng Tin Mừng. Tài liệu "Evangelii Nuntiandi" đã tiếp nhận các đề nghị chính của hội nghị và biến chúng trở thành các đóng góp quý báu cho Giáo Hội hoàn vũ trong tổng thể của nó, cách riêng trong việc nhấn mạnh trên sự giải phóng và tương quan giữa công tác rao truyền Tin Mừng và việc thăng tiến nhân bản, giữa phát triển và giải phóng. Số 30 của tài liệu viết: "Các Giám Mục đã lập lại rẳng Giáo Hội có bổn phận loan báo việc giải phóng hàng triệu con người, vì nhiều người là con cái của Giáo Hội, bổn phận trợ giúp việc giải phóng ấy nảy sinh, làm chứng cho nó và làm cho nó được toàn diện. Tất cả những điều ấy không xa lạ với việc rao giảng Tin Mừng". "Giữa loan báo Tin Mừng và thăng tiến nhân bản, phát triển và giải phóng có các liên hệ sâu xa. Các cột buộc thuộc trật tự nhân chủng học, bởi vì con người cần được rao giảng Tin Mừng không phải là một người trừu tượng, nhưng là người bị điều kiện hóa bởi các vấn đề xã hội và kinh tế. Các liên hệ thuộc trật tự thần học, bởi vì không thể tách rời bình diện tạo dựng khỏi bình diện Cứu Ðộ đi tới các tình trạng rất cụ thể của bất công cần chống lại, và của công lý cần tái lập. Các liên hệ thuộc trật tự tin mừng như trật tự của tình bác ái; thật thế làm sao loan báo giới răn mới, mà lại không thăng tiến việc lớn lên thật sự và đích thực của con người trong công lý và trong hòa bình?" (EN 31).
Tuy nhiên mười năm sau, việc chấp nhận nồng nhiệt các trực giác của Hội nghị Medellin trong tài liệu Loan Báo Tin Mừng lại biến thành một loạt các nghi ngờ và cảnh báo đối với nền mục vụ và thần học của Giáo Hội châu Mỹ Latinh, trong "Huấn thị liên quan tới vài khía cạnh của nền Thần Học Giải Phóng" do Bộ Giáo Lý Ðức Tin công bố (Libertatis Nuntius 6-8-1984). Phản ứng của Hội Ðồng Giám Mục Brasil đối với cái nhìn một chiều và tiêu cực của Huấn thị ném các đám mây nghi ngờ trên chính Giáo Hội và giám mục đoàn. Nỗi cay đắng bên Perù vì các áp lực bắt Giáo Hội địa phương phải kiểm duyệt thần học gia Gustavo Gutierrez và khuynh hướng không thủ cựu bên Brassil với vụ xử án và sự thinh lặng kính cẩn áp đặt trên thần học gia Leonardo Boff, đổ ra trên tài liệu thứ hai vớt vát các khía cạnh tích cực của lộ trình giáo hội và suy tư thần học châu Mỹ Latinh: "Huấn thị về sự Tự do kitô và việc giải phóng - Libertatis conscientia" công bố ngày 22 tháng 3 năm 1986. Ðã có việc triệu tập về Roma và một cuộc họp bất thường đối thoại giữa Ðức Giáo Hoàng cùng với các cộng sự viên thân tín nhất và Ban chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Brasil, gồm các Giám Mục chủ tịch vùng miền khác nhau và các Hồng Y Brasil trong các ngày từ 13 đến 15 tháng 3 năm 1986. Sau cuộc họp Ðức Gioan Phaolo II đã viết cho các Giám Mục Brasil như sau: "Anh em và tôi, chúng ta xác tín rằng nền thần học giải phóng không chỉ thích đáng, mà còn hữu ích và cần thiết. Nó phải làm thành một giai đoạn mới - gắn bó chặt chẽ với các nền thần học trước đây - của việc suy tư thần học đã bắt đầu với Truyền thống tông đồ và được tiếp tục với các Giáo Phụ lớn và các Tiến Sĩ, với Huấn quyền bình thường và ngoại thường, và trong thời gian mới hơn với gia tài phong phú của Giáo Huấn xã hội của Giáo Hội, được diễn tả trong các tài liệu từ "Rerum Novarrum" đến "Laborem Exercens". Ngoài ra Ðức Gioan Phaolô II còn tín thác cho Hội Ðồng Giám Mục Brasil nhiệm vụ đồng hành với sự phát triển của nền thần học giải phóng: ""Nhiệm vụ này, nếu được chu toan, chắc chắn sẽ là một phục vụ mà Giáo Hội có thể cống hiến cho Brasil và hầu như cho toàn Ðại lục châu Mỹ Latinh, cũng như cho nhiều miền khác của thế giới , trong đó hiện diện cùng các thách đố nghiêm trong tương tự. Ðể chu toàn nhiệm vụ này, là điều không thể thiếu hoạt động khôn ngoan và can đảm của các chủ chăn, nghĩa là của Anh em. Xin Thiên Chúa giúp Anh em để nền thần học giải phóng đúng đắn và cần thiết này phát triển tại Brasil và châu Mỹ Latinh, một cách đồng nhất và không khác biệt trong tương quan với nền thần học của mọi thời đại, trong sự trung thành hoàn toàn với giáo thuyết của Giáo Hội, chú ý tới một tình yêu ưu tiên, không loại trừ cũng không độc quyền đối với người nghèo"
Cuộc khủng hoảng liên quan tới gia tài của Hội nghị Medellin và các đường viền dễ thấy nhất như đã được hai Huấn thị liên quan tới Nền Thàn Học Giải Phóng và Thư Ðức Giáo Hoàng gửi cho Hội Ðồng Giám Mục Brassil, đã có kết quả là việc thừa nhận rộng rãi và đại đồng hơn các vấn đề đã được nêu lên trong đó, và các câu trả lời giáo hội, mục vụ và thần học được đưa ra. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng việc giải phóng tại Medellin đã gắn liên với các khía cạnh kinh tế và chính trị của thực tại. Chỉ sau này các chiều kích khác, như các kỳ thị có tính cách văn hóa, phái tính, chủng tộc và mầu da, định hướng phái tính hay các thách đố nảy sinh từ môi sinh, mới được chú ý nhiều hơn trong suy tư thần học trong chìa khóa giải phóng. Ngày nay các nền thần học nữ quyền, thần học ấn độ, thần học đen, thần học hội nhập văn hóa và tất cả một nền tu đức giải phóng, diễn tả các phát triển quan trọng trong lãnh vực của suy tư mà người ta thừa nhận như là kế thừa của nên thần học nảy sinh trong Hội nghị Medellin.
Vậy đâu đã là bí quyết giúp Hội nghị của Liên Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ Latinh và vùng quần đảo Caraibi tại Medellin đạt được các thành quả tích cực nêu trên? Bí quyết của Medellin là phương pháp.
"Nhìn xem, phán đoán, hành động", khẩu hiệu kế thừa của Phong trào Thanh Sinh Công đo Ðức Hồng Y Joseph Cardijn đề xướng, đã gợi hứng cho cả nền thần học "các dấu chỉ thời đại" của Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng" của Công Ðồng Chung Vaticăng II, và đã là sợi chỉ dẫn đường của mọi công việc trong Hội nghị Medellin. Nhìn Xem chiếm phần đầu của từng tài liệu, và Hành Ðộng là phần cuối cùng, trong hình thái các lộ trình mục vụ. Phương pháp này đã được theo tại Medellin và tiếp đó trong việc soạn thảo nền Thần Học Giải Phóng châu mỹ latinh, nhưng lại bị cấm bởi ban chủ tịch Hội nghị khoáng đại lần thứ tư của Liên Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ Latinh và vùng quần đảo Caraibi triệu tập tại Santo Domingo năm 1992, cũng như tại Thượng Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ năm 1997. Tuy nhiên, trong Hội nghị Aparecida năm 2007 các Giám Mục châu mỹ latinh đã muốn lấy lại gia tài của Hội nghị Medellin và biện minh cho sự lựa chọn này của các vị như sau: "Tiếp nối các hội nghị khóang đại trước đây của Hội Ðồng Giám Mục Mỹ Latinh, tài liệu này sử dụng phương pháp "nhìn xem, phán đoán và hành động"... Ðã nhiều lần đến từ toàn Ðại lục, chúng tôi đã cống hiến các đóng góp và gọi ý trong nghĩa này, chúng tôi khẳng định rằng phương pháp này đã cộng tác vào điều mà chúng tôi đã sống sứ mệnh của chúng tôi và sứ mệnh trong Giáo Hội một cách mạnh mẽ: nó đã làm giầu cho công việc thần học và mục vụ của chúng tôi, và nói chung nó đã động viên chúng tôi lãnh nhận lấy các trách nhiệm của mình trước các hoàn cảnh cụ thể của đại lục chúng tôi" (AP 19).
Việc đọc hiểu thực tại châu Mỹ Latinh tại Hội nghị Medellin giúp nhận ra lý thuyết của sự tùy thuộc giải thích lý do tại sao đa số dân phải sống trong nghèo túng, hố sâu ngăn cách giữa các dân tộc miền bắc bán cầu và niềm nam bán cầu gia tăng, và các hình thức thực dân quốc tế trở thanh trầm trọng hơn vì các kiểu thực dân quốc nội. Ngoài ra, nó còn phản ánh ảnh hưởng của sự kiện nhiều tầng lớp xã hội nhận ra rằng sự áp bức kinh tế và thống trị chính trị kéo dài hàng thế kỷ đã gây ra tình trạng nghèo túng và bần cùng của đại đa số dân. Nó cũng phản ánh việc thức tỉnh của các phong trào nhân dân sống tại vùng quê cũng như tại các thành thị và quyết định của Giáo Hội hiệp nhất với họ trong cuộc đấu tranh cho các quyền lợi của họ.
Tại Medellin Giáo Hội lãnh nhận trách nhiệm mục vụ của mình là "khích lệ và tạo thuận tiện cho tất cả mọi nỗ lực của dân chúng để tạo ra và phát triển các tổ chức cơ bản riêng, để đòi hỏi và củng cố các quyền lợi của mình và kiếm tìm một nền công lý đích thực" (MED 2,27). Nếu Hội nghị Medellin trông thấy gốc rễ của sự bất bình đẳng và áp bức trong việc khai thác lao động và trong các cơ cấu bất công của nền thương mại quốc tế, việc đọc hiểu này đã chịu ảnh hưởng của các thay đổi quan trọng. Hội nghị Aparecida nhận diện trong mô thức toàn cầu hóa lý do chính của các bất công và các bất bình đẳng mới...
Trong việc toàn cầu hóa năng động của thị trường tuyệt đối hóa một cách dễ dàng sự hữu hiệu và tính sản xuất như các giá trị điều hành mọi tương quan của con người. Tính cách đặc biệt này khiến cho việc toàn cầu hóa trở thành một tiến trình thăng tiến sự gian ác và nhiều bất công" (AP 67). Tài liệu Aparecida tiếp tục ghi nhận rằng "một việc toàn cầu hóa không có tình liên đới ảnh hưởng tiêu cực trên các giai tầng nghèo nhất. Giờ đây không còn đơn thuần là một hiện tượng bóc lột và áp bức nữa, mà còn là cái gì mới mẻ: đó là việc loại trừ xã hội. Với việc loại trừ ấy sự tùy thuộc xã hội trong đó người ta sống, nhưng bị khước từ tận gốc rễ, bởi vì giờ đây họ không chỉ ở dưới, ở ngoại biên hay không có quyền bính, mà là ở ngoài. Các người bị loại trừ không chỉ bị khai thác, mà còn là những người thừa thãi và bị gạt bỏ" (AP 65).
Tại Hội nghị Medellin không có một tài liệu chuyên biệt lấy lại Hiến chế tín lý Lời Chúa của Công Ðồng, mà là Lời Chúa được trả lại cho dân chúng trong các nhóm chia sẻ lời Chúa, trong các cộng đoàn cơ bản, và trong phong trào dân chúng đọc hiểu Thánh Kinh, nó đã là trung tâm cuộc cách mạng do Hội nghị Medellin dấy lên. Cộng đoàn đại kết Taizé bên Pháp đã góp phần rất lớn cho điều này. Ðây là cộng đoàn sau Công Ðồng Chung Vaticang II đã tặng cho các Giáo Hội châu Mỹ Latinh một triệu ấn bản Tân Ước bằng tiếng Tây Ban Nha và một triệu ấn bản khác bằng tiếng Bồ Ðào Nha, để phân phát miễn phí cho các cộng đoàn nghèo nhất.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 1995 Ðức Hồng Y Joseph Ratzinger đã coi việc dân chúng đọc Thánh Kinh là một đóng góp quan trọng của nền Thần Học Giải Phóng châu mỹ latinh. Ngài nói: "Khoa chú giải kinh thánh đã cho chúng ta một cái gì rất tích cực, nhưng cũng làm nảy sinh ra cảm tưởng không phải bất cứ ai cũng có thể đọc Thánh Kinh, vì nó quá phức tạp. Chúng ta phải học trở lại rằng Thánh Kinh nói điều gì với từng người, và nó được ban cho những người đơn sơ. Trong điều này tôi cho là có lý một phong trào nảy sinh trong môi trường của nền thần học giải phóng nói tới việc giải thích bình dân. Theo đường nét này nhân dân chính là chủ nhân đích thực của Thánh Kinh, và vì thế là người chú giải đích thực của nó.
Trong bản chất có đúng thật là Thánh Kinh đã được ban cho những người đơn sơ không cần biết hết mọi sắc thái phê bình, bởi vì họ hiểu điều chính yếu, điều được Thánh Kinh nói tới. Nền thần học với các hiểu biết lớn của mình sẽ không trở thành thừa thãi, trái lại còn cần thiết hơn trong cuộc đối thoại quốc tế giữa các nền văn hóa. Nhưng thần học không được làm lu mờ sự đơn sơ cuối cùng của đức tin, đặt để chúng ta một cách đơn sơ trước mặt Thiên Chúa, trước một Thiên Chúa đã tự gần gũi với chúng ta bằng cách trở thành người".
Trong lãnh vực phụng vụ Hội nghị Medellin khuyến khích việc cử hành trong các nhóm và cộng đoàn nhỏ, để cho đức tin và cuộc sống các biến cố vui buồn, khổ đau tìm ra con đường của niềm hy vọng phục sinh. Việc tìm hội nhập văn hóa nở hoa trong cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa địa phương của đại lục, và việc cử hành phụng vụ được nâng đỡ bởi cuộc bùng nổ âm nhạc và các thánh ca có gốc rễ bình dân.
Kinh nghiệm tiên phong của linh mục Mendes Arceo trong nhà thờ chính tòa Cuernavaca bên Mehico, với thánh lễ được linh hoạt với các nhạc cụ và âm điệu Mariachis, đã tìm ra các kiểu diễn tả mới với Bộ Lễ Nicaragua, Bộ Lễ Salvador và Bộ Lễ Creol bên Argentina. Bên Brasil Bộ Lễ Ðất không Sự Dữ với các bài thơ của linh mục Pedro Casaldaliga và Pedro Tierra, do nhạc sĩ thổ dân Martin Coplas phổ nhạc, lấy hứng từ huyền thoại Trái Ðất không Sự Dữ của bộ lạc Guarani. Bộ lễ Gilomboss do các linh mục thi sĩ nói trên viết và nhạc do ca sĩ da đen Milton Nascimento phổ nhạc đã thời sự hóa ký ức của các dân tộc bị bắt làm nô lệ nhưng đã trốn thoát để xây dựng các ngôi làng tự do của người dân gốc phi châu.
Trong lãnh vực Kitô học Hội nghị Medellin thu hồi việc đọc hiểu số 8 Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân, khởi hành từ nhân tính của Chúa Giêsu và việc Ngài tự đồng hóa với những người nghèo nhất, trong đường hướng của người tôi tớ khổ đau của sách Isaia và thần học "kenosis dốc đổ chính minh" của thư thánh Phaolo gửi tín hữu Philiphê (Pl 2,6). Medellin đề nghị một nhiệm vụ cụ thể: "làm cho những người bị đóng đinh ngày nay xuống khỏi thập giá".
Nói cách khác, nòng cốt của nền Kitô học là bước theo Chúa Giêsu trong dấn thân giải phóng những người bị loại trừ: "Ðó cũng cùng là vì Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, mà trong thời viên mãn đã gửi Con Ngài đến để sau khi nhập thể, Người giải phóng tất cả mọi người khỏi các ách nô lệ mà tội lỗi đã tròng lên họ: đói khát, bần cùng, áp bức và ngu dốt - tắt một lời, bất công và thù hận bắt nguồn từ sự ích kỷ của con người (Ga 8,32-35). Và như vậy để được giải phóng thực sự chúng ta tất cả cần một sự hoán cải sâu xa, để "Nước của Công Lý, tình yêu và hòa bình" đến với chúng ta MED 1,3)
Một trong những phát triển đẹp nhất của nền Kitô học tại Medellin được tìm thấy trong tài liệu Puebla viết rằng: "Tình trạng nghèo túng tột cùng tổng quát hóa này trong cuộc sống thực có các hình thái vô cùng cụ thể, trong đó chúng ta phải nhận ra các hình thức khổ đau của Chúa Kitô, là Ðấng dò xét và gọi hỏi chúng ta" P, 31).
Trong một việc đọc hiểu lịch sử cấu trúc các loại trừ và áp bức, mà nhân dân là nạn nhân, và chúng tiếp tục đè nặng trên họ, Hội nghị Puebla liệt kê ra các gương mặt khổ đau của các anh chị em thổ dân và các anh chị em mỹ gốc phi châu, các nông dân và thợ thuyền, các người thiếu công ăn việc làm và các người thất nghiệp, các người bị gạt bỏ bên lề xã hội, người dân sống trong các khu xóm ổ chuột, các trẻ em bị bỏ rơi và bị khai thác bóc lột, các người trẻ lạc hướng và bị khai thác lạm dụng, cũng như các người già ngày càng nhiều và ở ngoài lề xã hội (P. 31-39).
Một linh hứng như thế được lấy lại một cách có ý thức trong Hội nghị Aparecida: "Nếu sự lựa chọn người nghèo này bao gồm trong nền Kitô học, thì các kitô hữu, như là môn đệ và là thừa sai, được mời gọi chiêm ngắm trong các gương mặt khổ đau này của các anh chị em chúng ta, gương mặt của Chúa Kitô là Ðấng mời gọi chúng ta phục vụ Ngài nơi họ "Các gương mặt khổ đau của người nghèo là các gương mặt khổ đau của Chúa Kitô" (AP 393).
Nhân lần kỷ niệm 40 năm Hội nghị của Liên Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ Latinh triệu tập tại Medellin bên Colombia trong các ngày từ 26 tháng 8 đến mùng 7 tháng 9 năm 1968, sử gia Jose Oscar Beozzo, người Brasil, đã viết một bài dài tóm tắt hướng đi của Hội nghị Medellin và trình bầy các âm hưởng của nó trên huấn quyền, cũng như trong các lãnh vực mục vụ, phụng vụ và Kitô học.
Trên bình diện Giáo hội học Hội nghị Medellin hoàn toàn tiêu hóa các trực giác của Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân về Giáo Hội: Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa; bí tích Rửa Tội như suối nguồn và gốc rễ của các chức thừa tác; ơn gọi của từng kitô hữu là ơn gọi nên thánh và là tông đồ. Tuy nhiên, Medellin có vài bước tiến tới, đồng thời tuyệt đối hóa vài điểm khác. Trước hết Giáo Hội được trình bầy như là Giáo Hội của tất cả mọi người, nhưng một cách cấp thiết là Giáo Hội của người nghèo, phục vụ các giá trị của Nước Trời. Tài liệu số 14 có tựa đề "Nghèo khó trong Giáo Hội" và trọng tâm của nó là đề nghị thần học và mục vụ: "Chúng tôi muốn rằng Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh là Giáo Hội loan báo Tin Mừng và liên đới với người nghèo, làm chứng cho giá trị của các thiện ích của Nước Trời và là tôi tớ khiêm hạ của tất cả mọi người trong các dân tộc của chúng ta" (MED 14,8). Việc lựa chọn bênh vực quyền lợi của người nghèo được canh tân trong Hội nghị Puebla. Hội nghị Puebla thừa nhận rằng tình trạng của dân nghèo đã trở thành trầm trọng hơn: "Ðại đa số các anh chị em của chúng ta tiếp tục sống trong cảnh nghèo đói đến độ bần cùng ngày càng nghiêm trọng hơn. Chúng ta muốn ý thức được điều Giáo Hội Mỹ Latinh đã làm, hay đã thôi làm cho người nghèo sau Hội nghị tại Medellin, như điểm khởi hành cho việc tìm ra các con đường lựa chọn hữu hiệu trong hoạt đồng loan báo Tin Mừng trong hiện tại và trong tương lai tại Mỹ châu Latinh" (P. 1135).
Lấy người nghèo làm mức đo việc theo Chúa Giêsu của chúng ta: "Khi chúng ta tới gần người nghèo để đồng hành với họ và phục vụ họ, là chúng ta làm điều Chúa Kitô đã dậy chúng ta, khi Ngài trở thành người anh em của chúng ta, nghèo nàn như chúng ta. Vì thế, việc phục vụ dân nghèo là thước đo ưu tiên việc theo Chúa Kitô của chúng ta, nhưng không có khuynh hướng loại trừ" (P 1145).
Hội nghị Puebla mới mẻ so sánh với hội nghị Medellin, khi nâng người nghèo lên thành các chủ thể và tác nhân của việc loan báo Tin Mừng và thầy dậy của Giáo Hội: "Việc dấn thân với người nghèo và bị áp bức và việc nảy sinh ra các cộng đoàn cơ bản đã giúp Giáo Hội khám phá ra tiềm năng rao giảng Tin Mừng của người nghèo, trong nghĩa họ liên tục gọi hỏi Giáo Hội, mời gọi Giáo Hội hoán cải, và nhiều người trong họ thực hiện trong cuộc sống của họ các giá trị tin mừng của tình liên đới, phục vụ, sự đơn sơ và sẵn sàng đón nhận ơn của Chúa" (P. 1147).
Tới lượt mình Hội nghị Aparecida đào sâu gốc rễ kitô học của việc lựa chọn người nghèo của hội nghị Medellin: "Ðức tin của chúng ta công bố rằng "Chúa Kitô là gương mặt nhân bản của Thiên Chúa và là gương mặt thiên linh của con người" (EAm 67). Vì vậy, "việc ưu tiên lựa chọn người nghèo được bao gồm trong niềm tin kitô học, trong đó Thiên Chúa đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để làm giầu cho chúng ta với sự khó nghèo của Ngài" (DI 3). Việc lựa chọn này nảy sinh từ niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa làm người, trở thành người anh em của chúng ta" (x. Dt 2,11-12). Tài liệu thứ 15 của hội nghị Medellin giới thiệu các cộng đoàn cơ bản như là con đường canh tân các cơ cấu của Giáo Hội. Bắt đầu từ nền tảng của xã hội và của Giáo Hội, bằng cách dành nhiều khoảng không hơn cho các giáo dân, dành chỗ trung tâm cho Lời Chúa thích hợp với các người bé nhỏ, gắn liền đức tin và cuộc sống, kinh nghiệm giáo hội và dấn thân xã hội chính trị để biến đổi xã hội: "Chính vì vậy nỗ lực mục vụ của Giáo Hội phải hướng tới chỗ biến các cộng đoàn cơ bản này trở thành "gia đình của Thiên Chúa", bắt đầu bằng cách hiện diện trong chúng như men trong bột, giữa một hạt nhân, cả khi có bé nhỏ đi nữa, tạo ra một cồng đoàn của đức tin, đức cậy và đức mến" (LG 8). Trong cách thế đó cộng đoàn kitô cơ bản là nhân tố đầu tiên và nền tảng của Giáo Hội. Trên bình diện chuyên biệt nó phải có trách nhiệm về sự phong phú và mở mang đức tin, cũng như việc phụng tự mà nó diễn tả. Như thế, cộng đoàn cơ bản là tế bào khai mào cấu trúc giáo hội và là khuôn mẫu của việc rao truyền Tin Mừng, và hiện nay là yếu tố trước tiên của việc thăng tiến nhân bản và phát triển" (MED 15,10).
Trong khi tại các nước như Brassil các cộng đoàn cơ bản đã trở thành ưu tiên của toàn Giáo Hội trong các chương trình và định hướng mục vụ, thì tại các nước khác như Colombia chúng lại bị cấm hoạt động và bị tố cáo là Giáo Hội "song song" hay Giáo Hội "nhân dân" trong nghĩa xấu. Triệu chứng là nhóm các Giám Mục được bầu lên để trao ban hình thái có hệ thống cho các đề nghị được chấp thuận trong Thượng Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ năm 1997 để soạn thảo Tông huấn hậu Thượng Hội Ðồng Giám Mục Giáo Hội tại Mỹ châu, đã được Ðức Hồng Y Jan Schotte thư ký Thượng Hội Ðồng Giám Mục báo trước rằng các từ ngữ như Hội Ðồng Giám Mục Brasil và "Thần học giải phóng" không thể hiện diện trong văn bản. Trong các đề nghị quy chiếu Hội Ðồng Giám Mục Brasil được thay thế bằng "các cộng đoàn kitô nhỏ" hay "các cộng đoàn kitô cơ bản".
Tại Hội nghị Aparecida các Giám Mục đã bầy tỏ sự trân quý đối với Hội Ðồng Giám Mục Brasil, thừa nhận giá trị kinh nghiệm giáo hội của các vị, và mối dây nối kết của các vị vói con đường khai tâm của các cộng đoàn đầu tiên trong sách Tông Ðồ Công Vụ, kinh nghiệm tử đạo của nhiều thành phần kitô và mối tương quan lịch sử với Medellin: "Trong kinh nghiệm giáo hội châu Mỹ Latinh và vùng Caraibi, các cộng đoàn cơ bản của Giáo Hội đã là trường học góp phân đào tạo các môn đệ và thừa sai của Chúa, với chứng tá dấn thân quảng đại của nhiều thành phần cho tới chỗ đổ máu. Họ theo kinh nghiệm của các cộng đoàn kitô tiên khởi, như được miêu tả trong sách Tông Ðồ Công Vụ (Cv 2,42-47). Hội nghị Medellin đã thừa nhận nơi chúng một tế bào khởi đầu của cơ cấu giáo hội, và khuôn mẫu đức tin và việc rao truyền Tin Mừng. Ðược đâm rễ trong con tim của thế giới chúng là các không gian ưu tiên giúp sống đức tin một cách cộng đồng, suối nguồn của tình huynh đệ và liên đới và là lựa chọn đối với xã hội ngày nay, được xây dựng trên ích kỷ và tranh đua không thương xót" (AP 178).
Công Ðồng Chung Vatican II sẽ được ghi nhớ như là Công Ðồng đã tái lập trong nghĩa của Giáo Hội Latinh tính hội đồng như yếu tố nòng cốt của cơ cấu giáo hội, có mô thức diễn tả trong Ðoàn Mười Hai. Trong đoàn đó Phêrô được giao nhiệm vụ củng cố các anh em khác "Và anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của mình nên vững mạnh" (Lc 22,32). Công Ðồng Chung Vatican II tìm tái lập một thế quân bình nào đó chưa đạt được giữa quyền tối thượng Phêrô và tính giám mục đoàn. Công Ðồng đã không tiến tới được chỗ thiết lập nguyên tắc của tính đoàn thể giữa các Giáo Hội với nhau và không chỉ giữa các chủ chăn là các Giám Mục.
Tuy nhiên, kiểu nhập thể của tinh thần đồng trách nhiệm của tất cả các Giám Mục cùng nhau với Ðức Giáo Hoàng trong việc cai quản Giáo Hội đã ở nửa đường, với việc thành lập Thượng Hội Ðồng Giám Mục, chỉ có tính cách tham vấn chứ không quyết định. Hội nghị Medellin như là một câu trả lời cho Công Ðồng trên bình diện đại lục đã thực thi tính giám mục đoàn, một cách quyết định, đạt tới một huấn quyền thực sự, không thể so sánh trong kinh nghiệm của Giáo Hội Phi châu, Á châu và Âu châu.
Trong nghĩa này Hội nghị Medellin đã trình bầy môt mô thức gần nhất với Công Ðồng Chung quyết định chứ không như các Thượng Hội Ðồng Giám Mục hiện nay chỉ có tính cách tham khảo. Hội nghị tai Santo Domingo, vì bị giáo quyền Roma kiểm soát nghiêm ngặt, đã diễn tả một bước thụt lùi. Việc triệu tập Thượng Hội Ðồng Giám Mục về châu Mỹ năm 1997 đã ngắt quãng một chuỗi các Hội Ðồng Giám Mục, đã để lại trong không khí môt nghi ngờ, không biết có còn không gian cho một Thượng Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ Latinh khác nữa hay không.
Thật ra, khi Liên Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ Latinh thúc giục Roma triệu tập một Thượng Hội Ðồng Giám Mục thứ năm vào ngàn năm mới để cho phép châu Mỹ Latinh và vùng quần đảo Caraibi lượng định các hoàn cảnh mới, và đề nghị các hướng đi của lộ trình riêng, thì câu trả lời đầu tiên của văn phòng thư ký Thượng Hội Ðồng Giám Mục đã là Thượng Hội Ðồng Giá Mục thì được, nhưng Hội nghị thì không; Thượng Hội Ðồng Giám Mục ở Roma thì được, Thượng Hội Ðồng Giám Mục bên châu Mỹ Latinh thì không, vì sức khỏe yếu kém của Ðức Giáo Hoàng.
Liên Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ Latinh và vùng quần đảo Caraibi đã trực tiếp đưa vấn đề lên Ðức Gioan Phaolô II, bầy tỏ ước muốn thực hiện một Hội nghị mới của tổ chức CELAM chứ không phải một Thượng Hội Ðồng Giám Mục.
Trước một khó khăn như thế Ðức Giáo Hoàng xin tham khảo ý kiến các Hồng Y châu Mỹ Latinh. 12 vị đề nghị thực hiện một Thượng Hội Ðồng Giám Mục và 18 vị đề nghị triệu tập một Hội nghị. Trong số các Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ Latinh 1 đề nghị họp Thượng Hội Ðồng Giám Mục, và 21 đề nghị triệu tập một Hội nghị mới. Khi đó Ðức Gioan Phaolo II thiết định rằng phải theo truyền thống của Giáo Hội châu Mỹ Latinh. Duy trì truyền thống này là điều nòng cốt đối với châu Mỹ Latinh, nhưng cũng nòng cốt đối với Giáo Hội hoàn vũ, để các Giáo Hội địa phương nở hoa trong sự hiệp thông với Ngai Tòa Roma, với mục vụ, thần học, phụng vụ, huấn quyền và các đại hội biểu quyết của các Giáo Hội địa phương, bằng cách có các dụng cụ mục vụ riêng, luôn ngày càng đâm rễ sâu và hội nhập văn hóa trong thực tại của từng vung miền và đại lục.
Linh Tiến Khải
(Vatican News)