Bối cảnh chuyến đi Ai Cập

của Ðức Phanxicô

 

Bối cảnh chuyến đi Ai Cập của Ðức Phanxicô.

Ai Cập (VietCatholic News 26-04-2017) - Về mặt chính thức, lời mời Ðức Giáo Hoàng Phanxicô thăm Ai Cập xuất phát từ Tổng Thống nước này và vị Chủ Tịch của cả Ðền Thờ lẫn Ðại Học lâu đời nhất thế giới Hồi Giáo là Al-Azhar.

Ðền thờ và Ðại Học Al-Azhar

Tên của Ðền Thờ và Ðại Học nói trên đặt theo tên của Fatima Az-Zahraa, con gái cưng của Muhammad, người mà triều đại Fatimid tự hào coi là tổ tiên.

Ðền thờ này được xây dựng trong hai năm bắt đầu từ năm 971 Công Nguyên, bởi Caliph Al-Mu'izz li-Din Allah. Ðây là đền thờ đầu tiên xây dựng tại Cairo, một thành phố, từ đó, có tên là "kinh thành của ngàn ngọn tháp". Trường thần học (madrassa) liên hê với Ðền Thờ được thiết lập năm 988 như một trường của phái Ismai Shia, nhưng không bao lâu sau, trở thành trường của phái Sunni cho tới nay. Nó tự coi mình là đại học Hồi Giáo lâu đời nhất thế giới, nhưng điều này bị Ðền Thờ Kairaouine ở Fes, Marốc, tranh cãi.

Trong hơn một thiên niên kỷ qua, sinh hoạt học thuật cốt lõi tại Al-Azhar vẫn là một: các sinh viên học Kinh Kôrăng và luật Hồi Giáo trong chi tiết, cùng với luận lý học, văn phạm, tu từ học, và cách tính các giai đoạn của chu kỳ mặt trăng. Phần lớn việc học hỏi này diễn ra bằng cách ngồi quanh (halqa) một vị thầy (sheik), lắng nghe ông ta và học thuộc lòng. Khi đã học lên cao hơn, sinh viên có thể tham gia cuộc tranh luận kiểu Sôcrát với các thầy dạy của mình và giảng dạy các lớp đàn em.

Al-Azhar không thu nhận các sinh viên không thực hành Hồi Giáo nhưng cung cấp việc huấn luyện các nghề thế tục; bởi thế, nó là một phối hợp độc đáo giữa một chủng viện thần học và một đại học thông thường, với việc thiết lập các phân khoa y khoa và kỹ sư vào năm 1961. Sĩ số hiện nay vào khoảng 90,000 sinh viên.

Al-Azhar được phần lớn người Hồi Giáo Sunni coi như trường luật Hồi Giáo nổi tiếng nhất, và các học giả của nó được coi như các học giả trổi vượt nhất trong thế giới Hồi Giáo. Mục đích công khai của nó luôn là truyền bá văn hóa Hồi Giáo và ngôn ngữ Ả Rập.

Ðể đạt mục đích trên, nó duy trì một ủy ban các ulemas (học giả) để phán quyết các vấn đề cá thể thuộc Hồi Giáo, một cơ quan in ấn để in Kinh Kôrăng, và huấn luyện các vị giảng thuyết về nghệ thuật giảng đạo và truyến bá đức tin Hồi Giáo. Al-Azhar được quản trị bởi một Hội Ðồng Tối Cao; Hội Ðồng này có nhiệm vụ ấn định chính sách tổng quát, đứng đầu bởi một Ðại Imam gọi là "Sheikh Al-Azhar".

Từ năm 1929, Al-Azhar ấn hành một tập san nhằm mục đích phổ biến các luật lệ tôn giáo, các đề tài liên quan tới việc truyền bá văn chương Hồi Giáo, và các pháp chế (sharia) căn bản, bao gồm các phân bộ lịch sử, địa dư, các bản dịch thuật và tin tức liên quan tới thế giới Hồi Giáo.

Vị Ðại Imam hiện nay của Al-Azhar từng tuyên bố rằng những kẻ chủ mưu cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 (vào tòa Tháp Ðôi New York) và các cuộc ném bom tự sát đều là những kẻ không đi theo con đường chân chính của Hồi Giáo. Trong một hội nghị mới đây ở Indonesia, vị này yêu cầu "mọi tín hữu đích thực" bác bỏ việc các diễn giả sai lạc đầy bạo động của Hồi Giáo lên tiếng tại các đền thờ, nhằm ngăn chặn việc lan tràn các ý thức hệ bạo lực.

Ðại giáo trưởng Ahmed el-Tayeb

Tên vị Ðại Imam nói trên chính là Ahmed el-Tayeb. Ông được nguyên Tổng Thống Hosni Mubarak bổ nhiệm năm 2010 và được coi là một trong các giáo sĩ ôn hòa nhất của phái Sunni Ai Cập. Ðậu tiến sĩ triết học Hồi Giáo tại Ðại Học Sorbonne, Paris, ông được bổ nhiệm làm chủ tịch Ðại Học Al-Azhar từ năm 2003.

Nói đến tính ôn hòa, phải kể đến đại hội quốc tế năm 2016 tại Chechnya, với sự tham dự của hơn 100 tư tưởng gia Sunni. Hội nghị này nhằm đưa ra "một chủ trương không khoan nhượng chống lại chủ nghĩa khủng bố takfiri (tuyên bố ai đó lạc giáo) ngày một gia tăng đang gây họa khắp thế giới". Ðại Imam el-Tayeb có tham dự đại hội này.

Trong một bài báo đăng ngay sau khi ông được cử đứng đầu Ðại Học Al-Azhar, Ðại Imam được mô tả là "một người trung thành của chế độ và là thành viên của Ðảng Dân Chủ Quốc Gia đang cầm quyền của Ông Mubarak, một thành viên có chủ trương cương quyết chống lại nhóm Huynh Ðệ Hồi Giáo (Muslim Brotherhood)". Ông được trích dẫn đã nói rằng Al-Azhar sẽ "không bao giờ là lãnh địa mở cửa cho Huynh Ðệ Hồi Giáo".

Bởi thế, ông ủng hộ cuộc đảo chánh truất phế Tổng Thống Mohamed Morsi, một lãnh tụ của Huynh Ðệ Hồi Giáo.

Ông cũng là người cực lực lên án ISIS, cho rằng nó hành động "dưới chiêu bài tôn giáo thánh thiêng và tự gán cho mình danh hiệu 'Nhà Nước Duy Hồi Giáo' trong mưu toan xuất cảng thứ Hồi Giáo Giả Mạo của chúng".

Có điều, ông không bao giờ minh nhiên coi bọn ISIS là lạc giáo. Vì theo trường phái Ash'ari của ông, ta không được gọi một tín đồ Hồi Giáo là người bỏ đạo, như phái chủ trương takfiri (tuyên bố ai lạc giáo) thường làm.

Trung dung giữa duy cực đoan và duy hiện đại

Trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi với nhật báo Al-Masry Al-Youm năm 2015, Ðại Imam Ahmed el-Tayeb giải thích lập trường của Al-Azhar liên quan tới lời kêu gọi của Tổng Thống el-Sisi muốn cổ vũ một viễn tượng thông sáng hơn bên trong Hồi Giáo. Một cách đặc biệt, Ðại Imam đề cập tới các sai lạc đầy tính bạo động của một số phần tử tự coi mình là Hồi Giáo, và vai trò thực sự của Al-Azhar trong cộng đồng Hồi Giáo.

Thực vậy, dịp kỷ niệm 4 năm cuộc Cách Mạng Ai Cập, Tổng Thống Abdel Fattah el-Sisi lên tiếng kêu gọi các vị hữu trách Hồi Giáo 'bước ra khỏi' luồng tư tưởng tôn giáo bị phần lớn nhân loại coi là đe dọa, ngõ hầu đem lại một viễn tượng 'thông sáng" hơn. Cuối lời kêu gọi, ông quay qua Ðại Imam mà nói rằng: "Ngài có trách nhiệm lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Toàn thế giới đang mong đợi lời lẽ của ngài".

Ðáp ứng của Ðại Imam diễn ra ngay sau đó, trong cuộc phỏng vấn ngày 14 tháng Giêng năm 2015. Trong cuộc phỏng vấn này, ông đề cập tới nhiều vấn đề: vai trò của Al-Azhar, chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo, việc huấn luyện các Imam, giáo huấn tôn giáo, cuộc tấn công tờ Charlie Hebdo ở Paris, và các mối tương quan với Huynh Ðệ Hồi Giáo và Nhà Nước Ai Cập.

Ðại Imam cho rằng sứ mệnh của Al-Azhar là trình bày phía trung dung, khoan thứ của Hồi Giáo [#]. Al-Azhar hiểu trọn vẹn sự kiện này: chúng ta đang ở trong một biến động mãnh liệt gây ra bởi các thay đổi lớn lao và các cuộc tranh chấp chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, và tôn giáo là một trong những quân bài mà những người tranh chấp đang cố gắng chơi trong cuộc tranh chấp này [#] Al-Azhar cố gắng ngày đêm chống lại biến động này [#], nhưng sẽ không làm một mình; việc này là trách nhiệm của Nhà Nước song song với Bộ Giáo Dục.

Mặt khác, Ðại Imam cho rằng "không ai có thể nói rằng chủ nghĩa cực đoan sẽ dễ dàng hay nhanh chóng bị tận diệt khỏi xã hội. Chúng ta đang đương đầu với một hiện tượng xã hội bén rể cả một thập niên qua".

Về việc huấn luyện để các imam (giáo sĩ) Hồi Giáo thuyết giảng tại các đền thờ, Ðại Imam đồng ý với quyết định của chính phủ Ai Cập đòi các giáo sĩ này phải có bằng cấp tốt nghiệp của Al-Azhar, cho rằng đây là "bước tiến đúng hướng" vì đã đến lúc không thể "để các bục giảng trong trạng thái hỗn loạn như trước đây".

Trước các phê phán về phương pháp huấn luyện của Al-Azhar, Ðại Imam cho rằng "ngoại trừ một trường hợp riêng rẽ ra, không một người ý thức hệ cực đoan và quá khích nào khắp thế giới đã tốt nghiệp từ Al-Azhar [...] và do đó, quả là đáng tiếc khi Al-Azhar không ngừng bị tố cáo phải chịu trách nhiệm đối với chủ nghĩa khủng bố".

Ðối với cuộc tấn công ở Paris, Ðại Imam tuyên bố rằng "không thể dùng việc giết người và thảm sát dã man để bảo vệ Hồi Giáo và Ðấng Tiên Tri và cái giá của việc này đang được người Hồi Giáo khắp thế giới trả. Ông kêu gọi người Hồi Giáo khắp nơi "lên án và công khai bác bỏ các hành vi tội ác như các cuộc tấn công ở Paris". Tuy nhiên, Ðại Imam, một lần nữa, không kết án lạc giáo cho những tên khủng bố này, coi chúng chỉ là những người tội lỗi, chứ không phải là kẻ không tin. Lập trường này, Ðại Imam cho rằng đã có từ thế kỷ thứ tám.

Cuối cùng, nói về vai trò của Al-Azhar, Ðại Imam cho rằng các ý kiến của Al-Azhar không có tính bó buộc, "chúng tôi không phải là ngành tư pháp ban hành các bản án, cũng không phải là cơ quan hành pháp ban hành các sắc lệnh. Chúng tôi không khua gậy trừng phạt những ai không phù hợp với ý kiến của mình. [...] Chúng tôi không thực hiện bất cứ sự bảo hộ nào, và cũng không phải là một thế lực tôn giáo".

Nói chung, Ðại Imam không bác bỏ việc đền thờ có nhiều vấn đề, nhưng cương quyết bác bỏ các mưu toan tô vẽ nó như người xúi bẩy bạo lực vốn là phần bệnh hoạn của thế giới Hồi Giáo ngày nay.

Các nhà bình luận cho rằng lời lẽ của el-Tayeb đại diện cho một nền văn hóa tôn giáo có lẽ khá phổ biến trong các xã hội Hồi Giáo hiện nay; nền văn hóa này lên án bạo lực nhân danh Thiên Chúa, nhưng gặp khó khăn lớn, không tích cực đương đầu với các vấn đề của xã hội đương thời cũng như các khát vọng mà các cuộc cách mạng Ả Rập đã đem lại dù một cách thoáng qua. Ðây cũng là một lập trường lúng túng, kẹt cứng giữa hai luận bác. Một đàng có luận bác duy Hồi Giáo cho rằng cả về lượng lẫn về phẩm, sự hiện diện của Hồi Giáo trong xã hội không bao giờ đủ cả. Một đàng là lập trường duy hiện đại, muốn Hồi Giáo hoà giải với lý trí và khoa học, và có khả năng để lại sau lưng một truyền thống sẵn sàng sát hại người bỏ đạo, phân biệt đối xử giữa người Hồi Giáo và người không theo Hồi Giáo, khuất phục phụ nữ, như nhà phân tích Adil Numaan nhận định trên cùng nhật báo đã đăng bài phỏng vấn Ðại Imam.

Ðức Phanxicô, với thái độ hết sức cởi mở không những đối với các hệ phái Kitô Giáo và các tôn giáo hoàn cầu, mà còn đối với xã hội và văn hóa nói chung, có thể là một chất xúc tác để el-Tayeb mạnh dạn hơn trong các dấn thân của ông.

Trong thông điệp gửi nhân dân Ai Cập trước khi lên đường tới đó vào ngày 28 tháng 4 năm 2017, Ðức Phanxicô cám ơn "ngài tổng thống nước Cộng Hòa, Ðức Thượng Phụ Tawadros II, Ðại Imam của Ðại Học Al-Azhar và Ðức Thượng Phụ Công Giáo Coptic đã mời tôi".

Ðức "Giáo Hoàng" Tawadros II chính là vị đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Coptic (Ai Cập), người mà theo Ðức Hồng Y Leonardo Sandri, bộ trưởng Thánh Bộ Các Giáo Hội Ðông Phương, Ðức Phanxicô đến để "củng cố đức tin".

Nói như thế chỉ là lặp lại một công thức quen thuộc, thực tế, ngài tới để biểu dương tình liên đới với các Kitô hữu thiểu số trong một quốc gia đại đa số theo Hồi Giáo Sunni, mà phần lớn các Kitô hữu này thuộc Giáo Hội Chính Thống Coptic (khoảng 10 triệu) đang bị các tên khủng bố cuồng tín tấn công dã man, trong khi các tín hữu Công Giáo chỉ chiếm chừng 0.34% dân số.

Việc trên hết sức cần thiết, vì tình hình gay cấn do các nhóm chính trị đội lốt tôn giáo gây ra cho các Kitô hữu nói chung và đặc biệt cho tín hữu Coptic nói riêng. Các đối tượng này, trong cảm thức của tín hữu Ai Cập, chỉ là một, bất kể họ là Thệ Phản, Công Giáo hay chính thống Chính Thống.

Cảm thức hợp nhất trên sẽ được đánh động và tăng cường khi Ðức Phanxicô tới Cairo ngày 28 tháng này để ôm hôn Ðức Tawadros II, mà người Chính Thống Coptic vốn gọi là "giáo hoàng" (Pope).

Giáo Hội Chính Thống Coptic

Tước hiệu "giáo hoàng" dành cho vị đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Coptic đủ làm cho Giáo Hội này khác với các Giáo Hội Chính Thống khác, mà người đứng đầu thường chỉ là Thượng Phụ.

Thực thế, Giáo Hội này được thành lập trước mọi Giáo Hội Chính Thống khác, thậm chí còn trước cả mọi Giáo Hội Kitô Giáo khác, kể cả Giáo Hội Rôma. Vì, theo truyền thuyết, nó được thành lập nhân danh Chúa Giêsu Kitô bởi thánh sử Máccô tại Thành Phố Alexandria khoảng năm 43 Công Nguyên.

Ai cũng biết Thánh Máccô, người viết Tin Mừng đầu tiên, một trong 70 môn đệ, sinh tại Libya sau Chúa Giêsu 3 năm. Cha mẹ ngài người Do Thái, sau di chuyển tới Palestine. Nhà của Thánh Máccô vốn là nơi Chúa hay gặp các tông đồ, nơi Người cử hành Lễ Vượt Qua với các ông. Tại nhà này, các tông đồ cũng đã tụ tập lúc Chúa Thánh Thần hiện xuống vào Lễ Ngũ Tuần.

Truyền thuyết Coptic kể rằng: Thánh Máccô được cử đi truyền bá Tin Mừng ở Alexandria, Ai Cập. Một hôm, tại đây, dép của ngài bị đứt quai phải vào nhà Ananias, người thợ giầy, để sửa. Trong khi sửa dép cho ngài, Ananias bị đứt ngón tay, kêu thấu trời "ối thần duy nhất ơi!" Thánh Máccô chữa lành ngón tay cho ông và giải thích cho ông hay "Thần Duy Nhất" là ai. Ananias bèn mời ngài về nhà mình. Thế là cả nhà chịu Phép Rửa sau khi tuyên xưng Chúa Kitô. Chẳng bao lâu sau, nhiều người khác cùng tham gia vơí họ, và nhà Ananias trở thành địa điểm gặp gỡ của các tín hữu.

Năm 62, trước khi rời Ai Cập để đi truyền bá Tin Mừng tại Pentapolis, Thánh Máccô phong chức cho Ananias làm giám mục. Trở lại Ai Cập sau khi Thánh Phêrô và Thánh Phaolô chịu tử đạo, Thánh Máccô thấy Giáo Hội ở đây phát triển tốt đẹp nên ngài đã phong chức cho 3 linh mục, 7 phó tế để phụ giúp Ananias. Năm 68, đang lúc cầu nguyện với giáo dân, ngài bị những người thờ ngẫu thần tấn công, bị họ bắt giam và hành hạ cho tới chết. Ngài được coi là vị giáo hoàng đầu tiên của Giáo Hội Coptic; và Ðức Tawadros II hiện nay là vị giáo hoàng thứ 118 của Giáo Hội này.

Thực ra, theo người Copt, nguồn gốc của Giáo Hội này còn có trước cả Thánh Máccô nữa khi Thánh Gia tới đó lánh nạn lúc Chúa Giêsu chỉ mới sinh ra được ít ngày. Người Chính Thống Coptic coi đây là nền tảng của Giáo Hội họ. Tuy nhiên, về mặt chính thức, họ vẫn coi Thánh Máccô là vị sáng lập ra Giáo Hội của họ, khi ngài tới đây giảng đạo, chịu tử đạo tại Alexandria vào thời Nêrông cai trị Rôma.

Ðến cuối thế kỷ thứ hai, Kitô Giáo đã vững vàng ở Ai Cập. Năm 190 CN, Giáo Hội Alexandria đã trao đổi Các Thư Phục Sinh với các Giáo Hội Giêrusalem và Antiôkia liên quan tới việc định ngày cho Lễ Phục Sinh và đã có tới 40 giáo phận thuộc quyền của Ðức Giáo Hoàng Alexandria...

Sau đó, Giáo Hội Coptic bị bách hại nặng nề bởi đế quốc Rôma. Cho đến thời Hoàng Ðế Valerian khoảng năm 302, có tới 800,000 Kitô hữu chịu tử đạo tại Ai Cập.

Lúc Thánh Máccô chết tại Alexandria năm 68 Công Nguyên, xác ngài được chôn cất trong một nhà nguyện ở Beucalis. Năm 828, di cốt ngài bị đánh cắp và đem về chôn tại nhà thờ Venice, Ý. Năm 1970, nhà thờ chánh tòa lớn nhất Châu Phi được xây tại Cairo, tức Nhà Thờ Chánh Tòa Coptic Thánh Máccô. Trước khi hoàn thành nhà thờ, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI hoàn trả hài cốt Thánh Máccô cho Giáo Hội Chính Thống Coptic và hài cốt này đã được đặt dưới bàn thờ chính, nơi, từ đó, hàng tuần, giáo dân họp lại nghe "giáo hoàng" hiệu triệu.

Tín lý và ly giáo

Dĩ nhiên ngài hiệu triệu về đức tin Chính Thống Coptic. Ðức tin này dựa trên Kinh Tin Kính Nixêa là đức tin mà Thánh Atanasiô (296-373 CN), vị giáo hoàng thứ 12 của Giáo Hội Coptic, đã bảo vệ cách hữu hiệu khi bênh vực tín điều về Thần Tính của Chúa Giêsu Kitô tại Công Ðồng Nixêa năm 325. Việc bênh vực này đem lại cho ngài hai tước hiệu "Cha của nền Chính Thống" và "Atanasiô Tông Ðồ".

Tuy nhiên, năm 451 CN, Công Ðồng Chung Thứ Tư tại Canxêđoan diễn ra và đã chia rẽ Giáo Hội Công Giáo hay Giáo Hội "phổ quát". Các quyết định của Công Ðồng này liên quan tới bản tính của Chúa Giêsu Kitô.

Ðịnh tín Canxêđoan quả quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô quả là Ngôi Lời nhập thể, là chính Con Thiên Chúa "sinh bởi Chúa Cha từ trước vô cùng". Ðịnh tín này nói rằng Trinh Nữ Maria quả thực là Mẹ Thiên Chúa vì Ðấng sinh ra bởi ngài "theo xác thịt" tại Bêlem, là Con Thiên Chúa không do tạo dựng và có thiên tính, là một trong Ba Ngôi Thánh Thiêng. Công đồng tuyên bố rằng lúc sinh ra làm người, Ngôi Lời Thiên Chúa mang trọn nhân tính, trở nên một người đích thực về đủ mọi phương diện, chỉ trừ tội lỗi. Như thế, theo định tín Canxêđoan, Chúa Giêsu Thành Nadarét là một ngôi vị (hypostasis) trong hai bản tính - bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa. Người là nhân bản trọn vẹn. Người là thiên bản trọn vẹn. Người là Thiên Chúa hoàn toàn và là con người hoàn toàn. Trong tư cách Thiên Chúa, Người là "một yếu tính" (homoousios) với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Trong tư cách con người, Người là "một yếu tính" (homoousios) với mọi hữu thể nhân bản.

Sự kết hợp thần tính và nhân tính trong Chúa Kitô được gọi là sự kết hợp ngôi vị (hypostatic union). Kiểu nói này muốn nói: trong một ngôi duy nhất, độc đáo của Chúa Kitô, thiên tính và nhân tính kết hợp với nhau một cách không hoà lẫn và lẫn lộn, cũng không tách biệt và chia lìa với nhau. Chúa Kitô là một ngôi vị, vừa là người vừa là Thiên Chúa. Con Thiên Chúa và Con Ðức Maria là một ngôi vị và là cùng một ngôi vị.

Quyết định trên của Công Ðồng Canxêđoan không được các môn đệ cực đoan của Thánh Xirilô thành Alexandria, và cả những ai có liên hệ với họ, chấp nhận. Những Kitô hữu tự xưng là độc tính (monophysites) này bác bỏ Công Ðồng Canxêđoan vì Công Ðồng này nói tới hai bản tính, ngược với công thức của Thánh Xirilô xác rín rằng lúc Nhập Thể, Chúa Kitô chỉ có một bản tính.

Sự chia rẽ vì thế đã diễn ra và mặc dù nhiều cố gắng tái hợp nhất đã được đưa ra trong các thế kỷ thứ 5 và thứ 6, và cả mới đây nữa, những người bất đồng với quyết định của Công Ðồng Canxêđoan vẫn đứng riêng ra một cõi so với các Giáo Hội Kitô Giáo khác, kể cả các Giáo Hội Chính Thống thoát thai từ cuộc đại ly giáo năm 1054.

Hiện nay, các Kitô hữu tự xưng là Ðộc Tính đứng trong Giáo Hội Coptic Ai Cập, Giáo Hội Êtiôpia, Giáo Hội Giacôbê Syria, Giáo Hội Syria Ấn Ðộ, và Giáo Hội Ácmênia. Các Giáo Hội này thường được gọi là các Giáo Hội Ðông Phương Nhỏ Hơn (Lesser Eastern Churches) hay các Giáo Hội Chính Thống Phương Ðông (Oriental Orthodox Churches).

Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng về mặt chính thức, Giáo Hội Coptic không bao giờ tin thuyết độc tính như cách mô tả của Công Ðồng Canxêđoan. Ta hãy đọc tuyên bố của Giáo Hội Coptic:

"Kitô hữu Copt tin rằng Chúa hoàn hảo trong thiên tính của Người, và Người hoàn hảo trong nhân tính của Người, nhưng thiên tính và nhân tính của Người kết hợp thành một bản tính gọi là 'bản tính của lời nhập thể' vốn được Thánh Xirilô Thành Alexandria nhắc đi nhắc lại. Như thế, Kitô hữu Copt tin hai bản tính 'nhân loại' và 'Thiên Chúa' kết hợp thành một 'không hoà lẫn, không lẫn lộn, và không thay đổi'(trích lời tuyên xưng đức tin ở cuối phụng vụ thánh Coptic).

Hai bản tính này 'không tách biệt nhau dù trong giây lát hay trong nháy mắt" (cũng trích từ lời tuyên xưng đức tin ở cuối phụng vụ thánh Coptic)".

Sự chia rẽ này đem lại hậu quả hết sức đáng tiếc và bi thảm là người Copt bị chính các đồng Kitô hữu của mình bách hại, sau khi bị người ngoại giáo Rôma bách hại. Ðến nỗi khi người Ả Rập tới xâm lăng vào giữa thế kỷ thứ 7, họ gặp rất ít kháng cự từ dân bản xứ.

Hạn từ "Coptic" là do chữ Hy Lạp "Aigyptos" có nghĩa "Người Ai Cập" nhưng bị người Ả Rập đọc trại thành "qibt". Và "qibt" dùng để chỉ cả "Người Ả Rập" lẫn "Kitô hữu".

Còn chữ "Chính Thống" là chỉ việc duy trì "Ðức Tin Nguyên Thủy" của người Copt, những người, qua nhiều thời đại, vẫn một lòng bảo vệ Kinh Tin Kính Xưa, chống lại nhiều cuộc tấn kích nhắm vào nó.

Người Copt tin rằng Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần bằng nhau trong một hợp nhất duy nhất; Chúa Giêsu Kitô là Ðấng Cứu Thế duy nhất của thế giới. Giáo Hội này ít thay đổi nhất về cả lễ nghi lẫn tín lý và sự kế thừa của các thượng phụ, giám mục, linh mục và phó tế Coptic luôn liên tục.

Các đóng góp Coptic cho Thế Giới Kitô Giáo

Người Copt tự hào về Didascalia, Trường Giáo Lý nổi tiếng đầu tiên ở Alexandria, nơi giảng dạy thế giới Kitô Giáo các phương pháp ẩn dụ và linh đạo để giải thích Thánh Kinh, nơi các học giả tiên khởi của Kitô Giáo mài miệt để chứng minh rằng lý trí và mạc khải, triết học và thần học không những tương hợp với nhau mà còn thiết yếu để có thể hiểu nhau nữa. Học giả vĩ đại nhất đầu tiên đứng đầu Didascalia là Pantaenus, người điều khiển trường này từ năm 180 tới năm 200 CN. Tuy nhiên, nhà thần học quan trọng nhất và là một tác giả viết nhiều nhất liên hệ tới trường này phải kể Origen.

Ðóng góp lớn lao thứ hai là phong trào đơn tu. Thực vậy, phong trào đơn tu của Kitô Giáo, dưới mọi hình thức, khởi đầu từ Ai Cập, lôi kéo trái tim Giáo Hội hướng về sa mạc, thực hành lối sống thiên thần bên trong. Việc này diễn ra vào lúc triều đình mở cửa chào đón các giáo sĩ và do đó gây nguy hại cho Giáo Hội vì công trình âm thầm và có tính linh thiêng bị hòa lẫn với quyền bính trần thế và nền chính trị cung đình.

Người Copt hiện nay

Người Copt tại Ai Cập hiện có khoảng 10 triệu, chiếm từ 13% tới 15% dân số cả nước. Ngoài ra, họ còn có nhiều cộng đoàn tại các nước Phương Tây.

Trước đây, dưới thời thống trị của Ả Rập, Giáo Hội Coptic gặp nhiều suy thoái về số tín hữu. Nhưng vào khoảng giữa thế kỷ 20, Giáo Hội này trải nghiệm được một cuộc phục hung chưa từng thấy. Cuộc phục hung này khởi diễn trong các thập niên bốn mươi và năm mươi trong các phong trào Trường Chúa Nhật Coptic tại Cairo, Giza và Asyut. Nhờ khí thế này, các thanh niên hiến đời mình cho Thiên Chúa và tham gia cùng các bậc thầy ở sa mạc. Ngày nay, nhiều nhà lãnh đạo Giáo Hội phát xuất từ cuộc phục hung tâm linh này. Tuy gọi là Trường Chúa Nhật Coptic, nhưng các lớp được tổ chức vào Thứ Sáu. Con em các gia đình Copt đua nhau tham dự suốt qua tuổi thiếu niên. Tại đây, các em tham dự nhiều sinh hoạt khác nhau, cả trên bình diện thiêng liêng lẫn trên bình diện xã hội.

Ngày nay, Giáo Hội Coptic lan tràn khắp thế giới, với các nhà thờ tại nhiều quốc gia khác nhau. Dưới sự lãnh đạo của thế hệ hiện nay, Giáo Hội quan tâm sâu sắc tới việc xóa nhòa các ý niệm trước đây về mình trên thế giới. Giáo Hội Coptic hiện duy trì đối thoại với Giáo Hội Công Giáo Rôma, cũng như nhiều Giáo Hội khác.

Thực vậy, nhờ các cố gắng truyền giáo mới đây, Giáo Hội Coptic đã thiết lập được nhiều nhà thờ tại Zambia, Kenya, Zaire, Zimbabwe, Namibia và South Africa. Giáo Hội cũng có mặt tại Anh, Âu Châu nói chung, Bắc Mỹ và Úc cùng Ðại Dương Châu. Hiện có khoảng 15 giáo phận và 500 giáo xứ bên ngoài Ai Cập.

Các nhà lãnh đạo

Hàng giáo sĩ của Giáo Hội Chính Thống Coptic do Ðức Giáo Hoàng của Alexandria lãnh đạo. Hiện nay là Ðức Tawadros II, nhậm chức từ năm 2012, kế nhiệm Ðức Shenouda III. Hàng trăm năm trước đây, Alexandria, thành phố lớn thứ nhì của Ai Cập, là trụ sở của Ðức Giáo Hoàng, nhưng hiện nay, nhà thờ chính tòa của ngài ở Cairo.

Cả Ðức Giáo Hoàng lẫn các giám mục đều là các đan sĩ. Còn các linh mục, họ phải có gia đình và học Trường Giáo Lý trước khi được thụ phong. Hiện có khoảng 60 giám mục cai quản các giáo phận ở trong nước cũng như ở ngoài nước.

Thánh Hội Ðồng (The Holy Synod) là cơ quan cao nhất chịu trách nhiệm về các việc thiêng liêng, Giáo Hội học, cơ cấu, tổ chức và kinh tế. Hội Ðồng này bao gồm mọi thành viên của hàng giám mục Coptic và một trưởng linh mục đại diện cho hàng giáo sĩ có gia đình. Hội đồng này chia thành 7 ủy ban: mục vụ, phụng vụ, liên lạc đại kết, đơn tu sự vụ, đức tin và đạo đức, và giáo phận sự vụ.

Ngoài ra, còn có hai cơ quan không có tính giáo sĩ: Hội Ðồng Giáo Dân Coptic do dân bầu, đã có từ năm 1883, giữ vai trò liên lạc giữa Giáo Hội và Chính Phủ, và ủy ban hỗn hợp giáo dân và giáo sĩ, thành lập năm 1928, giữ nhiệm vụ giám sát và theo dõi việc quản trị của cải của Giáo Hội phù hợp với luật lệ Ai Cập.

Các Bí Tích Coptic

Người Copt tuân giữ đủ 7 bí tích như người Công Giáo. Phép Rửa được cử hành vài tuần sau khi đứa trẻ sinh ra bằng cách dìm toàn thân em vào nước đã làm phép ba lần. Phép Thêm Sức được cử hành liền ngay sau Phép Rửa. Việc thường xuyên xưng tội với một linh mục của riêng mình, gọi là cha giải tội, là cần thiết để lãnh nhận Thánh Thể. Thói quen là cả gia đình cùng chọn một cha giải tội, do đó, biến vị này thành huấn đạo viên của cả gia đình. Trong bẩy bí tích, chỉ có phép hôn phối là không được cử hành trong mùa ăn chay. Ða hôn là bất hợp pháp, dù được dân luật trong nước thừa nhận. Ly dị không được phép trừ trường hợp ngoại tình, tuyên bố vô hiệu vì song hôn, hay các hoàn cảnh cực kỳ khác được tái duyệt bởi một hội đồng giám mục đặc biệt. Ly dị có thể được cả vợ lẫn cHồng Yêu cầu. Ly dị phần đời không được Giáo Hội thừa nhận. Giáo Hội Coptic không lưu tâm tới bất cứ luật dân sự nào nếu nó không can thiệp vào các bí tích của Giáo Hội. Giáo Hội cũng không có lập trường chính thức nào về một số vấn đề gây tranh cãi như phá thai chẳng hạn.

Ðức Tawadros II

Xem như thế, thực sự có rất ít dị biệt trầm trọng giữa Giáo Hội Chính Thống Coptic và Giáo Hội Công Giáo Rôma, cả trong phạm vi tín lý lẫn thực hành. Các dị biệt nếu có chắc chắn sẽ được nhìn bằng tầm nhìn mới khi hai vị giáo hoàng gặp nhau tại Cairo.

Người ta có quyền hy vọng như vậy vì thái độ hết sức cơỉ mở của Ðức Tawadros II. Thực vậy, ngài là người mau mắn tới Vatican hội kiến với Ðức Tân Giáo Hoàng Phanxicô, ngày 10 tháng 5 năm 2013, giữa lúc các Kitô hữu Ai Cập nói chung đang chịu áp lực nặng nề của Huynh Ðệ Hồi Giáo.

Nhân dịp này, Ðức Tawadros II nói với Ðức Phanxicô rằng Giáo Hội Coptic "cho tới nay từng bị dẫn thủy bằng máu của nhiều vị tử đạo, nhưng nhờ thế ngày một trở nên mạnh mẽ hơn".

Ðức Phanxicô đáp lại: hai Giáo Hội của chúng ta hợp nhất bằng "nền đại kết đau khổ... Máu các vị tử đạo là hạt giống gây sức mạnh và sự mầu mỡ của Giáo Hội như thế nào, thì việc chia sẻ các đau khổ hàng ngày cũng có thể trở thành một phương tiện hữu hiệu để hợp nhất".

Ðức Tawadros tiếp lời: "Mục đích quan trọng nhất cho cả Giáo Hội Công Giáo lẫn Giáo Hội Coptic là việc cổ vũ đối thoại đại kết hầu đạt được mục tiêu được theo đuổi hơn cả là hợp nhất!".

Ðức Phanxicô đáp lại: "Cho phép tôi bảo đảm với ngài rằng các cố gắng của ngài nhằm xây dựng sự hiệp thông giữa các tín hữu trong Chúa Kitô, và quan tâm sống động của ngài đối với tương lai xứ sở ngài và vai trò của cá cộng đồng Kitô Giáo trong xã hội Ai Cập tìm thấy tiếng vang sâu xa trong lòng người kế nhiệm Thánh Phêrô và toàn thể cộng đồng Công Giáo".

Không riêng đối với Giáo Hội Công Giáo, Ðức Tawadros II còn cố gắng bắt tay với cả kẻ thù của thế giới Ả Rập. Thực vậy, ngày 27 tháng 11 năm 2015, ngài là vị giáo hoàng Coptic đầu tiên thăm Giêrusalem kể từ năm 1832, ngược với chính sách tẩy chay Israel của vị tiền nhiệm, Ðức Shenouda III.

Và ai cũng biết Giáo Hội Chính Thống Coptic đặc biệt bị các nhóm Hồi Giáo quá khích ra mặt tấn công, nhất là vụ sát hại 23 vị tử đạo Coptic cách nay mấy năm và gần đây vụ đánh bom nhân dịp Lễ Lá. Nhưng Ðức Tawadros II không hận thù người Hồi Giáo nói chung. Tại một hội nghị đại kết các nhà lãnh đạo các Giáo Hội Kitô Giáo Trung Ðông họp tại Jordan năm 2016, ngài nói rằng Kitô hữu và người Hồi Giáo ôn hòa cần phải nắm tay nhau cùng làm việc để tôn vinh phẩm giá con người và đề cao các giá trị và nguyên tắc cao thượng. Chỉ bằng cách này, bạo lực và chủ nghĩa cuồng tín mới bị bác bỏ.

Bầu khí cởi mở do Ðức Tawadros II khởi xướng chắc chắn sẽ được ca tụng và thăng tiến trong dịp Ðức Phanxicô thăm viếng Cairo.

 

Vũ Văn An

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page