Mừng Xuân Ðinh Dậu 2017
Những Năm Dậu trong lịch sử
Giáo hội tại Việt Nam
Mừng Xuân Ðinh Dậu 2017: Những Năm Dậu trong lịch sử Giáo hội tại Việt Nam (*)
Sàigòn (WHÐ 27-01-2017) - Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bộ sách sử do Quốc Sử Quán triều Nguyễn soạn thảo vào khoảng năm 1856-1884, sự xuất hiện của một nhà truyền giáo phương Tây đến Việt Nam được ghi nhận trong quyển thứ 33 [1] như sau: "Theo sách Dã Lục [2], thì ngày tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, người Tây Dương tên là I-nê-khu lén lút đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân và xã Trà Lũ huyện Giao Thủy [3], ngấm ngầm truyền giáo về tả đạo Gia tô".
Như vậy, nếu lấy sự kiện được ghi trong sử sách nêu trên, đến nay Tin Mừng được rao giảng trên đất nước Việt Nam đã được 584 năm (1533-2017). Trong hơn năm thế kỷ đó, có 40 năm Dậu.
Nhân dịp Xuân về, đón năm mới Ðinh Dậu, nhìn lại những sự kiện trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam diễn ra trong các năm Dậu, vừa như một cách chào năm Ðinh Dậu 2017, vừa để "ôn cố tri tân".
* * *
Thế Kỷ 16
Ất Dậu 1585
Hai linh mục Luis de Fonseca, O.P. (Bồ Ðào Nha) và Grégoire de la Motte, O.P. (Pháp) từ Malacca tới Việt Nam năm 1580, giảng đạo tại Quảng Nam thời Chúa Nguyễn Hoàng suốt 6 năm (1580-1586). Năm 1585 (Ất Dậu), cha Fonseca bị binh lính của chúa Nguyễn Hoàng sát hại lúc ngài đang dâng thánh lễ. Năm sau (1586), cha Grégoire de la Motte cũng bị sát hại.
Thế Kỷ 17
Ất Dậu 1645
- Cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) bị chúa Nguyễn (lúc đó là chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Ngày 3.7.1645 cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) rời Ðàng Trong đi Macau. Ðến nơi, cha bắt tay viết Tường trình về Ðàng Trong và được ấn hành tại Paris năm 1652. Sách dày 135 trang. Ðây là bản phúc trình hoạt động của cha Ðắc Lộ ở Ðàng Trong trong các năm 1644- 1645. Trong sách, ngài kể lại cuộc bách hại đạo năm 1644 và cuộc tử đạo của thày giảng Anrê Phú Yên.
- Tháng 12 năm 1645, cha Ðắc Lộ từ Macau đi Roma. Ðến nơi, ngài phúc trình cho Tòa Thánh về những tiến triển mau chóng trong việc truyền giáo tại Việt Nam, nhất là xin Tòa Thánh gửi một số giám mục đến cánh đồng phì nhiêu này để củng cố nền móng Giáo Hội. Cha mang theo thủ cấp của thầy giảng Anrê Phú Yên (chịu tử đạo năm 1644 và được giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào ngày 5 tháng 3 năm 2000) về cất giữ tại trụ sở trung ương dòng Tên ở Roma.
Quý Dậu 1693
Ngày 1 tháng 7 năm 1693, Ðức cha Deydier (Hội Thừa sai Paris), đại diện Tông tòa Ðông Ðàng Ngoài (nay là giáo phận Hải Phòng), qua đời. Sau đó, vào năm 1696, Tòa Thánh đặt các giám mục xuất thân từ dòng Ða Minh đảm nhiệm đại diện Tông tòa, bắt đầu từ Ðức cha Raimondo Lezzoli, O.P.
Thế Kỷ 18
Ất Dậu 1765
- Dòng Thánh Augustinô kết thúc hoạt động truyền giáo tại Việt Nam, sau hơn 60 năm (1701-1765), với 15 vị thừa sai - trong đó có giám mục Ilario Costa di Gesu (1735-1754), 6 linh mục Việt Nam và 2 linh mục khác (người Bồ Ðào Nha), hoạt động tại khu vực Cửa Hàn (Ðà Nẵng), làm tuyên úy cho cộng đoàn nhỏ bé người Bồ Ðào Nha phần nhiều là những thương gia đi qua đi lại, hoặc trú ngụ tại đó từ trước năm 1596.
- Năm Ất Dậu 1765, chúa Trịnh Doanh (1740-1767) ra sắc chỉ cấm đạo (trước đó, năm Giáp Tuất 1754, viên chúa Trịnh này đã có sắc chỉ cấm đạo).
- Năm sinh của thánh Ða Minh Xuân (Dominicus Henarès), giám mục, tử đạo. Ngài sinh năm 1765 tại Baena, Cordova, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh. Ngài là giám mục phụ tá Ðại diện Tông tòa Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 25 tháng 6 năm 1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được Ðức Lêô XIII phong chân phước ngày 27 tháng 5 năm 1900, và Ðức Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Thế Kỷ 19
Ất Dậu 1825
Vua Minh Mạng truyền cho quan Biện hiệp ra chỉ dụ riêng cho quan trấn Quảng Nam về việc phải tăng cường ngăn chặn việc truyền bá đạo Công giáo. Nội dung chỉ dụ:
"Quan Biện Hiệp vâng lệnh hoàng thượng truyền rằng: Tà đạo của người Âu châu làm hư hỏng lòng người. Từ lâu các thuyền Âu châu khi đến buôn bán đã để lại nhiều thừa sai trong nước. Những đạo trưởng này dụ dỗ và làm hư hỏng nhân dân, đồng thời sửa đổi và phá đổ các tập tục tốt lành trong nước. Như thế không phải là một cái họa cho chúng ta sao? Chính vì thế, chúng ta cần phải chống lại tệ nạn này để dẫn đưa nhân dân trở về chính đạo. Vì lẽ đó, chúng tôi, các quan hằng tuân giữ các lệnh truyền của hoàng thượng, gửi cho quan trấn thủ Quảng Nam chỉ dụ của vua để khi có tàu Pháp đến thì phải chú tâm xem xét cẩn thận. Hơn nữa, cũng phải canh chừng cẩn thận các quan ải trên núi, dưới đất hay cửa biển hầu ngăn chặn bất cứ đạo trưởng Âu châu nào lén lút xâm nhập để họ không thể trà trộn trong dân chúng và gieo rắc tà đạo trong đất nước. Các đạo trưởng này kế tiếp nhau không gián đoạn và coi đó như là một việc thông thường. Minh Mệnh năm thứ sáu, ngày 1, tuần trăng thứ nhất (12.2.1825)".
Ðinh Dậu 1837
Thánh Gioan Tân (Jean Charles Cornay), sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris, địa phận tông tòa Tây Ðàng Ngoài, bị xử lăng trì ngày 20 tháng 9 năm 1837 (đời vua Minh Mạng) tại Sơn Tây.
Ất Dậu 1885
Ðức Mẹ hiện ra che chở các tín hữu Trà Kiệu trong hai ngày 10 và 11 tháng 9 năm 1885 (Ất Dậu) giữa cơn nguy biến diễn do Văn Thân gây ra. Về biến cố này, trang tin điện tử của giáo phận Ðà Nẵng viết:
"Trà Kiệu có một bề dày lịch sử cả đạo lẫn đời. Về lịch sử dân sự, Trà Kiệu nguyên là kinh đô Simhapura (Sư Tử Thành) của Vương quốc Champa vào cuối thế kỷ II sau Công nguyên. Nhiều hiện vật khảo cổ cũng đã được phát hiện dưới lòng đất trong khu vực này; mà hiện nay, một số tượng đá thời vương quốc Champa đã được thu tập và hình thành một "bảo tàng Chămpa" nho nhỏ tại Nhà xứ Trà Kiệu, do công của Cha Antôn Nguyễn Trường Thăng (Quản xứ Trà Kiệu từ 1975-1989).
Về lịch sử giáo hội Công Giáo, Trà Kiệu và cộng đoàn Dân Chúa Trà Kiệu được biết đến như là "chứng nhân đức tin" trong thời kỳ bách hại, với những cuộc tấn công không ngừng nghỉ của lực lượng "Văn Thân" nhằm triệt phá xứ đạo này. Cũng chính trong bối cảnh bị bách hại đó, Trà Kiệu đã được biết đến vì được "ơn lạ" của Thiên Chúa: Ðức Mẹ đã hiện ra để che chở và giải thoát đoàn con cái Chúa đang trong cơn nguy biến (ngày 10-11.9.1885). Và cũng từ biến cố này, một ngôi đền được dựng nên trên ngọn đồi Bửu Châu (cách nhà thờ Xứ Trà Kiệu khoảng 500 m) để kính nhớ và dâng tiến Ðức Trinh Nữ Maria với tước hiệu "Ðức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu". Năm 1958, Ðức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, đương nhiệm giám mục Quy Nhơn, đã chọn Trà Kiệu làm Trung tâm Thánh Mẫu của giáo phận Quy Nhơn và đã tổ chức Ðại hội Thánh Mẫu đầu tiên tại Trà Kiệu từ ngày 31 tháng 1 năm 1959 đến ngày 2 tháng 2 năm 1959.
Bốn năm sau (18.1.1963), khi tân giáo phận Ðà Nẵng được thành lập, tách khỏi giáo phận Mẹ Quy Nhơn, Trà Kiệu đã trở thành Trung tâm Thánh Mẫu của tân giáo phận. Ðại hội Thánh Mẫu lần II được tổ chức từ ngày 29 tháng 5 đến 31 tháng 5 năm 1971 cũng do Ðức cha Phêrô-Maria Phạm Ngọc Chi, lúc này là giám mục Chính tòa giáo phận Ðà Nẵng. Từ đó, hằng năm vào ngày Lễ Ðức Mẹ Ði Viếng 31 tháng 5, như một thông lệ, giáo dân từ các nơi tìm đến với Mẹ Trà Kiệu. Ðại hội Thánh Mẫu Trà Kiệu lần III chính thức được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 110 năm Ðức Mẹ hiện ra vào chính ngày 31 tháng 5 với khoảng 35,000 khách hành hương tham dự. Kể cả trong thời kỳ khó khăn, vẫn có những kỳ Ðại Hội tiếp theo: lần IV (năm 1997), lần V (năm Thánh 2000) và hằng năm vẫn được tổ chức với lượng người tham dự mỗi năm một thêm đông. Mỗi kỳ đại hội, ngoài cuộc kiệu rước trọng thể cung nghinh Mẹ Trà Kiệu từ nhà thờ xứ xuống nhà thờ Núi, những buổi diễn nguyện tôn vinh Ðức Mẹ và Thánh Lễ đại trào; cộng đoàn dân Chúa và khách hành hương lại có dịp sống gần Mẹ và sống gần nhau trong tâm tình tạ ơn, khẩn nguyện và quyết sống trọn vẹn đời sống chứng tá đức tin, như các bậc tiền nhân anh dũng. Hiện nay, ngoài dịp đại hội hằng năm (bắt đầu từ chiều 30/5 và kết thúc vào chiều 31/5), mọi ngày trong năm đều có khách hành hương từ mọi nơi đến viếng Mẹ, đặc biệt từ đầu tháng 5 đến hết tháng 8 dương lịch".
Tân Dậu 1861
Diễn ra 9 cuộc tử đạo (đời vua Tự Ðức) của các thánh:
- Thánh giám mục Gioan Ven (Jean Théophane Vénard), sinh năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Poitiers, Pháp, thuộc Hội Thừa sai Paris, đại diện Tông tòa Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 2 tháng 2 năm 1861 tại Ô Cầu Giấy (Hà Nội).
- Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu, sinh năm 1812 tại Gò Vấp, Gia Ðịnh, linh mục địa phận Tông tòa Tây Ðàng Trong, bị xử trảm ngày 7 tháng 4 năm 1861 tại Mỹ Tho.
- Thánh Giuse Tuân, sinh năm 1821 tại Trần Xá, Hưng Yên, linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 30 tháng 4 năm 1861 tại Hưng Yên.
- Thánh Gioan Ðoàn Trịnh Hoan, sinh năm 1798 tại Kim Long, Thừa Thiên, linh mục, bị xử trảm ngày 26 tháng 5 năm 1861 tại Ðồng Hới (Quảng Bình).
- Thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng (Ðắc), sinh năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình, trùm họ, bị xử trảm ngày 26 tháng 5 năm 1861 tại Ðồng Hới (Quảng Bình).
- Thánh Phêrô Bình (Petrus Almato), sinh năm 1830 tại San Feliz Saserra, Tây Ban Nha, linh mục dòng Ða Minh, phục vụ tại địa phận Tông tòa Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1 tháng 11 năm 1861 tại Hải Dương.
- Thánh giám mục Vinh (Berrio Ochoa), sinh năm 1827 tại Elorrio (Vizcaya), Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, đại diện Tông tòa Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1 tháng 11 năm 1861 tại Hải Dương.
- Thánh giám mục Thể (Etienne Théodore Cuénot), sinh năm 1802 tại Belieu, Besancon, Pháp, thuộc Hội Thừa Sai Paris, đại diện Tông tòa Ðông Ðàng Trong, chết rũ tù ngày 14 tháng 11 năm 1861 tại Bình Ðịnh.
- Thánh Giuse Nguyễn Duy Khang, sinh năm 1832 tại Trà Vi, Nam Ðịnh, thầy giảng dòng ba Ða Minh, bị xử trảm ngày 6 tháng 12 năm 1861 tại Hải Dương.
Thế Kỷ 20
Kỷ Dậu 1909
- Ngày 11 tháng 4 năm 1909, Ðức giáo hoàng Piô X phong chân phước cho 15 vị Tử đạo Việt Nam (xếp theo năm tử đạo):
* Dưới đời vua Thiệu Trị:
+ Inê Lê Thị Thành (Ðê), sinh năm 1781 tại Bái Ðền, Thanh Hóa, giáo dân, chết rũ tù ngày 12 tháng 7 năm 1841 tại Nam Ðịnh.
+ Phêrô Phạm Khanh, sinh năm 1780 tại Hòa Duệ, Nghệ An, linh mục, bị xử trảm ngày 12 tháng 7 năm 1842 tại Hà Tĩnh.
* Dưới đời vua Tự Ðức:
+ Giuse Nguyễn Văn Lựu, sinh năm 1790 tại Cái Nhum, Vĩnh Long, trùm họ, chết rũ tù ngày 2 tháng 5 năm 1854 tại Vĩnh Long.
+ Anrê Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông), sinh năm 1790 tại Gò Thị, Bình Ðịnh, Thầy giảng, chết rũ tù ngày 15 tháng 7 năm 1855 tại Mỹ Tho.
+ Lôrensô Nguyễn Văn Hưởng, sinh năm 1802 tại Kẻ Sài, Hà Nội, linh mục, bị xử trảm ngày 13 tháng 2 năm 1856 tại Ninh Bình.
+ Phaolô Lê Bảo Tịnh, sinh năm 1793 tại Trịnh Hà, Thanh Hóa, linh mục, bị xử trảm ngày 6 tháng 4 năm 1857 tại Bảy Mẫu (Nam Ðịnh).
+ Micae Hồ Ðình Hy, sinh năm 1808 tại Như Lâm, Thừa Thiên, giáo dân, Quan Thái Bộc, bị xử trảm ngày 22 tháng 5 năm 1857 tại An Hòa (Huế).
+ Phanxicô Trần Văn Trung, sinh năm 1825 tại Phan Xã, Quảng Trị, giáo dân, Cai đội, bị xử trảm ngày 6 tháng 10 năm 1858 tại An Hòa (Huế).
+ Phaolô Lê Văn Lộc, sinh năm 1830 tại An Nhơn, Gia Ðịnh, linh mục, bị xử trảm ngày 13 tháng 2 năm 1859 tại Gia Ðịnh.
+ Emmanuel Lê Văn Phụng, sinh năm 1796 tại Ðầu Nước, Cù Lao Giêng, giáo dân, trùm họ, bị xử trảm ngày 31 tháng 7 năm 1859 tại Châu Ðốc (An Giang).
+ Phêrô Ðoàn Công Quý, sinh năm 1826 tại Búng, Gia Ðịnh (nay thuộc Bình Dương), linh mục, bị xử trảm ngày 31 tháng 7 năm 1859 tại Châu Ðốc (An Giang).
+ Phêrô Bắc (Pierre Francois Neron), sinh năm 1818 tại Bornay, Saint-Claude, Pháp, Hội Thừa sai Paris, linh mục địa phận tông tòa Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 3 tháng 11 năm 1860 tại Sơn Tây.
+ Matthêu Nguyễn Văn Phượng (Ðắc), sinh năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình, trùm họ, bị xử trảm ngày 26 tháng 5 năm 1861 tại Ðồng Hới (Quảng Bình).
+ Ðức cha Thể (Etienne Théodore Cuénot), sinh năm 1802 tại Belieu, Besancon, Pháp, giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận tông tòa Ðông Ðàng Trong, chết rũ tù ngày 14 tháng 11 năm 1861 tại Bình Ðịnh.
+ Giuse Nguyễn Duy Khang, sinh năm 1832 tại Trà Vi, Nam Ðịnh, Thầy giảng dòng ba Ða Minh, bị xử trảm ngày 6 tháng 12 năm 1861 tại Hải Dương.
- Ngày 12 tháng 6 năm 1909, ba linh mục của giáo phận Vinh bị chính quyền thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Ðảo vì tham gia chống Pháp: Ðậu Quang Lĩnh, thư ký Toà giám mục; Nguyễn Thần Ðồng, chính xứ Chính toà Vinh; Nguyễn Văn Tường, quản lý Nhà chung Xã Ðoài.
Quý Dậu 1933
- Ngày 10 tháng 1 năm 1933, Ðức giáo hoàng Piô XI bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (Ðịa phận tông tòa Sài Gòn) làm giám mục phó đại diện Tông tòa Phát Diệm, và ngày 11 tháng 6 năm 1933, đã diễn ra lễ tấn phong giám mục tại Ðền thánh Phêrô, do Ðức giáo hoàng Piô XI chủ phong.
- Ðức cha Nguyễn Bá Tòng trở thành vị giám mục Việt Nam tiên khởi, sau đúng 400 năm Tin Mừng được rao giảng tại Việt Nam (1533-1933).
Ất Dậu 1945
- Ngày 14 tháng 6 năm 1945, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Anselmô Lê Hữu Từ, bề trên Ðan viện Xitô Phước Sơn (Nho Quan), làm giám mục đại diện Tông tòa Phát Diệm. Ngài là vị giám mục thứ năm người Việt Nam, sau bốn vị trước đó: Ðức cha G.B. Nguyễn Bá Tòng (1933), Ðức cha Ða Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn (1935), Ðức cha Phêrô Martinô Ngô Ðình Thục (1938), Ðức cha Gioan Maria Phan Ðình Phùng (1940).
- Ngày 29 tháng 10 năm 1945, ngài được Ðức cha G.B. Nguyễn Bá Tòng (chủ phong) và Ðức cha Ða Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn (phụ phong) tấn phong giám mục tại Phát Diệm.
Ðinh Dậu 1957
- Sau 169 năm rời khỏi Việt Nam (1788-1957), năm 1957, các tu sĩ Dòng Tên được Giáo hội Việt Nam mời trở lại. Ngày 13 tháng 9 năm 1958, Dòng Tên nhận trách nhiệm điều khiển Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X tại Ðà Lạt, đồng thời khuếch trương nhiều hoạt động khác nhau trong các lãnh vực văn hóa xã hội.
- Ngày 5 tháng 7 năm 1957, Ðức giáo hoàng Piô XII thiết lập giáo phận Tông tòa Nha Trang, và đặt Ðức cha Paul Raymond- Marie-Marcel Piquet, thuộc Hội Thừa sai Paris, làm đại diện Tông tòa tiên khởi. Giáo phận mới được tách từ giáo phận Tông tòa Quy Nhơn (gồm hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận) và từ giáo phận Tông tòa Sài Gòn (gồm hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy).
Kỷ Dậu 1969
Dòng Phanxicô Việt Nam được nâng lên hàng Tỉnh dòng, sau 40 năm được thành lập tại Việt Nam (1929-1969).
Tân Dậu 1981
- Ngày 24 tháng 3 năm 1981, Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang, chính xứ nhà thờ Chính tòa Hà Nội, làm giám mục phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội.
- Ngày 26 tháng 3 năm 1981, Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Phêrô Trần Thanh Chung, nguyên giám đốc Tiểu chủng viện Thừa sai Kon Tum, làm giám mục phó giáo phận Kon Tum.
- Ngày 1 tháng 5 năm 1981, Hội đồng Giám mục họp thường niên tại Hà Nội.
- Ngày 19 tháng 6 năm 1981 Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Giuse Trinh Chính Trực, chính xứ nhà thờ Chính tòa Ban Mê Thuột, làm giám mục phó giáo phận Ban Mê Thuột.
- Ngày 15 tháng 12 năm 1981, Ðức cha Giuse Nguyễn Thiện Khuyến, giám mục phó giáo phận Phát Diệm từ trần, thọ 81 tuổi.
Quý Dậu 1993
- Ngày 1 tháng 2 năm 1993, phái đoàn Toà Thánh, do Ðức ông Claudio Celli dẫn đầu, sang Việt Nam.
- Ngày 22 tháng 3 năm 1993, Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Gioan B. Phạm Minh Mẫn, giám đốc Ðại chủng viện Thánh Quý (Cần Thơ), làm giám mục phó giáo phận Mỹ Tho.
- Ngày 18 tháng 10 năm 1993, Ðại hội Thường niên Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam lần đầu tiên họp tại Sài Gòn.
Thế Kỷ 21
Ất Dậu 2005
- Ngày 19 tháng 2 năm 2005, Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, chính xứ Phú Hậu (Huế), làm giám mục phụ tá Tổng giáo phận Huế. Ngài là vị giám mục Việt Nam cuối cùng được Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm, vì gần hai tháng sau, ngày 2 tháng 4 năm 2005, Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời.
- Ngày 8 tháng 11 năm 2005, Ðức tân giáo hoàng Bênêđictô XVI bổ nhiệm linh mục Giuse Võ Ðức Minh, chính xứ Chính tòa Ðà Lạt, làm giám mục phó giáo phận Nha Trang. Ngài là vị giám mục Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm dưới thời Ðức tân giáo hoàng Bênêđictô XVI (được bầu làm giáo hoàng ngày 19 tháng 4 năm 2005).
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
(*) Bài đã đăng trên Bản tin Hiệp Thông số 98 của Hội đồng Giám mục Việt Nam
[1] Quyển thứ 33 của Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên, chép sử "Từ Quý Mão, năm Cảnh Trị thứ nhất (1633) đến Ất Mão, Lê Gia Tông, năm Ðức Nguyên thứ hai (1675), gồm 13 năm".
[2] Sách Dã Lục: sách do tư nhân, chứ không do sử quan viết (chính biên).
[3] Nam Chân và Giao Thủy nay thuộc tỉnh Nam Ðịnh.
Thành Thi