Ðức Thánh Cha Phanxicô

trả lời các nhà báo quốc tế

trên chuyến bay từ Malmoe về Roma

 

Ðức Thánh Cha Phanxicô trả lời các nhà báo quốc tế trên chuyến bay từ Malmoe về Roma trưa ngày 1-11-2016.

Roma (Vat. 3-11-2016) - Trưa ngày mùng 1 tháng 11 năm 2016 trên chuyến bay từ Malmoe về Roma Ðức Thánh Cha Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một giờ phỏng vấn về chuyến viếng thăm Thụy Ðiển và một vài vấn đề khác. Sau đây là nội dung bài phỏng vấn:

Mở đầu ông Greg Burke, Giám đốc phòng báo chí Toà Thánh, nói:

- Chúng con xin cám ơn và kính chào Ðức Thánh Cha. Ðức Thánh Cha đã nói nhiều về việc các tôn giáo khác nhau "cùng bước đi". Cả chúng ta cũng đã cùng đi với nhau, có người đây là lần đầu tiên. Chúng con có một nhà báo Thụy Ðiển. Con nghĩ là từ lâu rồi bây giờ mới có một nhà báo Thụy Ðiển cùng tháp tùng chuyến bay với Ðức Thánh Cha. Vì thế xin nhường lời cho chị Elin Swedenmark của hãng tin Thụy Ðiển "TT".

Ðáp: Trước hết tôi xin chào và cám ơn anh chị em về công việc anh chị em đã làm, và cái lạnh anh chị em đã phải chịu. Nhưng chúng ta đã khởi hành đúng giờ, vì người ta nói rằng chiều nay nhiệt độ sẽ xuống thêm 5 độ nữa. Chúng ta đã khởi hành đúng giờ. Xin cám ơn rất nhiều. Xin cám ơn anh chị em về sự đồng hành và về công việc của anh chị em.

Chị Elin Swedenmark hỏi:

- Thưa Ðức Thánh Cha, hôm qua Ðức Thánh Cha đã nói về cuộc cách mạng của sự dịu hiền. Ðồng thời chúng ta cũng ngày càng trông thấy nhiều người đến từ Siria hay Iraq tìm tỵ nạn tại các nước Âu châu. Nhưng một số người phản ứng với sự sợ hãi, hay tệ hơn có người nghĩ rằng các người tỵ nạn này có thể đe dọa nền văn hóa của Kitô giáo. Ðâu là sứ điệp của Ðức Thánh Cha đối với những người lo sợ cho sự phát triển của tình trạng này, và đâu là sứ điệp Ðức Thánh Cha nhắn gửi Thụy Ðiển, là quốc gia có truyền thống dài tiếp đón người tỵ nạn, nhưng bây giờ bắt đầu đóng cửa biên giới của mình?

Ðáp: Trước hết như là người Argentina và nam mỹ latinh tôi xin cám ơn nước Thụy Ðiển rất nhiều vì sự tiếp đón này, bởi vì có rất nhiều người Argentina, Chilê, Uruguay đã được tiếp nhận vào Thuỵ Ðiển trong thời các chế độ quân đội độc tài. Thụy Ðiển đã có một truyền thống lâu dài tiếp nhận người tỵ nạn. Nhưng không phải chỉ tiếp nhận thôi, mà còn hội nhập họ, tìm nhà cửa, trường học và công việc làm ngay cho họ, hội nhập họ vào cuộc sống của một dân tộc. Theo các thống kê người ta nói cho tôi - có lẽ tôi lầm, tôi không biết chắc - nhưng tôi có nhớ là - Thụy Ðiển có bao nhiêu dân? Chín triệu? Trong số 9 triệu đó có 850,000 người "Thuỵ Ðiển mới", nghĩa là các người di cư hay tỵ nạn và con cái họ. Ðó là điều thứ nhất. Ðiều thứ hai, cần phải phân biệt người di cư và người tỵ nạn. Người di cư phải được đối xử với vài luật lệ nào đó, bởi vì di cư là một quyền, nhưng là một quyền được luật lệ xác định. Trái lại người tỵ nạn đến từ một tình trạng chiến tranh, lo âu, đói khổ, một tình trạng kinh khủng, và quy chế tỵ nạn cần săn sóc họ nhiều hơn và cho họ công việc làm nhiều hơn. Cả trong điều này nữa Thụy Ðiển đã luôn luôn là một gương mẫu trong việc lo lắng cho người tỵ nạn, được học tiếng, hiểu nền văn hóa, và hội nhập vào nền văn hóa. Liên quan tới khiá cạnh hội nhập các nền văn hóa chúng ta không có gì phải hoảng hốt, bởi vì Âu châu đã được tạo thành với một sự hội nhập liên tục của các nền văn hóa, biết bao nền văn hóa. Tôi tin rằng - điều này tôi không nói một cách xúc phạm, không đâu, nhưng như là một sự tò mò - sự kiện ngày nay tại Islen, một cách cụ thể một người Islen với tiếng Islen ngày nay, có thể đọc các tác giả cổ điển một ngàn năm trước mà không gặp khó khăn nào, có nghĩa nó là một nước có ít cuộc di cư, ít làn sóng di cư như Âu châu đã có. Âu châu đã được thành hình với các cuộc di cư. Thế rồi tôi nghĩ gì về những nước đóng cửa biên giới: tôi tin rằng trên lý thuyết không thể khép kín tâm lòng đối với một ngươi tỵ nạn, nhưng cũng cần sự thận trọng của giới lãnh đạo: họ phải rất rộng mở tiếp đón người tỵ nạn, nhưng cũng phải tính toán xem có thể ổn định người tỵ nạn như thế nào. Bởi vì không phải chỉ tiếp đón một người tỵ nạn mà thôi, nhưng cũng cần phải hội nhập họ nữa. Và nếu một nước có khả năng hội nhập 20 người thôi, chẳng hạn, thì hãy làm tới đó thôi. Một nước khác có khả năng nhiều hơn, thì làm nhiều hơn. Nhưng luôn luôn phải có con tim rộng mở: đóng cửa không phải là nhân đạo, đóng con tim không phải là nhân bản, và về lâu về dài phải tính sổ với điều đó. Ở đây là trả giá chính trị, cũng như phải trả giá chính trị khi không thận trọng trong các tính toán, nhận nhiều người hơn là số có thể hội nhập. Bởi vì đâu là nguy cơ khi một người tỵ nạn hay một người di cư - điều này có giá trị cho cả hai - không được hội nhập, không hội nhập được? Tôi xin được phép nói một từ có lẽ là một kiểu nói mới "họ bị ghetto hoá" - họ vào trong một ghetto, một khu vực đóng kín. Ðó là một nền văn hóa không phát triển trong tương quan với nền văn hóa khác, điều này nguy hiểm. Tôi tin rằng cố vấn xấu đối với các quốc gia hướng tới chỗ đóng các biên giới là sự sợ hãi, và cố vấn tốt nhất là sự thận trọng. Tôi đã nói chuyện với một nhân viên chính quyền Thụy Ðiển trong các ngày này, và ông ta kể cho tôi nghe một vài khó khăn trong lúc này - điều này có giá trị cho câu hỏi cuối cùng của chị - vài khó khăn, bởi vì có biết bao người tỵ nạn đến, nhưng không có thời giờ để định cư họ, tìm nhà ở, trường học và việc làm cho họ, để họ học tiếng. Sự cẩn trọng phải biết tính toán. Nhưng Thụy Ðiển, tôi không tin rằng nếu Thuỵ Ðiển giảm khả năng tiếp đón là vì ích kỷ hay vì đã đánh mất đi khả năng đó. Nếu có điều gì như thế, thì là vì điều cuối cùng tôi đã nói: ngày nay biết bao người nhìn vào Thuỵ Ðiển vì họ biết sự tiếp đón của nó, nhưng để sắp xếp, thì không có thời giờ thu xếp cho tất cả mọi người . Không biết tôi đã trả lời cho câu hỏi của chị chưa.

Ông Greg Burke nói:

- Xin cám ơn Ðức Thánh Cha bây giờ tới câu hỏi của đài truyền hình Thuỵ Ðiển: chị Anna Cristina Kappelin thuộc đài truyền hình Sveriges:

- Hỏi: Thưa Ðức Thánh Cha, Thụy Ðiển đã đón tiếp cuộc gặp gỡ đại kết quan trọng, có một phụ nữ lãnh đạo Giáo Hội của nó, Ðức Thánh Cha nghĩ gì về điều này? Có cụ thể không, khi nghĩ tới các phụ nữ linh mục trong Giáo Hội công giáo, trong các thập niên tới đây? Nếu không thì tại sao? Các linh mục công giáo sợ sự cạnh tranh của phụ nữ linh mục hay sao?

Ðáp: Khi đọc lịch sử của vùng đất mà chúng ta đã viếng thăm, tôi thấy đã có một hoàng hậu bị goá tới 3 lần, và tôi đã nói: "Bà này mạnh thật". Và người ta đã nói với tôi rằng "Phụ nữ Thụy Ðiển rất là mạnh khỏe, rất giỏi, vì thế có nam giới Thụy Ðiển tìm một người phụ nữ thuộc quốc tịch khác". Tôi không biết có đúng không! Liên quan tới việc truyền chức cho phụ nữ trong Giáo Hội Công Giáo lời cuối cùng rõ ràng đã là lời của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, và lời đó tồn tại. Ðiều này tồn tại. Về việc cạnh tranh thì tôi không biết...

Nếu chúng ta đọc kỹ lời tuyên bố của Ðức Gioan Phaolô II, thì nó đi theo đường hướng này. Vâng. Nhưng các phụ nữ có thể làm biết bao nhiêu việc, tốt hơn nam giới. Và cả trong lãnh vực tín lý - để minh giải - có lẽ để có một sự rõ ràng hơn - không phải chỉ quy chiếu một tài liệu thôi - trong giáo hội học công giáo có hai chiều kích: chiều kích Phêrô là chiều kích của các Tông Ðồ - Phêrô và Ðoàn Tông Ðồ là mục vụ của các Giám Mục - và chiều kích thánh mẫu Maria là chiều kích nữ giới của Giáo Hội. Và điều này tôi đã nói hơn một lần rồi. Tôi tự hỏi, ai quan trọng hơn trong nền thần học và trong nền thần bí của Giáo Hội: các tông đồ hay Ðức Maria, trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống? Ðó là Ðức Maria! Còn hơn thế nữa: Giáo Hội là phụ nữ. Ðó là "La" Chiesa giống cái, chứ không phải "Il" Chiesa giống đực. Ðó là Giáo Hội phụ nữ. Ðó là Giáo Hội hiền thê của Chúa Giêsu Kitô. Ðó là một mầu nhiệm phu thê. Và dưới ánh sáng của mầu nhiệm này người ta hiểu cái tại sao của hai chiều kích này: chiều kích phêrô, nghĩa là giám mục và chiều kích thánh mẫu Maria, với tất cả những gì là chức làm mẹ của Giáo Hội, nhưng trong nghĩa sâu thẳm nhất. Không có Giáo Hội mà không có chiều kích nữ giới này, bởi vì Giáo Hội là nữ giới.

Ông Greg Burke nói bây giờ tới một câu hỏi của anh Austen Ivereigh, hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha:

- Hỏi: Thưa Ðức Thánh Cha, mùa thu này đã rất phong phú với các cuộc gặp gỡ đại kết với các Giáo Hội truyền thống: Chính Thống, Anh giáo, và bây giờ là Luther. Nhưng đa số các tín hữu tin lành trên thế giới thuộc truyền thống tin lành pentecostal... Con đã nghe nói là vào ngày vọng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm tới sẽ có biến cố cử hành 50 năm của Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh tại Circo Massimo ở Roma. Ðức Thánh Cha đã đưa ra rất nhiều sáng kiến - có lẽ đây là lần đầu tiên đối với một Giáo Hoàng - trong năm 2014 với các vị lãnh đạo tin lành. Ðiều gì đã xảy ra với các sáng kiến này, và Ðức Thánh Cha chờ đợi có được điều gì nơi cuộc gặp gỡ vào năm tới?

Ðáp: Với các sáng kiến này... Tôi đã có hai loại sáng kiến. Một sáng kiến tôi đã làm khi đến thăm nhà thờ đặc sủng Valdese tại Caserta, và trong cùng đường hướng này khi tôi thăm nhà thờ tin lành Valdese tại Torino. Ðó là một sáng kiến nhằm sửa chữa và xin lỗi, vì một phần tín hữu của Giáo Hội Công Giáo đã không có cung cách hành xử theo tinh thần Kitô đối với các anh chị em tin lành. Và ở đó có việc xin lỗi và chữa lành một vết thương.

Sáng kiến kia đã là sáng kiến đối thoại, và điều này tôi đã làm ngay từ khi còn ở Buenos Aires. Chẳng hạn tại Buenos Aires chúng tôi đã có 3 cuộc gặp gỡ tại Luna Park chứa được 7,000 người . Ba cuộc gặp gỡ giữa các tín hữu công giáo và tin lành trong đường hướng Canh Tân đặc sủng Thánh Linh, nhưng cũng rộng mở. Các cuộc gặp gỡ kéo dài suốt ngày: trong đó có các bài thuyết giảng của một mục sư, một giám mục tin lành và một linh mục hay một giám mục công giáo; hay cứ từng hai vị một, thay đổi nhau. Trong hai cuộc gặp gỡ này, nếu không phải là trong cả ba, nhưng chắc chắn là trong hai cuộc gặp gỡ cha Cantalamessa là vị giảng thuyết của Toà Thánh đã thuyết giảng.

Tôi tin là điều này đã bắt nguồn từ các triều đại giáo hoàng trước, và từ khi tôi ở Buenos Aires, điều này đã sinh ích cho chúng tôi. Và chúng tôi cũng tổ chức các cuộc tĩnh tâm cho các mục sư và các linh mục chung với nhau, do các mục sư và một linh mục hay một giám mục thuyết giảng. Ðiều này trợ giúp rất nhiều cuộc đối thoại, sự thông cảm, việc xích lại gần nhau và hoạt động, nhất là trong việc trợ giúp người cần giúp đỡ. Cùng nhau và có sự kính trọng lớn giữa hai bên... Ðó là các hoạt động tại Buenos Aires. Còn tại Roma tôi đã có nhiều cuộc họp với các mục sư, hai ba lần rồi. Một số vị tới từ Hoa Kỳ, các vị khác tới từ các nước Âu châu. Thế rồi có cuộc gặp gỡ mà anh đã nhắc tới đó là lễ của Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh quốc tế, đuợc nảy sinh như là phong trào đại kết, vì thế đó sẽ là một cử hành đại kết được tổ chức tại Circo Massimo. Tôi dự kiến - nếu Chúa cho tôi còn sống - đến để phát biểu tại đại hội. Hình như đại hội kéo dài hai ngày, vì thế nó chưa có chương trình chi tiết. Tôi biết là nó sẽ bắt đầu ngày áp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, và tôi sẽ phát biểu trong một lúc nào đó. Liên quan tới Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh, từ "pentecostale" , tên gọi "thánh linh" ngày nay hàm hồ không rõ ràng, bởi vì nó quy chiếu nhiều điều, nhiều hiệp hội, nhiều cộng đoàn giáo hội không giống nhau, trái lại đối chọi nhau. Vì thế cần phải chính xác hơn. Nghĩa là nó phổ biến tới độ nó đã trở thành một từ hàm hồ. Ðây là điều đặc biệt xảy ra bên Brasil, nơi phong trào được phổ biến rộng rãi.

Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh nảy sinh, và một trong những người đầu tiến chống đối bên Argentina là người đang nói chuyện với anh chị em đây. Bởi vì hồi đó tôi là Giám tỉnh dòng Tên, khi phong trào bắt đầu nảy sinh, tôi đã cấm các tu sĩ của dòng liên lạc với phong trào. Và tôi đã nói công khai rằng khi cử hành thánh lễ thì phải cử hành phụng vụ, chứ không phải là "một trường dậy nhảy samba" Tôi đã nói như vậy. Và ngày nay tôi nghĩ ngược lại, khi mọi sự được làm một cách tốt đẹp.

Còn hơn thế nữa tại Buenos Aires hàng năm Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh đều tổ chức thánh lễ trong nhà thờ chính toà, và mọi người tới tham dự. Vì thế tôi cũng đã kinh nghiệm được một tiến trình hiểu biết điều tốt, mà phong trào cống hiến cho Giáo Hội. Và không được quên gương mặt vĩ đại của Ðức Hồng Y Suenens, là người đã có thị kiến ngôn sứ và đại kết liên quan tới phong trào.

Chị Eva Fernandez thuộc đài phát thanh Cope Tây Ban Nha hỏi:

- Hỏi: Thưa Ðức Thánh Cha, con thích hỏi Ðức Thánh Cha bằng tiếng Ý hơn nhưng con chưa nói sõi đủ. Cách đây ít lâu Ðức Thánh Cha đã tiếp kiến tổng thống Nicolas Maduro của Venezuela. Ðức Thánh Cha có cảm tưởng gì về cuộc gặp gỡ này, và đâu là ý kiến của Ðức Thánh Cha về việc bắt đầu các cuộc nói chuyện này?

Ðáp: Vâng, tổng thống Venezuela đã xin có cuộc gặp gỡ và cuộc hẹn này vì ông đến từ Trung Ðông, từ Qatar, từ các nước Emirati và dừng chân kỹ thuật tại Roma. Trước đây tổng thống cũng đã xin một cuộc gặp gỡ. Và ông đã đến hồi năm 2013; rồi ông xin một cuộc hẹn khác nữa, nhưng đã bị đau không thể đến được, nên đã xin có cuộc gặp gỡ lần này. Khi một tổng thống xin gặp, thì được tiếp đón, vả lại ông đã dừng chân lại ở Roma. Tôi đã lắng nghe tổng thống trong nửa giờ trong cuộc gặp gỡ đó.Tôi đã lắng nghe và tôi đã hỏi tổng thống vài điều và ý kiến của ông. Thật luôn luôn tốt lắng nghe tất cả mọi ý kiến. Tôi đã lắng nghe ý kiến của tổng thống. Liên quan tới khiá cạnh thứ hai, là cuộc đối thoại. Ðó là con đường duy nhất cho tất cả mọi cuộc xung đột. Hoặc là đối thoại hoặc là la lối, chứ không có cách khác. Tôi đã đặt hết con tim vào cuộc đối thoại, và tôi tin là phải bước đi trên con đường này. Tôi không biết nó sẽ kết thúc như thế nào, tôi không biết, bởi vì nó rất phức tạp, nhưng những người dấn thân trong cuộc đối thoại đều là các nhân vật quan trọng. Như ông Zapatero đã từng hai lần là thủ tướng Tây Ban Nha, và ông Restrepo nhà chính trị người Colombia, và tất cả các phe phái đều xin Toà Thánh hiện diện trong cuộc đối thoại. Và Toà Thánh đã chị định Ðức Tổng Giám Mục Claudio Celli như là người đồng hành với tiến trình này. Ðức Sứ Thần Toà Thánh tại Argentina là Ðức Tổng Giám Mục Tsherrig, tôi đã thay thế ngài ngày Chúa Nhật 23 tháng 10, cũng hiện diện tại bàn thương thuyết. Ðối thoại tạo điều kiện cho cuộc thương thuyết là con đường duy nhất giúp ra khỏi các cuộc xung đột, chứ không có con đường nào khác... Nếu vùng Trung Ðông đã làm điều này, thì đã tiết kiệm được biết bao nhiều mạng người!

Ông Burke nói: Bây giờ tới phiên đài phát thanh Pháp. Chúng con có chị Mathilde Imberty.

- Hỏi: Thưa Ðức Thánh Cha, chúng ta đang trở về từ Thụy Ðiển, nơi sự tục hóa rất mạnh. Ðó là một hiện tượng liên lụy tới toàn Âu châu nói chung. Cả trong một nước như nước Pháp người ta ước lượng rằng trong các năm tới đa số dân sẽ không theo tôn giáo nào nữa. Theo Ðức Thánh Cha sự tục hoá có phải là một định mệnh không? Ai là những người có trách nhiệm, các chính quyền đời hay Giáo Hội đã quá nhút nhát?

Ðáp: Ðịnh mệnh. Không. Tôi không tin vào các định mệnh! Ai là những người có trách nhiệm, tôi không biết... Bạn, nghĩa là từng người có trách nhiệm. Tôi không biết. Ðó là một tiến trình... Nhưng trước hết tôi muốn nói một điều nhỏ bé thôi. Ðức Giáo Hoàng Biển Ðức XVI đã nói biết bao về vấn đề này, và nói một cách rõ ràng. Khi đức tin trở thành hâm hẩm, là vì như chị nói, thì Giáo Hội suy yếu... Các thời gian bị tục hóa hơn... Nhưng chúng ta hãy nghĩ tới nước Pháp chẳng hạn các thời gian của sự tục hóa của Triều đình: các thời gian, trong đó các linh mục đã là abbé của Triều đình, một nhân viên giáo sĩ... Ðã thiếu sức mạnh của việc rao giảng Tin Mừng, sức mạnh của Tin Mừng. Luôn luôn khi có sự tục hoá, thì chúng ta có thể nói rằng có vài yếu đuối nào đó trong việc rao giảng Tin Mừng, điều này thì thật vậy...

Nhưng cũng có một tiến trình khác, một tiến trình văn hóa, một tiến trình - tôi tin rằng tôi đã nói một lần - một hình thức thứ hai của sự "không văn hóa", khi con người nhận thế giới từ Thiên Chúa và để làm cho nó trở thành văn hóa, làm cho nó lớn lên, thống trị nó, tới một lúc nào đó con người tự cảm thấy mình là chủ nhân ông của nền văn hóa đó - chúng ta hãy nghĩ tới huyền thoại cái tháp Babel - con người là chủ nhân ông của nền văn hóa tới độ làm cho mình là tạo hóa của một nền văn hoá khác, nền văn hóa riêng và chiếm chỗ của Thiên Chúa tạo hoá. Và trong sự tục hóa tôi tin rằng trước sau gì người ta cũng đi tới tội chống lại Thiên Chúa tạo hoá. Con người tự đủ cho chính mình. Nó không phải là một vấn đề của tính cách đời, bởi vì cần có một tính cách đời lành mạnh, là sự tự trị của các sự vật, sự tự trị lành mạnh của các sự vật, sự tự trị lành mạnh của các khoa học, của tư tưởng, của chính trị, cần phải có tính cách đời lành mạnh. Không. Có một điều khác, đó là một khuynh hướng duy đời như khuynh hướng duy đời mà chủ thuyết thiên quang luận đã để lại cho chúng ta như gia tài. Tôi tin rằng hai điều này: một chút tự đủ của con người tạo ra văn hóa, nhưng nó đi quá các giới hạn và nó cảm thấy nó là Thiên Chúa, và cũng có một chút sự yếu đuối trong việc rao giảng Tin Mừng, trở thành hững hờ và các kitô hữu hững hờ. Ở đó cứu chúng ta một chút việc lấy lại sự tự trị lành mạnh trong việc phát triển của văn hóa và của các khoa học, cả với ý thức về sự độc lập, về việc là thụ tạo chứ không phải là Thiên Chúa.

Ngoài ra, còn có việc lấy lại sức mạnh của việc rao truyền Tin Mừng nữa. Ngày nay tôi tin rằng sự tục hóa này rất mạnh mẽ trong nền văn hóa và trong vài nền văn hóa nào đó. Và tinh thần thế tục cũng rất mạnh trong vài hình thái khác nhau, sự thế tục tinh thần. Khi nó vào trong Giáo Hội, thì sự thế tục thiêng liêng tệ hại nhất. Ðây không phải là các lời của tôi mà tôi sẽ nói bây giờ, nhưng đó là các lời của Ðức Hồng Y De Lubac, một trong các nhà thần học lớn của Công Ðồng Chung Vaticăng II. Ngài nói rằng khi tinh thần thế tục thiêng liêng bước vào trong Giáo Hội, thì kiểu này... nó là điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho Giáo Hội, còn tệ hại hơn là điều đã xảy ra trong thời đại của các Giáo Hoàng thối nát. Và ngài liệt kê vài hình thức của sự thối nát của các Giáo Hoàng, tôi không nhớ rõ, nhưng biết bao nhiêu thối nát. Tinh thần thế tục. Ðối với tôi điều này nguy hiểm. Có nguy cơ là điều này xem ra là một bài giảng, tôi sẽ nói điều này: Chúa Giêsu cầu nguyện cho tất cả chúng ta trong bữa tiệc ly, Ngài xin Thiên Chúa Cha cho tất cả chúng ta một điều: là đừng cất chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng bảo vệ chúng ta khỏi thế gian, khỏi tinh thần thế tục. Nó vô cùng nguy hiểm, nó là một sự tục hóa hơi được trang điểm. hơi được hoá trang một chút, hơi là sẵn sàng để mặc, trong cuộc sống của Giáo Hội. Tôi không biết tôi đã trả lời cho câu hỏi chưa.

Ông Greg Burke nói xin cám ơn Ðức Thánh Cha. Bây giờ tới đài truyền hình Ðức, anh Juergen Erbacher

- Hỏi: Thưa Ðức Thánh Cha, cách đây vài ngày Ðức Thánh Cha đã gặp nhóm Thánh Nữ Marta chuyên chống lại nạn nô lệ mới và việc buôn người, là các đề tài theo con rất được Ðức Thánh Cha lưu tâm, không chỉ như là Giáo Hoàng, mà hồi còn ở Buenos Aires Ðức Thánh Cha đã chú ý tới đề tài này. Tại sao vậy? Ðức Thánh Cha đã có một kinh nghiệm đặc biệt hay có lẽ cả cá nhân nữa chăng? Và rồi như là người Ðức, vào đầu năm kỷ niệm cuộc Cải Cách, con cũng phải hỏi Ðức Thánh Cha có đến quốc gia, nơi cuộc Cải Cách đã bắt đầu cách đây 500 năm hay không, có lẽ trong năm nay?

Ðáp: Chúng ta hãy bắt đầu với câu hỏi thứ hai. Chương trình các chuyến viếng thăm của năm tới chưa được soạn. Vâng, chỉ biết rằng hầu như chắc chắn là tôi sẽ đi Ấn Ðộ và Bangladesh, nhưng chưa được làm. nó là một giả thiết.

Liên quan tới câu hỏi thứ nhất. Vâng, từ lâu khi tôi còn là linh mục ở Buenos Aires, tôi đã luôn luôn có sự lo lắng cho thịt xác của Chúa Kitô. Sự kiện Chúa Kitô tiếp tục đau khổ, Chúa Kitô liên tục bị đóng đanh trong các anh em yếu đuối nhất, đã luôn luôn khiến cho tôi cảm động. Như là linh mục tôi đã làm các công việc nhỏ với người nghèo, nhưng không chỉ có thế, tôi cũng đã làm việc với các sinh viên đại học nữa... Thế rồi, như là Giám Mục tại Buenos Aires chúng tôi đã có các sáng kiến làm việc với các nhóm không công giáo và người không tín ngưỡng, chống lại lao động nô lệ, nhất là của các người di cư châu mỹ latinh đến Argentina. Họ bị tịch thu thông hành và phải làm việc như nô lệ trong các nhà máy kỹ nghệ, bị khóa kín trong đó... Có một lần xảy ra hoả hoạn, các trẻ em leo lên sân thượng và chết hết ở trên đó và không có ai trốn thoát được. Thật đúng như là nô lệ, và điều này khiến cho tôi xúc động.

Việc buôn bán người. Tôi cũng đã làm việc với hai dòng nữ hoạt động trợ giứp các phụ nữ mại dâm, các phụ nữ nô lệ của nạn mại dâm. Tôi không thích dùng từ phụ nữ mại dâm, nhưng các phụ nữ nô lệ của mại dâm. Thế rồi, mỗi năm một lần tất cả các người nô lệ của hệ thống này cử hành một Thánh Lễ tại quảng trường Hiến pháp, là một trong các quảng trường nơi các xe lửa tới - giống như nhà ga xe lửa Termini của Roma - anh hãy nghĩ tới nhà ga Termini, và Thánh Lễ được cử hành tại đó với tất cả mọi người. Tới tham dự có tất cả mọi tổ chức, các nữ tu làm việc và cả những người không tin nữa, nhưng chúng tôi làm việc với họ. Và ở đây cũng thế, ở đây tại Italia này cũng có biết bao nhiêu nhóm thiện nguyện hoạt động chống lại mọi hình thức nô lệ, nô lệ lao động cũng như phụ nữ nô lệ. Cách đây vài tháng tôi đã thăm một trong các tổ chức này và người dân... ở Italia này người ta làm việc thiện nguyện rất tốt. Tôi đã không bao giờ nghĩ nó là như thế. Thiện nguyện là một điều rất đẹp mà Italia có được. Ðược như thế là nhờ các cha sở. Trung tâm sinh hoạt cho giới trẻ và phong trào thiện nguyện là hai điều nảy sinh từ lòng nhiệt thành tông đồ của các cha sở Ý. Không biết tôi đã trả lời chưa hay có gì nữa...

Ông Burke nói:

- Chúng con xin cám ơn Ðức Thánh Cha. Người ta nói tới giờ ăn rồi, chúng ta phải đi ăn thôi.

Ðáp: Xin cám ơn anh chị em về các câu hỏi, cám ơn rất nhiều, rất nhiều. Và xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em ăn ngon.

 

Linh Tiến Khải

(Radio Vatican)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page