Khóa học dành cho
những nhà đào tạo trong các chủng viện
Thái Lan: Khóa học dành cho những nhà đào tạo trong các chủng viện.
Thái Lan (WHÐ. 10-05-2013) - Linh mục có vai trò rất quan trọng trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, vì thế, việc đào tạo linh mục là một việc khẩn thiết đối với sự sống còn của Giáo hội. Giáo hội không ngừng đào tạo các linh mục, không chỉ trong giai đoạn ở chủng viện [1] mà còn kéo dài sau khi mãn chương trình chủng viện [2] và suốt quãng đời linh mục trong việc đào tạo trường kỳ [3]. Việc đào tạo linh mục lại tùy thuộc phần lớn vào những nhà đào tạo, nên những nhà đào tạo linh mục cần được huấn luyện để trở nên những người thợ lành nghề.
Quan tâm đến những nhà đào tạo chủng viện, nên từ năm 2001, Tòa Thánh đã mở những khóa học dành cho các nhà đào tạo trong các chủng viện, được tổ chức tại Italia. Tuy nhiên, với mong muốn đem lại nhiều ích lợi hơn nữa cho những nhà đào tạo, nên năm 2013 này, theo đề nghị của Ðức Tổng giám mục Bangkok, Francis Xavier Kriengsak Kovithavanij, Chủ tịch Ủy ban Giám mục về các chủng viện và ơn gọi, khóa học được Hội đồng Giám mục Công giáo Thái Lan tổ chức, dưới sự bảo trợ của Bộ Truyền giáo và sự hợp tác của Viện Ðại học Sophia.
Lần đầu tiên tổ chức tại châu Á, khóa học này mang tên Khóa học dành cho những nhà đào tạo trong các chủng viện, với chủ đề: Linh mục trong Giáo hội như sự hiệp thông đối với việc đào tạo toàn diện. Khóa học diễn ra tại Trung tâm huấn luyện mục vụ Baan Phu Waan (Baan Phu Waan trong tiếng Thái nghĩa là nơi gieo giống), thuộc Tổng giáo phận Bangkok, Thái Lan, và kéo dài ba tuần - từ ngày 15 tháng Tư đến ngày 05 tháng Năm năm 2013.
Baan Phu Waan là một trung tâm lớn, diện tích khoảng 500 ha. Bên trong được xây dựng thành một quần thể kiến trúc: khách sạn, nhà hưu dưỡng, trường học (trường nam và trường nữ), tiểu chủng viện, nhà sinh hoạt đa năng, hồ bơi, sân thể thao (bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, quần vợt...). Ở giữa là một hồ nước trong xanh, xung quanh các dãy nhà đều có thảm cỏ xanh, vườn cây lớn nhỏ xen kẽ nhau tạo nên một không gian thoáng đãng, êm đềm. Bước vào trung tâm, con người có cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản bởi khung cảnh tự nhiên hữu tình với bố cục kiến trúc chặt chẽ và hợp lý. Những người phục vụ nơi đây rất nhiệt tình, vui vẻ, sẵn sàng giúp đỡ mọi người.
Khóa học dành cho người châu Á, vì thế các học viên đến từ nhiều quốc gia của châu Á. Còn các giảng viên được mời từ các quốc gia khác nhau. Tổng cộng 70 người, cả giảng viên và học viên; gồm có: Italia (4), Australia (1, Việt kiều), Philippines (4), Thái Lan (23), Malaysia (2), Pakistan (4), Myanmar (11), Việt Nam (15), Ấn Ðộ (3), Lào (1), và Timor-Leste (2).
Nội dung khóa học xoay quanh chủ đề về hiệp thông trong việc đào tạo linh mục, với những gợi ý và chia sẻ, thông qua những bài thuyết trình và làm việc nhóm (group work) hay những buổi hội thảo (workshop) theo chủ đề từng ngày.
Về việc đào tạo toàn diện, các học viên theo sát những hướng dẫn của Giáo hội trong việc đào tạo linh mục theo bốn chiều kích mà Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã đề ra: nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ [4].
Các tham dự viên được nghe những kinh nghiệm quý báu từ các chủng viện và các hình thức áp dụng đường hướng của Giáo hội trong hoàn cảnh quốc gia mình đang sống. Ðồng thời, trong tình hiệp thông giữa các nhà đào tạo trong chủng viện, những người tham dự còn được sống tình huynh đệ chan chứa yêu thương, đậm tình bác ái. Những câu chuyện dí dỏm bên mâm cơm, những chuyện vui buồn từ các nhóm chia sẻ hay bầu khí linh thiêng trong các giờ kinh lễ, tất cả đều toát lên tình hiệp thông giữa các nhà đào tạo, tuy có chênh lệnh nhau về tuổi tác, có khi là thầy trò, nhưng tất cả cùng chung một mục đích là làm cách nào để đào tạo nên những thế hệ linh mục cho Giáo hội như lòng Chúa mong ước.
Một trong những hình thức đào tạo linh mục ngày nay là học đi đôi với hành, các tham dự viên ngoài việc học rất nặng nề và chiếm mất nhiều thời gian, ban tổ chức còn sắp xếp để các tham dự viên có thời gian vừa học vừa tham quan giải trí và học hỏi, như xem những show trình diễn của voi rất ngoạn mục và hài hước, đặc biệt các tham dự viên rất hồi hộp khi xem show biểu diễn giữa người và cá sấu, nguy hiểm và táo bạo. Ngoài ra, các tham dự viên còn được đi thăm ngôi làng văn hóa (cultural village). Nơi đây tái diễn những sắc thái văn hóa khác nhau của người Thái, từ cảnh sinh hoạt bình dân cho đến chốn trang nghiêm cung đình; từ phong tục ăn uống thôn dã cho đến nghi thức cưới hỏi trang trọng, với những nghi lễ cầu xin thần linh chúc lành cho đôi uyên ương trong nghi thức rước dâu, ly rượu mừng, động phòng..., hay những màn khiêu vũ độc đáo điêu luyện của các chàng trai cô gái Thái ở phần lễ hội, trong trang phục truyền thống dân tộc, vừa mang vẻ trang nghiêm của lễ, vừa mang nét quyến rũ gợi cảm của hội. Những nét văn hóa đặc trưng của người Thái như được hội tụ nơi đây. Các tham dự viên không chỉ nhìn xem những nét đặc thù của văn hóa Thái, mà còn hiểu hơn về đất nước, con người của người Thái trong việc bảo tồn những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc.
Kết thúc khóa học, mọi người đều cảm thấy hài lòng, vì được học hỏi những kinh nghiệm quý báu từ các chủng viện, chia sẻ những ưu tư, những trăn trở, khó khăn trong việc đào tạo linh mục. Lần đầu tiên các nhà đào tạo chủng viện ở châu Á có dịp gặp gỡ trong mối hiệp thông với nhau để nhìn lại công việc đào tạo của mình. Các ngài sẽ không cảm thấy lẻ loi, đơn độc trong công việc cao cả này, vì bên cạnh mình còn có những người khác thuộc mọi quốc gia đang cùng mình gánh vác trọng trách lớn lao này của Giáo hội.
Bầu khí của những ngày tham gia khóa học là bầu khí hiệp nhất: hiệp nhất trong cử hành, hiệp nhất trong đường hướng đào tạo linh mục, hiệp nhất trong cách làm việc, và đặc biệt hiệp nhất như anh em một nhà.
Chia tay nhau, mỗi người trở về với công việc thường ngày, mang theo những kinh nghiệm được chia sẻ và tình cảm thân thương của những người bạn đồng nghiệp trong ba tuần sống và làm việc với nhau.
- - - - - - - - -
[1] x. Công Ðồng Vaticanô II, Sắc lệnh Optatam Totius (28/10/1965), số 4.
[2] x. nt., số 22.
[3] x. Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25/03/1992), số 70-81.
[4] x. nt., các số 43-44, 45-50, 51-56,57-59.
(Phêrô Quốc Dũng)