Cái chết tử đạo

của 7 tu sĩ Trapist Tibhirine

 

Cái chết tử đạo của 7 tu sĩ Trapist Tibhirine.

Algeria (Avvenire 27-2-2011) - Phỏng vấn đan sĩ Jean Pierre Schumacher về cái chết của 7 tu sĩ dòng Trapist Tibhirine bên Algeria (1/2).

Ngày 22 tháng 10 năm 2010 cuốn phim tựa đề "Các người của Thiên Chúa" kể lại cuộc sống và cái chết tử đạo của 7 tu sĩ dòng Trapist của tu viện Tibhirine, bên Algeria, đã được trình chiếu trong các rạp xinê Âu châu. Cuốn phim do nhà đạo diễn Xavier Beauvois thực hiện và đã thắng giải César, là một loại giải Oscar phim ảnh Pháp, tại đại hội điện ảnh Cannes, vì đã là cuốn phim thu vào nhiều tiền lời nhất trong năm 2010. Tiền đóng cuốn phim mất 100 triệu Euros, nhưng các buổi trình chiếu đã thu vào được 229 triệu Euros.

Cách đây 15 năm tức hồi năm 1996, các nhóm hồi giáo Algeria, viết tắt là GIA, đã bắt cóc 7 tu sĩ của tu viện Tibhirine và chặt đầu các vị. Ðã chỉ có hai tu sĩ thoát nạn, trong đó có thầy Jean Pierre Schumacher.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn phần đầu bài phỏng vấn thầy Jean Pierre Schumacher, còn sống sót về biến cố này và cuốn phim nói trên. Thầy Sshumacher hiện sống tại tu viện Ðức Bà Atlas trong tỉnh Midelt, bên nước Marốc.

Hỏi: Thưa thầy Jean Pierre, thầy có thích cuốn phim "Các người của Thiên Chúa" không?

Ðáp: Cuốn phim đã đánh động tôi rất nhiều. Tôi đã cảm động, vì được nhìn lại những gì chúng tôi đã cùng chung sống với nhau. Nhưng nhất là tôi đã cảm nhận được một sự tràn đầy, chứ không phải nỗi buồn. Tôi thấy cuốn phim rất là hay, vì sứ điệp nó nhắn gửi là thật, cả khi đạo diễn đã không luôn luôn chính xác với những điều đã xảy ra. Nhưng không sao cả, vì một hình vẽ thì nói nhiều hơn là những gì người ta trông thấy... Nó giống như bài thánh ca gregorien. Tác giả đã đặt vào đó một sứ điệp, và ai hát thì còn cảm nhận nó nhiều hơn nữa. Trong nghĩa đó thì cuốn phim này là một hình vẽ thành công và là một kiệt tác.

Hỏi: Vậy thầy không có gì để phê bình hay sao?

Ðáp: Tôi đã nghe có người phê bình vai trò của Cha Christian de Chergé Bề trên tu viện. Nhiều người cho rằng cha buồn qúa. Nhưng theo tôi như thế là được. Nhiều người khác cho rằng cha khắc khổ qúa, vì họ không thấy cha cười bao giờ. Nhưng mà nó hợp với hoàn cảnh nghiêm trọng mà chúng tôi đã trải qua. Tôi khâm phục thái độ biết lắng nghe của cha đối với các tu sĩ khác, đặc biệt trong những lúc khó khăn. Cha không áp đặt, nhưng lắng nghe và rất tôn trọng các anh em khác. Cha luôn luôn rộng mở cho Thiên Chúa, để cho Thiên Chúa làm việc và có phản ứng đúng đắn trước các anh em khác. Trong toàn cuốn phim người ta trông thấy thái độ rộng mở đó. Ðây là cung cách sống của một đan sĩ.

Hỏi: Thầy có cầu nguyện với các anh em đã bị sát hại không? Như là đan sĩ thầy sống sự thành công của cuốn phim như thế nào? Và tại sao ban đầu thầy đã chống lại việc thực hiện cuốn phim này?

Ðáp: Sáng nào tôi cũng dành ra một lúc để nghĩ tới các anh em đã bị sát hại. Họ không bị lãng quên, và tất cả họ đều hiện diện. Chúng tôi tiếp tục sống, và cuốn phim khích lệ ơn gọi của chúng tôi. Chúng tôi ngạc nhiên về sự thành công của cuốn phim. Tuy nhiên, sự kiện được người ta biết tới khiến cho tôi cảm thấy bị quấy rầy một chút... Vì làm đan sĩ là để sống ẩn dật. Chúng tôi đã không muốn nhận cuốn phim và cũng không muốn nó được quay tại Marốc, vì có nguy cơ bị nghi ngờ là chủ trương chiêu dụ tín đồ. Lý do là vì có nhiều tu sĩ đã đợi rất lâu mà chưa được phép nhập cảnh. Do đó, phải rất thận trọng. Chúng tôi đã phó thác cho thánh ý Chúa. Nhưng chúng tôi đã không được hỏi ý kiến. Toán quay phim đã biết lập trường của chúng tôi và lý do của sự thận trọng này, và họ tỏ ra rất kính trọng.

Hỏi: Thầy đã đến sống trong đan viện Tibhirine từ khi nào, và cuộc sống tại đây ra sao?

Ðáp: Tôi sẽ không bao giờ quên được ngày 19 tháng 9 năm 1964, khi chúng tôi đến đan viện với chiếc xe Hai Mã Lực. Và tôi nhớ mãi hình ảnh một trẻ em cỡi lừa ra đón chúng tôi. Tôi rất hạnh phúc. Từ căn phòng nhỏ của tôi trong đan viện, tôi trông thấy sân trong, vườn và ngôi làng ở xa. Và tôi tự nhủ đây sẽ là cảnh mà tôi sẽ ngắm nhìn cho tới cuối đời. Vì trong tim tôi, tôi muốn sống suốt đời tại đây. Tôi đã ở đây 32 năm từ 1964 cho tới biến cố các đan sĩ bị bắt cóc năm 1996.

Thời gian ban đầu có khó khăn. Cộng đoàn thiếu ổn định và đó đã là thời gian rất khổ. Ðàng khác nước Algeria mới cũng đang thành hình. Các tiếp xúc với dân chúng gặp khó khăn, vì người dân địa phương khước từ người Pháp. Người ta cảm thấy hố ngăn cách này trong các dịp lễ kitô hay hồi giáo. Không có điểm gặp gỡ giữa hai bên. Chúng tôi đã phải chiến đấu để tập yêu thương nhau. Trạm y tế do thầy Luc điều hành đã rất là quan trọng. Mỗi ngày thầy săn sóc tới 80 người. Thế rồi cha Christian de Chergé đã được bầu làm Bề trên đan viện năm 1984. Chúng tôi cần có một người biết nói tiếng A Rập như cha và hiểu biết tường tận nền văn hóa hồi. Từ đó trở đi chúng tôi đã trở thành một cộng đoàn thật sự, ổn định hơn. Chúng tôi sống hầu như tự lập. Và đó đã là một điểm lợi, vì chúng tôi có thể đưa ra nhiều sáng kiến trong tương quan giữa các tín hữu hồi và tín hữu kitô.

Hỏi: Cha Christian de Chergé đã có vai trò nào?

Ðáp: Với ngài đã có tiến trình học hiểu về Hồi giáo. Cha đã học hỏi rất nhiều về Kinh Coran.

Ban sáng cha giảng giải Kinh Thánh với một cuốn Thánh Kinh tiếng A rập. Ðôi khi cha suy niệm với Kinh Coran. Cha tìm cách giúp chúng tôi lớn lên. Chúng tôi đã có các tương quan với Hồi giáo, nhưng không phải trên bình diện trí thức. Cha Christan de Chergé rất hiểu biết môi trường hồi giáo và tinh thần tu đức hồi sufit. Một số đan sĩ cho rằng cộng đoàn cần phải duy trì sự quân bình, chứ không thể bị định hướng bởi Hồi giáo. Ðã xảy ra các va chạm. Nhưng các căng thẳng đã được vượt thắng với việc thành lập một nhóm trao đổi và chia sẻ với các người hồi sufít, mà chúng tôi gọi với từ A rập là nhóm "ribát". Chúng tôi đã hiểu rằng việc thảo luận về các tín điều gây chia rẽ, vì nó là điều không thể làm được. Khi đó chúng tôi nói về con đường tiến tới với Thiên Chúa. Và chúng tôi cầu nguyện trong thinh lặng, mỗi người với lời cầu của riêng mình. Các buổi họp hai năm một lần ấy bị gián đoạn vào năm 1993, khi tình hình trở nên rất nguy hiểm. Nhưng sự hiểu biết nhau đã khiến cho chúng tôi trở thành anh em với nhau một cách sâu đậm.

Hỏi: Thế nhưng điểm gặp gỡ đã là cái chết, có đúng thế không thưa thầy?

Ðáp: Ðiều mà chúng tôi đã sống tại Tibhirine ngay từ đầu với nhau đã là một hoạt động của ơn thánh. Vì trung thành với ơn gọi của chúng tôi chúng tôi đã lựa chọn kiên trì, dù biết rất rõ điều gì có thể xảy ra cho chúng tôi. Chúa đã gửi chúng tôi đến đây, nên chúng tôi không từ nhiệm, cả khi chung quanh chúng tôi các người bạo lực tìm cách để cho chúng tôi ra đi, cả chính quyền cũng làm như thế. Nhưng chúng tôi có Chúa là Thầy và chúng tôi dấn thân với Người. Thế rồi, chúng tôi cũng muốn trung thành với những người sống chung quanh chúng tôi và không bỏ rơi họ. Họ cũng bị đe dọa như chúng tôi vậy. Họ phải sống giữa hai lằn đạn: lằn đạn của quân đội chính phủ và lằn đạn của các nhóm khủng bố phá hoại. Quyết định không bỏ rơi họ đã được chúng tôi đưa ra hồi năm 1993. Và cả trong trường hợp chúng tôi có bị phân tán đi nữa, thì chúng tôi sẽ gặp lại nhau ở Fez, bên Marốc, để tái khởi hành và thiết lập đan viện trong một quốc gia A rập khác.

Hỏi: Thầy sống biến cố các tu sĩ Tibhirine bị bắt cóc và sát hại như là một thất bại hay như là việc chu toàn sứ mệnh?

Ðáp: Sau khi các tu sĩ bị bắt cóc, tôi và cha Amnédée bị bắt buộc phải đi về thủ đô Algeri với cảnh sát. Chúng tôi đã cầu nguyện cho các anh em bị bắt cóc, xin Chúa ban cho họ sức mạnh và ơn thánh để họ đi tới cùng. Chúng tôi đã chờ đợi một sự can thiệp từ nước Pháp hay một sự can thiệp của giáo quyền để cho các tu sĩ được trả tự do. Nhưng chúng tôi đã nghe tin các vị bị sát hại ngày 21 tháng 5 năm 1996. Khi chúng tôi đang hát kinh chiều thì có một thầy trẻ tuổi chạy vào nhà nguyện qùy xuống đất và thất vọng kêu lên "Tất cả mọi tu sĩ đã bị giết hết rồi". Chiều hôm đó, khi rửa chén bát bên cạnh nhau, tôi nói với thầy ấy rằng cần phải sống biến cố này như là một cái gì rất đẹp, một cách rất cao cả. Phải xứng đáng với biến cố đó.

Và thánh lễ chúng ta sẽ dâng cho các anh em này sẽ không phải với lễ phục mầu đen, nhưng là mầu đỏ. Chúng tôi đã thấy các vị chịu cái chết đó thật sự như các vị tử đạo. Và tử đạo đã là điều mà chúng tôi chuẩn bị từ rất lâu trước trong cuộc sống của chúng tôi. Trong các năm mà chúng tôi cùng sống trong nguy hiểm với nhau, chúng tôi tất cả đã sẵn sàng. Nhưng điều này đã không loại trừ được sự sợ hãi.

Hỏi: Các cha các thầy đã bắt đầu sợ hãi từ khi nào?

Ðáp: Ngay từ năm 1993 lực lượng vũ trang hồi Algeri đã tới đan viện vào chiều ngày lễ Giáng Sinh. Cộng đoàn hồi đó đã được củng cố rất mạnh trong sự hiệp nhất sâu xa. Nguy hiểm hiện diện tại khắp mọi nơi và có thể xảy ra bất cứ lúc nào, ban đêm cũng như ban ngày. Chúng tôi đã bị chấn động rất nhiều, và trong lúc đó chúng tôi đã trông thấy vực thẳm.

Hỏi: Ðã không có sự thanh thản, cả khi các cha các thầy đã chọn ở lại hay sao?

Ðáp: Không. Ðã không bao giờ có. Ban chiều khi hát kinh tối, hầu như có một cái vung của sự nguy hiểm ụp xuống trên đan viện. Ban đêm có thể xảy ra bất cứ gì. Và chúng tôi hỏi nhau đêm nay sẽ xảy ra sự gì?

Chúng tôi không chờ đợi bị giết, nhưng chúng tôi biết điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Rất may là chúng tôi có một cộng đoàn và cuộc sống tiếp tục như thế, mỗi người một việc: một thầy nấu bếp, một thầy làm vườn, người khác là quản lý. Công việc giúp chúng tôi quên, nhưng cứ vào ban chiều và khi lúc đêm về là chúng tôi lại tự hỏi không biết điều gì có thể xảy ra. Không ai nói lên điều đó, nhưng mọi người đều nghĩ như vậy.

 

Algeria (Avvenire 27-2-2011) - Phỏng vấn đan sĩ Jean Pierre Schumacher, về cái chết của 7 tu sĩ Trapist tại Tibhirine bên Algeria cách đây 15 năm (2/2).

Cách đây 15 năm ngày 21 tháng 5 năm 1996 bẩy đan sĩ dòng Trapist của đan viện Tibhirine bên Algeria đã bị bắt cóc và bị sát hại. Ðã chỉ có hai tu sĩ thoát chết, trong đó có cha Amédée và thầy Jean Pierre Schumacher, vì Nhóm Hồi võ trang Algerie tưởng trong tu viên chỉ có từng ấy người. Cuộc sống và cái chết của cha Christian de Chergé Bề trên đan viện và 6 tu sĩ khác đã được đạo diễn Xavier Beauvois quay thành phim tựa đề "Các người của Thiên Chúa". Cuốn phim đã được giải thưởng điện ảnh Cesar là một loại Oscar điện ảnh của Pháp, và đã là phim đem lại nhiều tiền lời nhất năm 2010. Chi phí đóng phim là 100 triệu Euros, nhưng khi trình chiếu đã thu được 229 triệu Euros.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn phần hai của bài phỏng vấn thầy Jean Pierre Schumacher về cái chết của 7 đan sĩ Tibhirine.

Hỏi: Thưa thầy Schumacher, chuyện gì đã xảy ra vào chiều ngày 7 tu sĩ bị bắt cóc tại đan viện Tibhirine bên Algeria?

Ðáp: Vào chiều hôm đó tôi ở trong phòng giữ cửa đan viện. Vào khoảng một giờ đêm tôi thức giấc, vì nghe tiếng nói ồn ào trước cửa chính, vì toán bắc cóc đã vào bên trong. Tôi lại gần cửa sổ và nhìn thấy một người trong bọn họ đi thẳng lại phòng của thầy Luc. Nhưng đây là điều bất thường, vì khi họ muốn tìm bác sĩ, thì họ gọi cửa bên ngoài. Và tôi nghe tiếng cha Christian hỏi: "Ai là trưởng nhóm?" Tôi tự nhủ cha đã thấy họ trước tôi và đã mở cửa cho họ để cho họ những gì họ muốn. Chừng 15 phút sau tôi nghe tiếng cánh cửa quay ra đường đóng lại và tôi nghĩ là nhóm người đó đã đi. Một chút sau đó cha Amédée gõ cửa phòng và nói với tôi: "Các tu sĩ đã bị họ bắt cóc rồi". Chắc là họ đã đi ra cửa phía sau tu viện, bởi nếu không thì tôi đã trông thấy các vị.

Hỏi: Khi ấy thầy cảm thấy gì?

Ðáp: Câu hỏi tôi đặt ra ngay lúc đó là nếu tôi đã nghe và trông thấy các tu sĩ đi ra thì tôi sẽ làm gì? Ở lại hay chạy theo và cùng đi với họ? Tôi vẫn chưa có câu trả lời. Nếu đã xảy ra như thế thì thật không dễ mà quyết định. Nhưng tôi đã có cảm tưởng là mình sẽ chạy theo.

Cha Amédée nói với tôi rằng họ sẽ không giết các tu sĩ đâu, bởi vì nếu muốn họ đã có thể làm ngay lập tức. Ban đêm rất khó di chuyển trên núi và bởi vì có một trạm kiểm soát trên đồi gần đó. Ngoài ra, tu huynh Luc đã 82 tuổi và một tu huynh khác vừa mới được thông tim 6 lần ở nhà thương về. Ði bộ với những người như thế chắc chắn là không dễ dàng. Chúng tôi đã nghĩ là họ dùng các vị cho một chuyện gì đó. Trong khi chờ đợi chúng tôi cảm thấy mình hoàn toàn cô đơn. Thế là cộng đoàn tan rã. Chúng tôi đã hy vọng là nhóm bắt cóc mau chóng trả tự do cho các tu sĩ, bởi vì nếu họ không trở về thì cuộc sống đan viện coi như chấm dứt.

Hỏi: Các kẻ bắt cóc có phải thuộc nhóm hồi vũ trang Algeria GIA hay không?

Ðáp: Người giữ cổng đan viên đã kể cho tôi nghe rằng trước hết họ đã gặp ông và nói rằng họ muốn gặp bác sĩ, lấy cớ là họ có hai người bị thương nặng. Ông ta trả lời rằng các tu sĩ cấm ông ta không được canh cổng đan viện ban đêm. Và đây là điều thật, để tránh các vấn đề cho gia đình ông ta và cho chính ông, trong trường hợp xảy ra chuyện không may, như có vụ tấn công đan viện chẳng hạn... Nhưng nhóm người đó đã năn nỉ. Khi đó ông gác cổng mới ra khỏi mhà ở sân trước để đến đan viện, nhưng ông đụng một nhóm đã ở bên trong sân rồi. Khi đến trước cửa lớn ông gặp môt toán khác nữa đã bắt giữ cha Christian. Khi đó cha Christian mới hỏi ai là người chỉ huy. Một trong những kẻ bắt cóc chỉ vào người đầm đầu và nói: "ông này là người chỉ huy, hãy vâng lời ông ta". Một người khác hỏi ông gác cổng: "Họ là 7 người phải không?" Ông gác cổng trả lời: "Ông nói đúng". Nhưng thật ra chúng tôi là 9 người tất cả. Chắc chính nhờ thế mà tôi và cha Amédé đã không bị bắt. Vì sau khi bắt 7 vị họ không lục soát toàn đan viện nữa.

Hỏi: Nhưng riêng thầy, thì thầy nghĩ sao? Ðó đã là quân đội hay lực lượng GIA?

Ðáp: Chúng tôi chỉ biết điều đã xảy ra cho đan viện. Còn lại chúng tôi cũng thắc mắc như tất cả mọi người. Cuộc điều tra vẫn tiếp tục. Người canh cổng đan viện đã kể với tôi rằng khi họ đi xuống, thì một người trong bọn nói với một người khác: "Hãy đi tìm một cái dây, nó sẽ thấy ai là tổ chức GIA, bởi vì họ muốn cắt cổ ông ta, nhưng ông đã thoát được.

Hỏi: Sau nhiều năm như vậy mà người ta đã không tìm ra lý do của vụ bắt cóc hay sao thưa thầy?

Ðáp: Không ai thấy rõ lý do. Trong một thông cáo phổ biến trên đài phát thánh Medi I, lực lượng GIA đã đưa ra lý do như sau: "Người dân theo đạo, khi tiếp xúc với các tu sĩ này, bởi vì họ có các liên lạc và đã ra khỏi đan viện, mà đáng lý ra họ đã không được phép làm như vây. Họ đáng chết. Chúng tôi có quyền xử tử họ". Ðấy là một trong các lý do. Chính những người hồi cuồng tín đã nói điều đó. Sau đó có các lý do khác đã được thêm vào, nhưng là các giả thuyết, trong khi chờ đợi phán quyết của thẩm phán điều tra vụ bắt cóc và sát hại các tu sĩ.

Hỏi: Thầy đã sống cái bí ẩn này như thế nào?

Ðáp: Chúng tôi muốn biết ai đã giết các đan sĩ, và xác họ đã được chôn cất ở đâu. Chúng tôi muốn biết điều đó, nhưng mọi sự ở đây đều ban bình. Nó không thay đổi gì đối với cái chết của các người anh em của chúng tôi. Các vị đã chết vì các lý do mà các vị đã lựa chọn ở lại. Các vị đã sẵn sàng hiến mạng sống cho việc này.

Hỏi: Có thể hy vọng coi cái chết của các vị là cái chết tử đạo không? thưa thầy Schumacher?

Ðáp: Một vài người đã làm, nhưng đây không phải là tâm tình của chúng tôi. Chúng tôi đã không ước mong như vậy, và chúng tôi cũng không sống tại đó cho điều này. Chúng tôi đã ở trong bàn tay của Thiên Chúa. Chính vì thế mà khi sống tình trạng tâm hồn đó, các anh em của chúng tôi đã chết. Tôi phải thừa nhận và nói rằng chúng tôi đã không bị chấn động một cách thái qúa. Dĩ nhiên, biến cố này để lại dấu vết, nó gây ra đau đớn... Nhưng người ta biết tại sao. Chúng tôi tất cả đã sẵn sàng cho điều này! Cuộc sống chỉ là một cuộc vượt qua, trong một cách thế này hay cách thế khác nó chấm dứt. Sau đó chúng ta đi đến với Chúa.

Hỏi: Cuốn phim của nhà đạo diễn Xavier Beauvois đã được linh hứng bởi sự hy sinh của các tu sĩ, có thể là men hòa giải giữa các tín hữu kitô và các tín hữu hồi không, thưa thầy?

Ðáp: Chắc chắn rồi. Gương của các tu sĩ, trong tương quan của họ với người hồi giáo, cho thấy người ta có thể trở thành anh em thật sự với nhau, một cách sâu đậm, chứ không phải chỉ là điều hời hợt bề ngoài. Một cách sâu đậm trước mặt Thiên Chúa. Một vài người đã sống điều này. Và đây không phải là chuyện hiếm. Khi các tín hữu kitô trông thấy họ, họ nhận ra rằng các tín hữu hồi cũng là người như các người khác. Một vài người rất tốt: người ta nhận ra các giá trị của sự tiếp đón, lịch thiệp, và ân cần. Cũng như các giá trị của sự hiệp nhất với Thiên Chúa, của lời cầu nguyện hàng ngày. Các tín hữu hồi có các tương quan với Thiên Chúa đôi khi rất gây ngạc nhiên, và họ là các gương mẫu đích thật đối với các tín hữu kitô chúng ta. Có một người hồi bạn của cha Christian, đã hy sinh mạng sống cho cha, nói với cha rằng: người kitô không biết cầu nguyện... Họ có lòng bác ái, họ rất có tinh thần phục vụ, nhưng cha không thấy họ cầu nguyện bao giờ. Nhiều tín hữu kitô có thể hiểu được anh ta.

Hỏi: Thầy có cảm thấy sự thù ghèt hay cay đắng sau vụ sát hại 7 tu sĩ của đan viện Tibhirine không? Và thầy giải thích thái độ đối nghịch của vài người hồi đối với các kitô hữu như thế nào?

Ðáp: Không. Tôi không có các tâm tình ấy. Các thái độ cứng cỏi ấy đến từ những người hồi cuồng tín. Còn các người hồi đích thực thì nói: chúng tôi không phải như vậy. Họ xấu hổ vì những gì đã xảy ra cho 7 tu sĩ của đan viện. Ðó không phải là tôn giáo. Ðàng khác, người ta đã không biết chúng tôi đủ. Người ta nhận thức chúng tôi qua những kẻ bạo lực và điều này tạo ra một khuynh hướng co cụm trong những người giống nhau và sợ hãi các giao tiếp. Giải pháp cho vấn đề đó là phải vun trồng tình bạn, cả khi có nguy cơ bị lừa đi nữa.

Hỏi: Bị lừa sao?

Ðáp: Vâng. Có người nói tới sự trao đổi hai chiều, nhưng người ta thấy ít hay không thấy gì xảy ra cả: tại các nước tây âu các tín hữu hồi được phép xây đền thờ, trong khi tại các nước hồi giáo các kitô hữu không được phép xây nhà thờ...

Hỏi: Người ta hay tố cáo các kitô hữu là "khù khờ" trước người hồi. Thầy có đồng ý không?

Ðáp: Ðây không phải là vấn đề. Chúng tôi gặp nguy cơ vì trung thành với đức tin. Phúc Âm có viết: "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Rất thường khi chúng ta bị thiệt thòi. Cần phải nhớ điều đó. Nhưng cũng xảy ra là có phản ứng. Và khi xảy ra như vậy, thì đó là tương tác hai chiều, và việc thừa nhận nhau có thể dẫn đi xa lắm.

(Avvenire 27-2-2011)

 

Linh Tiến Khải

(Radio Vatican)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page