Tình trạng nhân quyền

tại Việt nam trong năm 2009

 

Tình trạng nhân quyền tại Việt nam trong năm 2009: đây là đề tài của chuyên mục Công giáo và nhân quyền tuần này của chúng tôi...

(Radio Veritas Asia 7/01/2010) - Kính thưa quý vị,các bạn thân mến. Nhìn lại tình trạng nhân quyền tại Việt nam trong năm 2009, chúng tôi xin được trích đọc phát biểu mới đây của ông ông Vũ Quốc Dụng, Tổng thư ký Hiệp hội nhân quyền quốc tế có trụ sở tại Ðức, trên Ðài Á Châu tự do.

Trước hết, nhận định về vụ án cựu trung tá Trần Anh Kim, ông Vũ Quốc Dụng nói rằng những bằng chứng mà Tòa nêu lên không thể dùng để kết tội ông Kim được. Ðơn cử như những bài viết trên Internet, việc treo bảng hiệu của tổ chức, việc nhận chức vụ của tổ chức, việc mua sắm máy móc, việc thiết lập các tổ chức của dân oan... do phía công tố nêu lên không phải là hành vi phạm tội.

Hiến pháp Việt Nam và công pháp quốc tế công nhận các quyền tự do ngôn luận và lập hội. Các quyền tự do này bao gồm cả quyền tự do phát biểu và quyền tự do tham gia các hoạt động đảng phái. Không có quyền bày tỏ và thể hiện các suy nghĩ và lập trường của mình ra bên ngoài thì nhân quyền không còn ý nghĩa trên thực tế nữa.

Vì thế, theo ông Tổng thư ký Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc tế, ông Kim có quyền làm những việc mà ông đã làm, ngay cả đòi hỏi phải thay đổi một chính quyền bằng các phương pháp ôn hòa và bất bạo động, ví dụ như bằng đối thoại, bằng tranh luận hay bằng bài viết. Những việc làm của ông ông Kim đều được bảo vệ bởi Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị của Liên hiệp quốc. Ðây là văn kiện mà Việt Nam đã ký kết và cam kết sẽ tham gia. Không thấy ông Kim làm điều gì đe dọa nghiêm trọng đến nền an ninh quốc gia cả.

Ở đây cần phải dùng ngôn ngữ cho đúng: "Việt Nam hiện đang ở trong thời bình và không có những cuộc xung đột ảnh hưởng đến nền an ninh của cả nước." An ninh quốc gia bị đe dọa khi có nội loạn hay ngoại xâm; ngay cả trong những trường hợp vừa nói thì luật quốc tế về nhân quyền cũng có những qui định rõ ràng và chặt chẽ; chứ không thể chấp nhận những tuyên bố mơ hồ để giới hạn nhân quyền được.

Ông Kim chỉ dùng lời, dùng bút thì làm sao có thể đe dọa nền an ninh quốc gia. Nếu ông Kim có chống lại Ðảng Cộng sản Việt Nam thì không thể xem việc đó là có đe dọa đến an ninh quốc gia, an ninh của cả nước được.

Sắp tới, tòa án Việt nam sẽ đem một số nhà bất đồng chính khác ra xét xử. Ông Dụng nhận định như sau:

"Phiên xử ông Trần Anh Kim vừa rồi cho thấy việc xử những người thuộc Ðảng Dân chủ Việt Nam có rất nhiều vấn đề. Trước hết việc ông Kim phản cung trước tòa cho thấy những thước phim "thú tội" trước đây vô giá trị và phản tác dụng.

Trước Tòa ông Kim hỏi Tòa: ông tham gia tổ chức "Khối 8406" và Ðảng Dân chủ từ 3 năm bảy tháng mà không bị truy tố, sao bây giờ lại đưa ông ra truy tố thì Tòa không trả lời được. Ông Kim cũng nói ông hoạt động ôn hòa nên không có tội.

Vấn đề thứ hai là việc thay đổi tội danh. Ðây là vấn đề dư luận rất quan tâm. Sau khi bắt năm người thuộc Ðảng Dân chủ, chính quyền Việt Nam tiến hành một chiến dịch rầm rộ tuyên truyền về hành vi phạm tội, với mục đính buộc họ vào tội "tuyên truyền chống Nhà nước xã hội chủ nghĩa" theo điều 88 Bộ Luật Hình sự.

Bây giờ chuyển sang tội "âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân" với mức án nặng nhất là tử hình, nhưng không đưa ra được lý do thuyết phục nào. Việc thay đổi tội danh là điều khó hiểu, đặc biệt khi thay đổi từ một tội nhẹ sang một tội nặng hơn với mức án tử hình mà lại là trong một vụ án chính trị nổi tiếng nữa.

Thứ hai nữa là quốc tế đang chú ý nhiều đến Việt Nam trong việc sử dụng tội danh tuyên truyền chống Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt nam để đàn áp những người bất đồng chính kiến. Liên hiệp quốc hiện nhận được rất nhiều đơn khiếu nại về vấn đề vừa nói.

Ðiểm qua tình trạng nhân quyền tại Việt nam trong năm 2009, ngoài vụ xử ông Trần Anh Kim và các nhà bất đồng chính kiến, còn có hai vụ việc cần phải quan tâm. Thứ nhất là vụ cô Phạm Thanh Nghiên và thứ hai là vụ các tăng sinh Bát Nhã.

Cô Phạm Thanh Nghiên là người phụ nữ duy nhất trong nhóm bị bắt hồi tháng 9 năm 2008. Tất cả đều được đưa ra tòa, chỉ riêng cô ta đến giờ phút này đã trên 15 tháng vẫn chưa được đưa ra tòa.

Một điểm nữa là cô ta bị giam 15 tháng mà không được gặp thân nhân. Cô ta cũng không được gặp luật sư trong thời kỳ tạm giam, điều tra. Ngoài chính trị, còn có vấn đề nhân đạo.

Cô Phạm Thanh Nghiên bị bắt khi căng biểu ngữ trong nhà của mình. Như vậy là quyền có quan điểm chính trị riêng và quyền bày tỏ quan điểm chính trị tại nhà riêng cũng bị chính quyền Việt Nam xem là tội.

Nếu Việt Nam không cho cô Phạm Thanh Nghiên bày tỏ quan điểm chính trị tại nhà và không cho viết bài trên Internet thì Việt Nam phải giải thích quan điểm về quyền tự do ngôn luận và quyền tự do báo chí theo điều 69 Hiến pháp Việt Nam có những nội hàm thế nào; và quan niệm của Việt Nam như thế có phù hợp với những công ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hay không.

Sang vấn đề các tăng sinh Làng Mai tại Lâm Ðồng: Tăng sinh Làng Mai tại Bát Nhã là những người Việt Nam, xuất gia tại Việt Nam, họ trực thuộc giáo hội Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt Nam là tổ chức được chính quyền Việt Nam công nhận từ năm 1981 cho đến nay.

Như thế đàn áp họ là đàn áp Giáo hội. Các tăng sĩ cao cấp trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã lên tiếng bày tỏ bất mãn một cách rất ôn hòa trước việc đánh đuổi các tăng sinh.

Chúng ta thấy đáng lẽ ra chính quyền có thể cho số tăng sinh đó ở lại Bát Nhã vì họ bỏ tiền ra xây, cũng có thể đổi cho họ một khu đất khác để họ đến, hoặc cho họ dung thân tại những ngôi chùa như Phước Huệ. Nhưng chính quyền nhất định phân tán họ, nghĩa là muốn giải tán cả tu viện. Như thế là đàn áp tôn giáo.

Ông Vũ Quốc Dụng nhận định: "Chúng tôi thấy chính quyền cho rằng những người đàn áp các tăng ni là người dân nổi giận, thì chính quyền đã không có khả năng bảo vệ được những người công dân đang sống trên đất nước của mình, đã không làm tròn nhiệm vụ bảo vệ nhân quyền.

Chúng tôi có những bằng chứng cho thấy chính quyền trung ương Việt Nam có những chỉ thị giải tán tu viện Bát Nhã, và đó là không tôn trọng nhân quyền. Ðây là những điều được ghi rõ trong văn bản Luật Quốc tế về Nhân quyền".

Ngoài hai sự kiện đáng chú ý trên đây, còn có những vụ vi phạm nhân quyền khác như ngăn cấm người dân bày tỏ ý kiến trên Internet hay xử dụng các thành phần gọi là "quần chúng tự phát" để đàn áp dân chúng. Ông Vũ Quốc Dụng nhận định:

"Trong quyền tự do phát biểu, quyền tự do ngôn luận thì có quyền phát biểu bằng mọi phương tiện, và vượt qua mọi biên giới. Tức là có quyền dùng bút ghi trên giấy hay dùng nhạc, dùng những bài viết phổ biến trên Internet để phổ biến suy nghĩ một cách ôn hòa. Tất cả những quyền này được qui định trong Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam đã ký từ năm 1982.

Việc dùng quần chúng nổi loạn để đàn áp dân oan thì đây là một hiện tượng rất đáng ngại vì khi chính quyền không trực tiếp ra tay đàn áp mà mượn tay quần chúng để đàn áp nhằm tránh tiếng vi phạm nhân quyền thì điều đó bị lên án mạnh mẽ hơn bình thường.

Chính quyền phải có luật pháp, tuân thủ luật pháp để giữ giềng mối quốc gia. Trong trường hợp những nhóm quần chúng tự phát vượt khuôn khổ luật pháp quốc gia, xâm phạm quyền tự do, và cả an toàn thân thể của người khác, điều đó chứng tỏ chính quyền không hoàn thành bổn phận bảo vệ nhân quyền tại Việt Nam."

Nhìn nhận có tiến bộ trong lãnh vực tự do tôn giáo tại Việt nam, nhưng ông Vũ Quốc Dụng nói: "Tuy vậy nhìn lại, thì vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề: Việt Nam không giải quyết êm đẹp vấn đề tranh chấp tài sản với Giáo hội Công giáo cũng như bất chấp sự có mặt của phái đoàn Liên hiệp Âu Châu trong việc hành hung các tăng ni tại Chùa Phước Huệ hồi giữa tháng 12 năm 2009."

Trên đây là một số sự kiện cụ thể về những vị phạm nhân quyền tại Việt nam trong năm 2009.

Chúng tôi xin tạm ngưng mục Công giáo và nhân quyền tuần này tại đây. Xin thân ái chào quý vị và các bạn và hẹn gặp lại vào thứ Năm tuần sau.

 

Chu Văn

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page