Bạo lực là con đẻ của dối trá

 

Bạo lực là con đẻ của dối trá: đây là đề tài chuyện tử tế tuần này của chúng tôi...

(Radio Veritas Asia 10/10/2009) - Kính thưa quý vị, các bạn thân mến. Chuyện bạo hành xảy ra cho các tăng sinh Tu Viện Bát Nhã, Bảo Lộc, Lâm Ðồng, trong thời gian gần đây hầu như đã trở thành một sự kiện "quốc tế": hình ảnh các vụ đàn áp do công an cộng sản Việt nam thực hiện đã được truyền đi khắp thế giới.

Vậy mà, như trên 60 nhân sĩ Việt nam trong và ngoài nước đã ghi nhận trong thỉnh nguyện thư gởi cho giới lãnh đạo cao cấp nhứt của Việt nam, báo chí Việt nam đã không dành cho biến cố này lấy một hàng. Và nếu có lên tiếng thì chính quyền cộng sản Việt nam lại tìm cách lấp liếm để phủ nhận hành động bạo lực của mình. Mới đây, trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng thông tấn Việt nam, ông Vũ ngọc Hiệp, phát ngôn viên của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Ðồng, đã nói lấy được rằng "chuyện xảy ra tại tu viện Bát Nhã" chỉ là "chuyện tranh chấp nội bộ giữa các Phật tử tại Chùa Bát Nhã do Ðại đức Thích Ðức Nghi làm viện chủ và các môn sinh của môn phái Làng Mai".

Dối Trá và bạo lực luôn đi đôi với nhau. Một chế độ khủng bố luôn xây dựng trên dối trá. Ðó là sự thật mà nếu còn có chút lương tri, không ai có thể chối cải được.

Trong buổi thuyết trình vào ngày 12-3-2002 tại đại học Columbia, Hoa kỳ, với đề tài: "Nga sô: Hiện tại và Tương lai", cựu chủ tịch Liên xô, ông Mikhail Gorbachev, đã nêu rõ vấn đề dối trá của đảng Cộng sản nhân dịp kỷ niệm 10 năm sau ngày sụp đổ của chế độ Cộng sản, nhờ chính sách đổi mới "Perestroika" của ông. Ông nói rằng vào thời điểm ông lên cầm quyền, khi các vệ tinh của Nga đang bay trên quỹ đạo, những cán bộ lãnh đạo chỉ bàn về vấn đề kem đánh răng, bột giặt v.v... nói chung chỉ là vấn đề hưởng thụ. Ông nói thêm: "Những cán bộ đảng chỉ điều hành quốc gia với sự gian dối. Chúng tôi, -- trong số đó có tôi, -- từng nói "Tư bản đang đi đến chỗ huỷ diệt, trong khi chúng ta đang phát triển tốt đẹp". Lẽ dĩ nhiên đó chỉ là những lời tuyên truyền. Trên thực tế, quốc gia chúng tôi đang bị bỏ rơi đằng sau."

Sự dối trá đã bám rễ trong tâm trí của những người Cộng sản. Họ dùng bất cứ thủ đoạn nào để che giấu sự thật. Tất cả huyền thoại của một đảng cộng sản được trang bị bằng vũ khí "bách chiến bách thắng" là chủ nghĩa Mác-Lê được bắt đầu bằng cuộc khởi hành xuống tàu đi Pháp của ông Hồ Chí Minh. Trong khi ông đi tìm miếng cơm manh áo cho chính bản thân ông bằng cách gửi thư lên ông Bộ trưởng Thuộc địa Pháp xin được theo học ở trường thuộc địa để thành tài và có cơ hội phục vụ mẫu quốc, thì đảng cộng sản lại nói ông xuống tàu để tìm đường cứu nước. Sau này, ông Hồ thấy nói dối như thế có lợi cho kế hoạch đánh bóng thân thế của ông nên ông không hề cải chính. Khi nắm trọn miền Bắc, ông Hồ lại dối trá bằng cách lấy bút hiệu Trần Dân Tiên để tự viết tiểu sử mở đầu bằng câu: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của người được?"

Bắt đầu từ chuyện tự viết tiểu sử bất hủ của ông Hồ để tuyên truyền rầm rộ trong đám nhân dân miền Bắc đói khổ, đảng Cộng sản ngày càng nhận thấy "giá trị" của sự dối trá. Nó đánh lừa được đám dân chúng ít học, và họ sẵn sàng xả thân để đi đúng theo con đường mà đảng Cộng sản muốn.

Trong một bài viết mới đây đăng trên mạng "Tiếng nói giáo dân", tác giả ký tên là Sơn Nghị đã đưa ra nhận định như sau:

"Trong một xã hội xảo ngôn, người dân bị bưng bít mọi sự thật thì những đứa trẻ lớn lên cũng tin đó là sự thật. Dĩ nhiên nhà trường không bảo thẳng những trẻ thơ phải nói dối nhưng sớm gieo vào đầu óc chúng những tư tưởng hận thù giai cấp, trong khi Luân lý Giáo khoa thư dạy phải yêu thương đồng loại. Thêm vào đó, đảng lại dạy chúng sớm biết nghi ngờ hết mọi người, ngay cả ông bà cha mẹ, để dám tố cáo những tư tưởng chống đối, phản cách mạng; còn Luân lý Giáo khoa thư lại dạy phải biết tôn kính những người già cả. Ðây là một căn bệnh cố hữu của người Cộng sản. Họ nghi ngờ tất cả, lúc nào cũng thấy địch chung quanh, và họ cho đó là "cảnh giác cách mạng". Làng xã lại lập ra tổ "tam tam", nghĩa là cứ ba nhà làm thành một tổ nhưng thật sự là dò xét, canh chừng lẫn nhau. Vì thế, ngay tại gia đình, mọi người đều kín miệng trong bất cứ chuyện gì, không để nhà bên cạnh biết việc trong nhà mình. Dân chúng sống mãi trong một bầu khí nghi kỵ, không dám tin ai, chẳng dám mở miệng nói với ai một điều gì thật trong lòng... Ðã một thời, ở các làng Công giáo các cụ gặp nhau thường hỏi thăm, "dạo này có khỏe không"? Câu trả lời thường là, nhờ ơn Chúa, gia đình tôi vẫn bình thường. Sau năm 1954, câu trả lời chung nhất là, "nhờ ơn bác và đảng, gia đình tôi vẫn bình thường". Biết mình đang nói dối nhưng vẫn phải nói, để sống còn. Ngay ở trong một xóm đạo, nơi mà đời sống tinh thần tương đối khá hơn ngoài xã hội, thế mà người dân còn phải nói dối thì huống gì bên ngoài lũy tre xanh, người ta còn dối trá đến đâu mà kể.

Những đứa trẻ miền Bắc lớn lên trong một khung cảnh dối trá đầy dẫy nghi ngờ như thế và dần dần chúng thấy dối trá là chuyện bình thường. Lớn lên, ra ngoài xã hội, chúng cũng nhận ra những điều thầy cô đứng trên bục giảng gân cổ tự hào về một xã hội Cộng sản cũng chẳng đúng sự thật.

Ủy viên Trung ương đảng Trần Bạch Ðằng, năm 1977, phải nhìn nhận con nít miền Nam lễ phép hơn con nít ở miền Bắc. Nhưng đức Lễ này thảm thương thay đã chấm dứt ngay sau năm 1975 vì đảng Cộng sản đã áp dụng chính sách ngu dân (con cái trong chế độ cũ không được học lên cao) và áp đặt nền giáo dục phi luân lý cho con em miền Nam. Thế là nguyên cả một thế hệ đầu tiên thời hậu chiến sống mất kỷ cương, lững thững đặt chân xuống cuộc đời với nhiều gương xấu của cha ông, trong đó sự dối trá nổi bật hơn hết. May mắn thay cho lớp trẻ thời hậu chiến là tôn giáo vẫn còn chiếm giữ một vị trí quan trọng trong xã hội từ Nam chí Bắc. Nhà thờ, chùa chiền, thánh thất vẫn là nơi dạy dỗ và cổ võ một nền luân lý truyền thống của cha ông. Vai trò của các linh mục, mục sư, nữ tu, thượng tọa và đại đức chưa bao giờ bức thiết bằng lúc này, khi đất nước ngả nghiêng trong hỗn loạn luân lý, khi tuổi trẻ đang mất dần định hướng. Tôn giáo có tác dụng như một cái phanh, kìm giữ một tuổi trẻ bơ vơ đang lao mình xuống vực thẳm của vật chất, thản nhiên buông thả mọi giá trị tinh thần. Sự giằng co giữa tôn giáo và xã hội xem ra khá quyết liệt và tôn giáo đôi lúc phải ngậm ngùi nhìn tuổi trẻ Việt Nam đang lún ngày càng sâu vào vũng lầy của cuộc đời."

Ngày 27-4-2006, nhân chuyến đi Rôma về, Ðức Hồng y Phạm minh Mẫn đã chuyện vãn với giới Liên Tu sĩ của Tổng Giáo phận Sài Gòn. Trong buổi chia sẻ với khoảng 60 đại diện của các Dòng tu và Tu hội nam nữ, ngài kể lại chuyến đi Rôma, đồng thời đưa ra một vài đề nghị về tu sinh. Ðức Hồng Y Mẫn nói: "Liên quan đến Chủng viện, bây giờ có đề nghị năm thứ nhất của chủng viện làm năm tu đức để rửa sạch bụi đời và trau dồi những khả năng cần thiết khác. Vì nhiều chủng sinh đã học đại học mà viết một câu tiếng Việt cũng không rồi. Bên cạnh thiện chí, còn có nhiều chuyện khác không lành mạnh đi vào tâm thức của những người trẻ nhập tu. Do đó, phải đào tạo cho các chủng sinh có ý hướng ngay lành, có kỹ năng đáp trả Ơn gọi, có khả năng bỏ mình vác Thập giá. Tôi cảm nghiệm điều này hết sức sâu xa: phải bỏ thói đời, phải bỏ thói ăn gian nói dối. Vì cả xã hội đã như vậy rồi."

Nhận xét của Ðức Hồng Y Mẫn phản ảnh một sự thật phũ phàng ở xã hội Việt Nam ngày nay. Sự dối trá đã bao trùm trong mọi sinh hoạt của người dân. Tuổi trẻ từ nhỏ đã không được thấm nhuần tinh thần Luân lý Giáo khoa thư, khi lớn lên bước vào công sở cũng gặp những cảnh dối trá lươn lẹo của lớp cha ông, thì dĩ nhiên chúng cũng phải sống dối trá lươn lẹo cho phù hợp. Ở ống thì dài, ở bầu thì tròn. Nói dối và ăn cắp là hai thói xấu phổ biến... Trong thời bao cấp, công nhân ra sức bòn mót của công. Trước hết vì công nhân quá nghèo, hai nữa là vì mồ cha chung không ai khóc. Lấy được cứ lấy, lỗ lã đã có nhà nước lo. Cấp dưới làm láo báo cáo hay vì để làm vừa lòng cấp trên. Còn cấp trên chỉ là những người trưởng thành trong khói lửa, không có lấy một chút kiến thức nào về điều hành, về quản lý nhưng lại muốn giữ bổng lộc của nhà nước. Ôi! Chưa bao giờ câu nói của Hoài Nam Tử từ mấy nghìn năm trước lại có ý nghĩa đến thế: "Trên đời có ba đại họa: đức ít mà ân sủng nhiều, tài ít mà địa vị cao, công nhỏ mà bổng lộc lớn."

Những ai đang lãnh đạo nước Việt Nam cần suy nghĩ về nhận định này. Không ai trên trái đất này được phép lấy sự gian dối làm phương tiện để sống còn.

Trở lại với Bát Nhã hay với Tòa khâm sứ cũ, Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý... cốt lõi của vấn đề vẫn là Dối Trá... Thái độ vô úy của các tăng sinh Bát Nhã hay lời cầu kinh nguyện ôn hòa và cho hòa bình của các tín hữu Công giáo tại Thái Hà, Tam Toà, Loan Lý, cho thấy chỉ có Sự Thật mới đánh bại được khủng bố và thắng vượt được Dối Trá.

Chúng tôi xin tạm ngưng chuyện tử tế tuần này tại đây. Xin thân ái chào quý vị và các bạn và hẹn gặp lại vào thứ Bảy tuần sau.

 

Chu Văn

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page