Chương II Phần I của Tài Liệu Làm Việc
của Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới
Vào Tháng 10 năm 2005
Bí Tích Thánh Thể
và Sự Hiệp Thông Giáo Hội
Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines
Chương
II Phần I của Tài Liệu Làm Việc của Thượng Hội Ðồng
Giám Mục Thế Giới Vào Tháng 10 năm 2005: Bí Tích Thánh Thể và Sự Hiệp Thông Giáo
Hội.
(Radio Veritas Asia 1/08/2005) - Quý vị và các bạn thân mến, để tiếp tục đọc Tài Liệu Làm Việc của Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới Vào Tháng 10 năm 2005, trong mục thời sự hôm nay, chúng ta cùng đọc Chương II Phần I của Tài Liệu Làm Việc: Bí Tích Thánh Thể và Sự Hiệp Thông Giáo Hội:
"Bởi
vì chỉ có một Bánh, nên chúng ta, tuy là nhiều, nhưng chỉ là
một thân thể: thật vậy, tất cả chúng ta đều tham dự vào
một tấm bánh duy nhất" (1 Co 10,17).
11.
Mầu
Nhiệm Thánh Thể diễn tả sự hiệp nhất giáo hội.
Khi
khuyến khích các tín hữu hãy tránh việc thờ ngẫu tượng,
tránh ăn thịt đã dâng cúng cho các thần, thánh Phaolô
đã làm nổi bật sự việc những người kitô rước
lấy Mình và Máu thánh Chúa Kitô, để kết thành một
cộng đoàn duy nhất, giáo hội duy nhất, từ nhiều thành
phần tín hữu (x. I Co 8,1-10).
Chủ
đề về sự hiệp thông giáo hội đã được chú ý đặc
biệt bởi Công Ðồng Vaticanô II. (16) Quả thật đề tài đã
được làm nổi bật nhất là trong bài tường thuật tổng kết
cuối cùng của Khóa Họp Ngoại Thường lần thứ II của Thượng
Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới, để kỷø niệm 25 năm Công Ðồng
(17), cũng như trong Văn Kiện của Bộ Giáo Lý Ðức Tin gởi
cho các giám mục của Giáo Hội công giáo. (18) Ngoài ra, chủ
đề cũng đã được bàn đến cách rộng rãi nơi chương VI
của Tông Huấn Hậu Thượng Hội Ðồng Giám Mục nói
về Các Giám Mục, những Chủ Chăn của Ðoàn Chiên, ("Pastores
Gregis"), do Ðức Gioan Phaolô II công
bố, sau Khóa Họp thông thường
lần thứ X Thượng Hội Ðồng Giám Mục. Thu góp suy tư của các
nghị phụ về đề tài vừa nói, Văn Kiện làm nỗi
bật
sự hiệp thông của các giám mục với Ðấng Kế Vị Thánh
Phêrô, dấu chỉ của sự hiệp nhất giữa giáo hội phổ quát
và những giáo giáo hội địa phương;
sự hiệp thông được
thể hiện trong hình thức cao nhất, là việc cử hành bí tích
Thánh
Thể của các giám mục với Ðức Thánh Cha, trong những lần
các giám mục về viếng mộ hai thánh tông đồ Phêrô và
Phaolô. Buổi cử hành Thánh
Thể do Ðức Thánh Cha chủ
tế và các giám mục
chủ chăn các giáo hội
địa phương đồng tế, diễn
tả cách tuyệt vời sự hiệp nhất của Giáo Hội. Thánh Lễ
Ðồng Tế này cho ta thấy được cách rõ ràng hơn rằng "mọi
Thánh Thể... đều được cử hành trong sự hiệp thông với
vị giám mục, với Ðức Thánh Cha và với giám mục đoàn,
và qua các ngài, với các tín hữu của giáo hội địa phương
cũng như của toàn thể giáo hội, đến độ người ta có thể
nói rằng giáo hội phổ quát hiện diện trong giáo hội địa phương,
và giáo hội địa phương, cùng chung với những giáo hội địa
phương khác, được hội nhập vào trong sự hiệp thông của
Giáo Hội phổ quát". (19)
Liên quan đến chủ đề: Bí Tích Thánh Thể nói lên sự hiệp thông giáo hội, những trả lời cho Tài Liệu Tổng Quát cho ta thấy những đề tài sau đây đáng được chú ý cách đặc biệt: tương quan giữa Thánh Thể và Giáo Hội; tương quan giữa Thánh Thể và những Bí Tích khác, nhất là Bí Tích Hòa Giải; tương quan giữa Thánh Thể và các tín hữu; những điểm tối của việc cử hành Thánh Thể.
12. Tương quan giữa bí tích Thánh Thể và Giáo Hội, "Hiền Thê và Nhiệm Thể của Chúa Kitô":
Bí
tích Thánh Thể là con tim của sự hiệp thông giáo hội.
Giữa bao hình ảnh nói về Giáo Hội, Công Ðồng Vaticanô
II đã chọn một hình ảnh nói lên trọn cả thực thể của
giáo hội: đó là hình ảnh Mầu Nhiệm. Trước nhất, Giáo Hội
là mầu nhiệm của sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và nhân
loại. Vì thế, giáo hội là Vị Hôn Thê và là Nhiệm Thể của
Chúa Kitô, là Dân Chúa và là Người Mẹ. Tương quan hỗ tương
giữa Thánh Thể và Giáo Hội cho phép ta áp dụng cho cả hai
bên, những đặc điểm của Kinh Tin Kính: duy nhất, thánh thiện,
công giáo và tông truyền. Thông điệp về Bí Tích Thánh Thể
đã giải thích thêm về điểm nầy nơi số 26.
Bí
Tích Thánh Thể xây dựng Giáo Hội và Giáo Hội là nơi để
thực hiện sự hiệp thông với Thiên Chúa và giữa mọi người
với nhau. Giáo Hội ý thức rằng Bí Tích Thánh Thể là bí tích
của sự hiệp nhất, sự thánh thiện, là bí tích của đặc tính
công giáo và tông truyền,
là bí tích thiết yếu của Giáo hội Hiền Thê của Chúa Kitô
và của Giáo Hội Nhiệm Thể của Chúa. Những đặc điểm của
Giáo Hội đồng thời là
những giây liên kết của sự hiệp thông công giáo cho phép
cử hành Thánh Thể cách hợp
pháp.
Ðức
Gioan Phaolô II đã thường nhắc rằng "Giáo Hội là Nhiệm
Thể của Chúa Kitô: tín hữu đồng
hành "với Chúa Kitô, trong mức độ tín hữu đó sống
trong tương quan với NhiệmThể Chúa" (21) Chính tại điểm nầy
mà người ta thấy được ý nghĩa rõ ràng của việc tuân giữ
những quy luật và những trang hoàn cho việc cử hành Thánh
Thể: đây là việc Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa, bày tỏ lòng
vâng phục Chúa Kitô.
13.
Giáo Hội làm nên Bí Tích
Thánh Thể và Bí Tích Thánh Thể làm nên Giáo Hội. Cho dù cả
hai đã được Chúa Kitô thiết lập trong tương quan với nhau,
nhưng hai vế của câu nói
trên không tương đồng với nhau. Nếu bí tích Thánh Thể làm
cho giáo hội tăng trưởng, bởi vì trong bí tích, có Chúa Giêsu
Kitô sống động, nhưng trước đó Chúa đã muốn có giáo hội,
để giáo hội cử hành Thánh Thể. Những người kitô đông
phương nhấn mạnh đặc biệt rằng ngay từ lúc tạo dựng, giáo
hội hiện hữu trước giây
phút giáo hội được thiết lập trên trần gian. Sự thuộc về
Giáo Hội là điểm cần có trước tiên, để có thể
đến lãnh nhận các bí tích: người ta không thể đến với
Bí Tích Thánh Thể, nếu trước đó đã không lãnh nhận bí tích
Rửa Tội; hoặc người ta không thể trở lại với Bí Tích
Thánh Thể, nếu trước đó đã không lãnh nhận bí tích
đền tội, vì những tội nặng đã phạm. Từ
khởi đầu của Giáo Hội, để
nói lên sự khẩn thiết phải chuẩn bị, giáo hội đã thiết
lập thời gian dự tòng để dẫn đưa vào đức tin, và thiết
lập con đường đền tội để dẫn đến hòa giải. Hơn nữa,
sẽ không có bí tích Thánh
Thể thành sự và hợp pháp, nếu không có bí Tích Chức Thánh.
Vì
những lý do nói trên, thông điệp về Bí Tích Thánh Thể nói
về "ảnh hưởng nguyên nhân" của Bí Tích Thánh
Thể vào lúc khởi đầu của Giáo Hội" (22) và về mối giây
liên kết chặt chẽ giữa Bí Tích Thánh Thể và Giáo Hội. Với
những giải thích trên, người ta hiểu rõ hơn câu quả quyết
rằng "việc cử hành Thánh Thể không thể là điểm khởi
đầu của hiệp thông, nhưng giả thiết đã có sự hiệp thông
trước, để rồi sau đó cũng cố sự hiệp thông này và làm
cho sự hiệp thông được trọn hảo. Bí Tích diễn tả mối giây
hiệp thông cả trong chiều kích
vô hình... lẫn trong chiều kích hữu hình... Tương quan chặt
chẽ giữa những yếu tố vô hình và những yếu tố hữu hình
của sự hiệp thông giáo hội, là
tương quan kết thành giáo hội như là bí tích cứu rỗi. Chỉ
trong khung cảnh nầy, mà người ta có được việc cử hành bí
tích Thánh Thể cách hợp pháp, và có được sự tham dự
đích thật vào bí tích Thánh Thể..." (24) Nói về giáo hội
học thánh thể, không có
nghĩa là trong giáo hội, tất cả đều có thể được rút ra
từ bí tích Thánh Thể, cho dù bí tích Thánh Thể vẫn luôn là
nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống giáo hội. Thật vậy,
như công đồng Vaticanô II đã quả quyết: "Phụng Vụ Thánh
không làm cạn hết mọi hành động của giáo hội. Quả thật,
trước khi con người có thể đến với phụng vụ, thì họ cần
phải được gọi đến với đức tin và được mời gọi thực
hiện sự trở lại." (25)
Nơi
để cho sinh hoạt của giáo hội được diễn ra cách tự nhiên
là giáo xứ. Giáo Xứ, một khi đã được canh tân và linh
động, phải là nơi thích hợp để huấn luyện và để thực
hiện việc phụng thờ thánh thể, xét vì , --- như đức cố giáo
hoàng Gioan Phaolô II đã dạy, --- giáo xứ là "cộng đoàn những
kẻ đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để nói lên căn cước
của mình, nhất là qua việc cử hành Hy Tế Thánh Thể" (26)
Giáo Xứ cần có kinh nghiệm và sự đóng góp của những
phong trào và những cộng đoàn mới; dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, và tùy
theo ơn đoàn sũng riêng, những phong trào và cộng đoàn mới
này biết đánh giá những
yếu tố của việc khai tâm kitô. Như thế các phong trào và cộng đoàn này có thể trợ
giúp cho các tín hữu khám phá lại vẽ đẹp của ơn gọi kitô,
mà trung tâm của ơn gọi đó là bí tích Thánh Thể dành cho
tất cả mọi người trong cộng đoàn giáo xứ.
14.
Sự thể hiện phụng vụ của giáo hội học công giáo được
gặp thấy trong lời cầu nguyện Anafora, qua những câu nhắc lại
chiều kích thánh thể của sự đứng đầu của Ðức Giáo Hoàng,
giám mục của Roma, như là yếu tố nội tại của Giáo Hội phổ
quát; và cũng giống như thế đối
với chỗ đứng của giám mục trong giáo hội địa phương. (27)
Chỉ có một bí tích ThánhThể duy nhất quy tụ Giáo Hội trong sự
hiệp nhất, chống lại mọi phân rẽ. Giáo Hội duy nhất được Chúa Kitô
mong muốn, luôn hướng về một Bí Tích Thánh Thể được thực
hiện trong sự hiệp thông với tông đồ đoàn, mà thủ lãnh
là Ðấng kế vị Thánh Phêrô. Ðó là mối giây liên kết
làm cho bí tích Thánh Thể được hợp pháp. Một sự
hiệp thông theo chiều ngang giữa những giáo hội anh em mà thôi,
là điều không phù hợp với sự hiệp nhất thánh thể đúng
theo ý muốn của Chúa Kitô. Sự hiệp thông với Ðấng Kế vị
Thánh Phêrô, --- ngài là nguyên lý của sự hiệp nhất giáo
hội và là kẻ gìn giữ ơn đoàn sũng của sự hiệp nhất và
phổ quát, tức ơn đoàn sũng
của thánh Phêrô, --- sự hiệp thông với Ðấng kế vị Thánh
Phêrô là yếu tố nội tại của Bí Tích Thánh Thể. Như thế,
sự hiệp nhất giáo hội được thể hiện trong sự
duy nhất bí tích và trong sự hiệp nhất thánh thể giữa
những người kitô.
15.
Có
một tương quan đặc biệt giữa bí tích Thánh Thể và tất cả
những bí tích khác. Về vấn đề nầy, cần lưu ý rằng theo Công
Ðồng Triđentinô, các bí tích "tích chứa ân sũng mà chúng
nói lên" và trao ban ân sũng đó qua việc cử hành. (28)
Nhưng,
đàng khác, tất cả mọi bí tích cũng như tất cả các thừa
tác viên của giáo hội và những công việc tông đồ, tất
cả đều được liên kết chặt
chẽ với bí tích Thánh Thể và được hướng về bí tích Thánh
Thánh Thể nầy (29). Vì thế, Bí Tích Thánh Thể là "sự trọn
hảo của những trọn hảo" (30).
Tương
quan với bí tích Thánh Thể không chỉ ở trên bình diện cử
hành phụng vụ mà thôi, nhưng nhất là có liên hệ đến điểm
thiết yếu của mỗi bí tích. Bí tích Rửa Tội là cần thiết
để bước vào trong sự hiệp thông giáo họäi; và sự hiệp
thông giáo hội này được củng cố bởi những bí tích khác,
ban cho tín hữu "từ ơn này
đến ơn khác" (Gn 1,16). Người ta biết rõ tương quan căn bản
giữa bí tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể, xét như là
nguồn mạch của đời sống kitô. Trong những giáo hội theo
truyền thống Ðông Phương, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tín
hữu cũng được rước lễ nữa, trong khi tại những giáo hội
theo truyền thống Latinh, tín hữu lãnh nhận bí tích Thánh Thể
khi đến tuổi khôn và chỉ
sau khi đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
Những
câu trả lời cho Tài Liệu Tổng Quát
đề nghị hãy làm sáng tỏ tương quan thần học giữa bí
tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể như là chóp đỉnh của
việc khai tâm kitô, cả khi điều nầy không nhất thiết đưa đến
việc cử hành bí tích Rửa Tội luôn trong Thánh Lễ. Người
ta cũng nói lên quan tâm đối với phẩm chất của việc dạy
giáo lý thích hợp.
16.
Có
tương quan thần học giữa bí tích Thêm Sức và Bí Tích Thánh
Thể, bởi vì Chúa Thánh Thần hướng dẫn con người đến việc
tin vào Chúa Giêsu Kitô. Ðể làm nổi bật hơn mối tương quan
nầy tại vài giáo hội địa phương, người ta đã lấy lại thực
hành ban bí tích Thêm Sức trước khi cho Rước Lễ.
Bí
Tích Thánh Thể là chóp đỉnh của con đường khai tâm kitô.
Sống đời kitô có nghĩa là "hiện thực hóa" hồng ân của
bí tích Rửa Tội, được linh động lại bởi bí tích Thêm Sức,
và nuôi sống hồng ân Bí Tích Rửa Tội đó bằng việc tham dự
Thánh Lễ vào ngày
Chúa Nhật và những ngày lễ buộc. Người ta lưu ý rằng việc
ban bí tích Thêm Sức thường được ủy quyền cho các linh mục,
với hậu quả là đặt vào hàng thứ yếu việc Giám Mục là
thừa tác viên thông thường của bí tích Thêm sức này. Và
như vậy, người ta làm cho những kẻ lãnh nhận bí tích thêm sức
mất dịp gặp người Cha và là thủ lãnh hữu hình của
giáo
hội địa phương.
17.
Vài trả lời đưa ra câu hỏi về hạn tuổi thích hợp nhất
để được nhận vào cử hành bí tích trong giáo hội theo
truyền thống latinh, xét vì những kết quả thiêng liêng và mục
vụ đạt được do việc cho Rước Lễ trong giai đoạn đầu của
tuổi thơ. Tưởng cũng nên nhắc lại đây nhận định của
Ðức Gioan Phaolô II, trong tập sách của ngài, có tựa đề là: "Hãy đứng dậy, chúng ta cùng đi!" (31); ngài đã nhắc
lại rằng "các trẻ nhỏ là hiện tại và tương lai của
Giáo Hội... Các trẻ nhỏ có vai trò tích cực trong việc rao giảng
Phúc âm
cho thế giới, và với những lời cầu nguyện, các trẻ nhỏ
góp phần vào việc cứu rỗi thế giới và làm cho thế
giới được tốt đẹp hơn. (32)
Trong
quá khứ, về vấn đề nầy, có sắc lệnh (Quam Singulari) cho
phép được Rước Lễ những
trẻ nhỏ từ 7 tuổi trở lên, tuổi được xem như là biết
dùng trí khôn, khi các em biết phân biệt bánh Thánh Thể khác
với bánh thông thường; và việc biết sử dụng trí khôn là
điều kiện để được xưng tội lần đầu. (33)
Hướng
hành động vừa nói trên, xem ra còn cần thiết hơn nữa, xét
vì việc sử dụng trí khôn, cũng như những nguy hiểm và những
cám dỗ, lại đến sớm hơn. Với cách thực hành trên, người
ta tuyên xưng địa vị thứ nhất của ân sũng đã mang đến cho
giáo hội nhiều lợi ích to lớn, và cổ võ cho những ơn gọi
làm linh mục.
18.
Tương quan giữa bí tích Chức Thánh và bí tích Thánh Thể
được nhìn thấy rõ trong thánh lễ do Ðức Giám Mục chủ tế,
hoặc do linh mục chủ tế, nhân danh Chúa Kitô thủ lãnh. Giáo
Lý của Giáo Hội đặt Chức Thánh như là điều kiện không
thể bỏ qua được, để cử hành thành sự bí tích Thánh Thể.
Vì
thế, cần làm nổi bật "vai trò tư tế của chức linh mục thừa
tác, trong việc cử hành
Thánh Thể; chức linh mục thừa tác khác biệt hẳn với chức
linh mục chung của mọi tín hữu, khác biệt trong yếu tính của
nó, chớ không phải chỉ khác trong cấp bậc mà thôi." (34)
Vì thế, thật là đúng khi đề nghị các linh mục nên hành động trong bí tích
Thánh Thể như là người cử
hành, và như thế chu toàn vai trò theo bậc
chức thánh đã lãnh nhận. (35)
19.
Mọi người đều biết rằng thông thường Bí Tích Hôn Phối
được cử hành trong khi cử
hành bí tích Thánh Thể, trong các giáo hội thuộc truyền thống
latinh, khác với những gì được thực hành trong các Giáo
Hội Ðông Phương.
Khi
bí tích Hôn Phối được cử hành trong Thánh Lễ, tình thương
kitô có được mẫu mực
của nó nơi tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng trong bí Tích
Thánh Thể yêu thương giáo hội như là hiền thê của mình,
cho đến mức độ hy sinh mạnh sống mình cho giáo hội. Tình yêu
"phu thê" nầy được nhấn mạnh cả trong trường hợp bí tích
Hôn phối được cử hành ngoài Thánh Lễ. (36) Tuy nhiên, Thánh
Thể vẫn là nguồn mạch không bao giờ cạn cho sự hiệp nhất
và tình thương không thể phân chia của hôn nhân và trở thành
lương thực của toàn thể
gia đình, trong việc xây dựng tổ ấm kitô.
20.
Tương quan giữa Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Xức Dầu cho Bệnh
nhân có nguồn gốc của nó, như mọi bí tích khác, nơi chính
Chúa Kitô. Trong việc chăm sóc cho các bệnh nhân, Chúa chứng
tỏ cho ta thấy ý nghĩa của sứ mạng Chúa chữa lành bệnh tật
và cứu rỗi con người.
Hơn
nữa, trong những câu trả lời cho Tài Liệu Tổng Quát, người
ta đề nghị trình bày mối tương
quan giữa bí tích Xức Dầu và Bí Tích Thánh Thể như là tương
quan mang đến sự an ủi và niềm hy vọng trong cơn bệnh hoạn,
trước khi được hiểu như
là Của ăn đàng lần cuối. Người ta mong muốn các tác
viên ngọai lệ cho Rước Lễ hãy chú ý đến những bệnh nhân
nặng và những người cao niên, không thể đích thân tham dự
việc cử hành Thánh Lễ tại nhà thờ. Theo
vài đề nghị gởi về, để làm ích
cho họ, tưởng cũng nên sử dụng những phương tiện truyền
thông xã hội, để truyền
đi các Thánh Lễ và những cử hành khác nữa.
Khi sử dụng kỷ thuật tân tiến, những ai dấn thân vào công
việc này, nên được huấn luyện tương xứng về thần học,
sư phạm và văn hóa.
21.
Về
việc đưa các bí tíùch vào trong Thánh Lễ, những quy luật phụng
vụ của các giáo hội đông phương không có điều khoản nào
về vấn đề nầy, mặc dù đó đây có những luật trừ dành
cho bí tích Rửa Tội và bí tích Hôn phối. Về việc thực hành
này, các giáo hội địa phương nên đặt ra những quy định thích
hợp. Ðối với những giáo hội địa phương theo nghi thức
latinh, những trả lời cho thấy rằng
việc đưa các
bí tích vào trong thánh lễ, đã được thực hiện theo những
thông lệ khác nhau tùy theo từng quốc gia. Có những giáo phận
đặt ra những quy định cho
việc cử hành các bí tích và các phụ bí tích trong Thánh Lễ,
nhất là đối với trường hợp những hôn nhân khác tôn
giáo và lễ an táng cho các
tín hữu không thực hành đạo.
Theo
thường các nghi thức được phân ra theo hai cách cử hành,
như trong trường hợp Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Giải Tội,
cách cử hành riêng cho cá nhân và cách cử hành chung cho
một cộng đồng. Cho dù, trên bình diện mục vụ, người ta thích
theo cách cử hành chung cho một cộng đồng, nhưng không nên rơi
vào một thứ chủ trương duy cộng đồng, vì hai lý do, hoặc bởi
vì bí tích luôn là hồng ân cho cá nhân, hoặc bởi vì tín hữu
có quyền, trong hoàn cảnh cụ thể, được hưởng nhờ bí tích
cách cá nhân.
22.
Về
Mối giây liên kết chặt chẽ giữa bí tíchThánh Thể và Bí Tích
Ðền Tội, Văn Kiện viết như sau:
Bí
Tích Giải Tội thiết lập lại
mối giây hiệp thông đã bị cắt đứt vì tội trọng (37). Vì
thế, cần chú ý đặc biệt đến tương quan giữa bí tích Thánh
Thể và bí tích Giải Tội. Những câu trả lời cho thấy nhu cầu
cần đặt tương quan nầy trong khung cảnh tương quan giữa bí tích
Thánh Thể và giáo hội, và như là điều kiện để gặp gỡ
và tôn thờ Chúa, Ðấng rất thánh, trong sự thánh thiện và
với tâm hồn trong sạch. Chúa đã rửa chân cho các Tông đồ,
để làm nổi bật sự thánh thiện của mầu nhiệm. Như
thánh Phaolô quả quyết, tội lỗi gây ra một sự ô uế, giống như một sự dâm ô, bởi
vì thân thể chúng ta là chi
thể của Chúa Kitô (x. 1 Co 6,15-17). Chẳng hạn như thánh Xê-sa-rio
thành Arles, đã
nói như sau: "Mỗi lần chúng ta đến nhà thờ, chúng ta hãy
thu xếp trật tự lại tâm hồn chúng ta, dường như thể
chúng ta đến Ðền thờ của Thiên Chúa. Bạn có muốn
gặp được một Ðền Thờ huy
hoàng hay không? Vậy xin bạn đừng làm bẩn nhơ linh hồn bạn,
bởi những tội lỗi" (38).
Tương
quan giữa bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội trong xã hội
ngày nay tùy thuộc rất nhiều vào ý thức tội lỗi và ý thức
về Thiên Chúa. Sự phân biệt giữa điều thiện và điều ác
thường trở nên chủ quan. Con nguời ngày nay, vì chỉ một chiều
nhấn mạnh đến phán đoán của lương tâm cá nhân, nên dễ
đảo lộn ý thức về tội lỗi.
23.
Có nhiều câu trả lời gởi
về nhắc đến mối tương
quan giữa bí tích Thánh Thể và sự Hòa Giải. Tại nhiều quốc
gia, các tín hữu đã đánh mất hay đang đánh mất ý thức
về nhu cầu phải hoán cải trước khi lãnh nhận bí tích Thánh
Thể. Bí tích Giải Tội không luôn luôn được nhìn như là sự
cần thiết để sống trong tình trạng ân sũng, trước khi lên
rước lễ; do đó người ta lơ là với bổn phận phải xưng
những tội trọng. (39) Tư tưởng về sự rước lễ như là
"của ăn đi đàng" đã dẫn đến việc hạ thấp sự cần
thiết của tình trạng ân sũng. Ngược lại, cũng như của ăn
giả thiết phải có cơ phận sống động và lành mạnh, thì cũng
thế , bí Tích Thánh Thể đòi buộc tình trạng ân sũng để cũng
cố sự dấn thân của bí tích Rửa Tội: tín hữu không thể
nào sống trong tình trạng tội trọng, để tiếp nhận Ðấng là
phương thuốc trường sinh và là liều chữa trị để khỏi
phải chết. (40).
Nhiều
tín hữu biết rõ rằng người ta không thể rước lễ trong tình
trạng mắc tội trọng, nhưng họ lại không biết rõ thế nào
là tội trọng. Những người khác thì không đặt ra cho mình những câu hỏi về vấn đề này
nữa. Người ta tạo ra một vòng lẫn quẫn như sau: tôi không
rước lễ bởi vì tôi không xưng tội; và tôi đã không xưng
tội, bởi vì tôi không thấy mình phạm tội nào cả. Có thể
có nhiều nguyên do khác nhau, nhưng một trong những nguyên do chính,
là sự thiếu giảng dạy
giáo lý về điểm nầy.
Một
hiện tượng khác khá phổ biến hệ tại trong việc không tạo
điều kiện thuận lợi, bằng những thời khóa biểu thích
hợp, cho việc đến với bí tích
Hòa Giải. Tại vài quốc gia, bí tích giải tội không còn
được trao ban cho cá nhân nữa; tối đa, hai lần trong năm, người
ta cử hành "nghi thức giải
tội chung", với một công thức mới tổng hợp nửa chừng
giữa công thức II và công
thức III trong sách Nghi Thức
cử hành bí tích Giải Tội.
Chắc
chắn người ta nhận thấy sự bất quân bình to lớn giữa
nhiều người Rước Lễ và rất ít người đi xưng tội. Rất
thường khi các tín hữu lên Rước lễ, mà không quan tâm gì
đến tình trạng tội trọng
có thể của họ. Vì thế, việc
nhận cho Rước Lễ những người đã ly dị
rồi kết hôn dân sự
lại, là hiện tượng khá
thường xảy ra tại nhiều quốc gia. Khi tham dự Thánh Lễ an táng,
hoặc Lễ cưới hay những Lễ đặc biệt khác,
nhiều người lên rước lễ, chỉ
vì một xác tín mơ hồ là họ
tham dự Thánh lễ không thành, nếu không lên rước lễ.
24.
Trước những thực tại mục vụ như thế, nhiều câu trả lời
gởi về cho thấy một cung giọng khích lệ hơn. Những câu trả
lời đó ước mong làm sao để trợ giúp cho những người
trong trường hợp nêu trên, được ý thức
về những điều kiện Rước
Lễ và về sự cần thiết của bí Tích Giải Tội, sau khi đã
xét mình, để chuẩn bị tâm hồn qua việc thanh tẩy khỏi tội
lỗi. Vì thế, trong bài giảng vị chủ sự nên
thường nói về mối
giây liên kết giữa bí tích
Thánh Thể và bí tích Giải Tội.
Có ước muốn rõ ràng về việc nghiêm chỉnh thiết lập lại khắp nơi việc giữ chay rước lễ, hiện vẫn còn tồn tại nơi những Giáo Hội Ðông Phương. (41) Thật vậy, việc giữ chay, xét như là việc làm để tỏ ra mình làm chủ lấy mình, đòi hỏi sự cộng tác của ý chí và dẫn đến việc thanh tẩy tâm trí. Thánh A-na-ta-si-ô nói như sau: "Bạn có muốn biết thế nào là ăn chay hay không? Việc ăn chay đuổi xa ma quỷ và giải thoát ta khỏi những tư tưởng xấu, làm cho tinh thần vui lên và thanh luyện con tim" (42). Trong phụng vụ Mùa Chay, người ta thường nhắc đến việc thanh tẩy con tim, nhờ qua việc chay tịnh và thinh lặng, như thánh Ba-si-li-ô đã khuyến khích (43). Trong vài câu trả lời cho Tài Liệu Tổng Quát, người ta đặt ra câu hỏi về việc có nên thiết lập lại sự bắt buộc giữ chay trước khi rước lễ ba tiếng đồng hồ hay không. Người ta ước mong có những cố gắng để gia tăng những dịp để các cá nhân hòa giải với nhau, nhờ qua việc cộng tác liên giáo xứ trong ngày thứ Bảy và Chúa nhật, và nhất là một cách sâu xa hơn trong Mùa Vọng và Mùa Chay. Người ta còn có thể làm nhiều điều hơn nữa trong các bài giảng và trong việc dạy giáo lý, để tái lập ý thức về tội và về việc thực hành bí tích Giải Tội, vượt qua những khó khăn do tâm thức trần tục gây ra. Cần cung cấp khả thể để tín hữu đến với bí tích Giải Tội trước Thánh lễ, bằng cách thích ứng thời giờ phù hợp với hoàn cảnh của các hối nhân, và cả trong khi cử hành bí tích Thánh Thể, như được khuyến khích trong tông thư về Lòng Nhân Từ của Chúa. (44)
Cần
khuyến khích các Linh Mục ban bí tích Giải Tội, như là dịp ưu
tuyển để các ngài trở
nên dấu chỉ và phương tiện của lòng nhân từ Chúa. Giáo
Hội biết ơn sâu xa những linh mục sốt sắng ban bí tích Giải
Tội, để chuẩn bị tín hữu gặp gỡ và lãnh nhận Chúa Kitô
trong Bí Tích Thánh Thể. Các tín hữu thấy mình được khuyến
khích xưng tội, nhất là khi thấy linh mục thi hành thừa tác
vụ nơi Tòa Giải Tội, như
bao chứng tá của các thánh thời đại chúng ta, như thánh Lê-ô-pol-đô,
Thánh Piô Năm Dấu và biết bao vị chủ chăn thánh thiện khác.
25.
Các Tín Hữu Giáo Dân, thành phần thiết yếu của Giáo Hội
Hiệp Thông --- một sự hiệp thông được tổ chức cách phẩm
trật, như Công Ðồng Vaticanô II và những Văn Kiện khác của
Quyền Giáo Huấn trình bày (45), --- (các giáo dân) được quy
tụ lại trong cộng đoàn để tham dự vào việc cử hành bí tích
Thánh Thể.
Thiên
Chúa Cha đã trở nên hữu hình trong việc việc nhập thể của
Chúa Con. Việc nhập thể nầy đã
khai mở việc Phụng Thờ thiêng liêng, phù hợp với lý trí
và trong Chúa Thánh Thần. Việc phụng thờ nầy không thể nào
là "một hỗn hợp những thực hành của con người" (Is
29,13). Việc Phụng Thờ Kitô có một hệ luận kitô học và
nhân học: vì thế việc tham dự của tín hữu vào Phụng Vụ,
nhất là vào việc cử hành bí tích Thánh Thể, hệ tại cách
thiết yếu trong việc đi vào trong việc phụng thờ nầy, trong đó
Thiên Chúa xuống với con người và con người đi lên cùng
Thiên Chúa. Bí Tích Thánh Thể, cuộc tưởng niệm của Chúa
Con, là việc Phụng Vụ để tôn thờ Thiên Chúa Cha trong Chúa
Thánh Thần; điều nầy là nền tảng của công cuộc canh tân
phụng vụ do công đồng Vaticanô II mong muốn.
Nhưng
nhiều người quan sát thấy rằng việc tham dự nầy thường
bị rút gọn vào những
khía cạnh bên ngoài. Không phải tất cả hiểu được ý nghĩa
thật, phát sinh từ đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Một
Thiên Chúa. Việc tham dự vào bí tích Thánh Thể được xem một
cách đúng như là hành động ưu tiên của đời sống giáo
hội, một sự hiệp thông vào đời sống của Ba ngôi Thiên
Chúa, hiệp thông với Chúa
Cha, Ðấng là nguồn mạch của mọi hồng ân, hiệp thông với
Chúa Con, Ðấng đã nhập thể và sống lại, và hiệp thông với
Chúa Thánh Thần, Ðấng biến đổi và thần thiêng hóa đời
sống con người.
Những
câu trả lời cho Tài Liệu làm Việc đều nhận thấy sự cần
thiết phải giúp cho các tín hữu được hiểu bản chất của
Thánh Thể và sự liên hệ với việc nhập thể của Ngôi Lời,
và từ đó tham dự vào trong mầu nhiệm thánh thể với
con tim và trí hiểu nhất là bằng việc hiến dâng chính
mình, trước khi tham dự bằng những hành vi bên ngoài. Những câu trả lời cũng
gợi ý hãy làm nổi bật tương quan tình thương "giống như tình
thương phu thê" của bí tích Thánh Thể và của Giáo Ước mới,
như là mẫu gương của những ơn gọi của người kitô: ơn gọi
sống đời hôn nhân, ơn gợi sống khiết tịnh,
ơn gọi linh mục. Tất cả điều nầy nhắm đến mục tiêu
huấn luyện con người và những cộng đồng thánh thể, biết
yêu mến và phục vụ Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
26.
Ngoài ra, nên củng cố các phương tiện truyền thông hiện
có, nhất là để làm cho dễ dàng việc tham dự
của các tín hữu nào vì nhiều lý do bị ngăn trở không
thể đích thân tham dự những cử hành thánh thể tại các
nhà thờ, như công đồng Vaticanô II đã khuyến khích (46). Có
những đề nghị liên quan đến những phương tiện truyền thông
(mass media) của Tòa Thánh; nhờ vận
dụng tốt hơn có thể những sự cộng tác, các phương tiện
nầy có thể cung cấp liền ngay và một cách chuyên nghiệp những
việc phục vụ cho giáo họäi phổ quát, và cả để phản ứng
liền ngay đối với việc phổ biến những nguyên tắc chống
kitô giáo. Trong công cuộc chung nầy, các phương tiện truyền
thông theo tinh thần kitô có vai trò to lớn. Sức mạnh kỷ
thuật của những phương tiện nầy trở thành cần thiết để
trình bày, một cách quân bình và tích cực, sứ điệp kitô,
để soi sáng cho lương tâm của những con nguời thiện chí về
những vấn đề luân lý có tầm quan trọng lớn đối với
sinh hoạt của Giáo Hội và của xã
hội.
27.
Những bóng tối của việc
cử hành Thánh Thể.
Việc hiệp thông giáo hội bị xáo trộn và tổn thương trầm trọng bởi những bóng tối trong việc cử hành bí tích Thánh Thể. Những điểm tối nầy cũng đã được nhắc đến trong những câu trả lời đã được gởi về. Vấn đề đã được Ðức Gioan Phaolô II bàn đến trong thông điệp về Bí Tích Thánh Thể (47) và nhất là được bàn một cách đặc biệt riêng trong Huấn Thị của bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích (48); Vấn đề nầy mời gọi chúng ta hãy chăm chú và bình tĩnh nhìn vào cách Giáo Hội cử hành bí tích Thánh Thể, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Chăm chú và bình tĩnh, nhưng không vì đó mà thiếu tinh thần phê phán.
Chính
sự việc nói lên lời kêu gọi trên trong giây phút lịch sử nầy,
--- khi Giáo Hội càng
ngày càng dấn thân đối thoại với các tôn giáo và với
thế giới, --- không phải là gì khác hơn là một linh ứng đầy
quan phòng của người kế vị thánh Phêrô; sự
linh ứng nầy làm cho ta hiểu được như thế nào Giáo Hội cần
luôn nhìn về chính mình, để đối
thoại tốt hơn với những kẻ khác, mà không đánh mất chính
căn cước của mình, như là bí tích phổ quát của ơn cứu rỗi.
Trong
Tài Liệu Làm Việc nầy, được ghi ra nhiều điểm tối mà ta
nhận ra được từ việc phân tích những câu trả lời cho Tài
Liệu Phổ Quát. Những điểm tối đó không nên được hiểu
chỉ như là những lỗi phạm luật phụng vụ và lỗi phạm trong
việc thực hành phụng vụ, nhưng đúng hơn như là những biểu
lộ cho những thái độ sâu xa hơn.
Người
ta ghi nhận một sự giảm thiểu mức tham dự vào việc cử hành
Ngày của Chúa, vào ngày chúa nhật và trong những ngày lễ
buộc, vì thiếu hiểu biết
về nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm thánh thể, vì chủ
trương
lãnh đạm nhất là tại những quốc gia đang diễn ra hiện tượng
trần tục hóa; tại những quốc gia nầy, ngày chúa nhật thường
được biến thành cả như ngày làm việc.
Người
ta ghi nhận sự phổ biến của
dòng suy tư cho rằng chính cộng đồng tạo ra sự hiện diện của
Chúa Kitô, thay vì Chúa Kitô là nguồn mạch và là trung tâm của sự hiệp thông chúng ta, là thủ lãnh của Nhiệm Thể Người
là Giáo Hội.
Người
ta làm sai lạc ý nghĩa của sự Thiêng Thánh trong tương quan với
Bí Tích Cao Cả nầy, do hậu quả của việc giảm sút cầu
nguyện, giảm sút việc chiêm niệm và tôn thờ Mầu Nhiệm Thánh Thể.
Người
ta liều làm hư sự thật về tín điều công giáo nói về sự
biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu
Kitô; sự biến đổi nầy thường được giải thích bằng từ
"sự biến thể". Từ đó, làm hư sự thật về sự hiện
diện thật của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, trong khung cảnh
những ý niệm cố gắng giải thích mầu nhiệm thánh thể, không
phải do theo nơi chính nó, nhưng giải thích mầu nhiệm trong viễn
tượng của chủ thể mà bí tích thánh thể có tương
quan, thí dụ như khi giải thích với những cụm từ
nói về "việc biến đổi ý hướng"
và "việc biến đổi
ý nghĩa". Người ta ghi nhận một sự
chênh lệch giữa đức tin được tuyên xưng vào Bí Tích
và chiều kích luân lý trong lãnh vực đời sống cá nhân,
cũng như trong lãnh vực rộng
lớn hơn của sinh hoạt văn hóa và của đời sống xã hội.
Người
ta rất ít biết đến những văn kiện của Giáo Hội, và nhất
là ít biết đến Công Ðồng Vaticanô II, những thông
điệp nổi tiếng về Bí TíchThánh Thể, kể cả những thông điệp
mới đây về Bí Tích Thánh Thể, tông thư về Năm Thánh Thể,
và
những văn kiện khác nữa.
Rồi đến việc thiếu một sự quân bình đúng đắn trong việc cử hành: người ta đi từ thái độ tùy thuộc nghi thức một cách thụ động đến một thái độ "biến chế" thái quá đến độ dùng những kiểu cách đề cao vị cử hành Bí Tích Thánh Thể, với những đặc tính như nói nhiều, giải thích dong dài và nhiều lần, không để cho chính Mầu Nhiệm được nói lên ngôn ngữ của nó qua nghi thức và những công thức của phụng vụ.
(Ðặng
Thế Dũng chuyển dịch Việt ngữ)