Tường thuật về Thánh Lễ
Ðức Thánh Cha Beneditô XVI
cử hành tại Ðền Thờ Thánh Phêrô
để mừng kính hai thánh Tông Ðồ
Phêrô và Phaolô
ÐTC trao dây choàng Pallium, cho 32 Vị Tổng Giám Mục
đứng đầu các Tổng Giáo Phận trên thế giới
Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines
Tường
thuật về Thánh Lễ Ðức Thánh Cha Beneditô XVI cử hành tại
Ðền Thờ Thánh Phêrô để mừng kính hai thánh Tông Ðồ Phêrô
và Phaolô.
(Radio Veritas Asia 30/06/2005) - Quý vị và các bạn thân mến. Lúc 9 giờ 30 phút sáng thứ Tư, ngày 29 tháng 6 năm 2005, Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã chủ tế Thánh Lễ Mừng Kính Trọng Thể Hai Thánh Tông Ðồ Phêrô và Phaolô, bên trong Ðền Thờ Thánh Phêrô, Roma, với sự hiện diện đặc biệt của Phái Ðoàn Giáo Hội Chính Thống Costantinopoli đến mừng lễ hai thánh Quan Thầy Phêrô và Phaolô của Giáo Hội Công Giáo Roma. Trong Thánh Lễ, Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI cũng đã trao dây choàng Pallium, cho Ðức Hồng Y Angelo Sodano, Tân Niên Trưởng Hồng Y Ðoàn, và cho 32 Vị Tổng Giám Mục, đứng đầu các Tổng Giáo Phận trên thế giới, vừa được bổ nhiệm trong năm qua, trong số nầy có Ðức Tân Tổng Giám Mục Hà Nội, Giuse Ngô Quang Kiệt. Sau đây, kính mời quý vị và các bạn theo dõi bản dịch tiếng Việt nguyên văn bài giảng nầy.
ÐTC Bênêditô trình bày một cái nhìn về Giáo Hội trong những đặc tính, duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. ÐTC đã nói như sau:
Lễ Mừng Hai Thánh Tông Ðồ Phêrô và Phaolô vừa là mọät sự tưởng nhớ đầy lòng biết ơn đối với hai chứng nhân vĩ đại của Chúa Giêsu Kitô, vừa đồng thời là một lời tuyên xưng long trọng về một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền. Trước hết, đây là một lễ mừng, nói lên đặc tính công giáo phổ quát. Dấu chỉ của Lễ Hiện Xuống --- một cộng đoàn mới, nói đủ mọi thứ tiếng và hiệp nhất tất cả mọi dân nước thành một Dân duy nhất, trong một gia đình của Thiên Chúa --- (dấu chỉ của Lễ Hiện Xuống nầy) đã trở thành thực tại. Cộng đoàn phụng vụ chúng ta đây, --- trong đó được quy tụ những vị giám mục đến từ khắp nơi trên thế giới, những con người thuộc về nhiều nền văn hóa và từ những quốc gia khác nhau, --- là một hình ảnh của gia đình giáo họäi được phổ biến trên toàn thế giới. Những con người xa lạ nay trở thành bạn hữu; và vượt qua mọi giới hạn, chúng ta nhìn nhau như những anh em. Như thế, được nên trọn sứ mạng của Thánh Phaolô, Ðấng biết rõ mình là "cộng sự viên của Chúa Giêsu Kitô giữa dân ngoại... là lễ dâng đẹp lòng Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần thánh hóa" (thư Roma 15, 16). Mục tiêu của sứ mạng là một nhân loại được biến đổi thành lời tôn vinh Thiên Chúa, thành lễ tôn thờ đích thực mà Thiên Chúa mong muốn: đó là ý nghĩa sâu xa của đặc tính công giáo phổ quát, một đặc tính đã được trao ban cho chúng ta, nhưng cũng là một mục tiêu mà chúng ta phải luôn tiến bước hướng về đó. Ðặc tính công giáo phổ quát không phải chỉ diễn tả theo chiều ngang, như một cuộc tập họp nhiều người trong sự hiệp nhất; nhưng còn diễn tả chiều cao nữa: chỉ khi chúng ta hướng nhìn về Thiên Chúa, chỉ khi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa, thì chúng ta mới có thể thực sự trở thành một cộng đoàn duy nhất. Cũng như thánh Phaolô, Thánh Phêrô cũng đã đến Roma, thành phố đã trở nên nơi hội tụ của tất cả mọi dân nước và vì thế mà Roma đã có thể trở thành lời diễn tả đặc tính phổ quát của Phúc âm, trước mọi thành phố khác. Thực hiện chuyến đi từ Giêrusalem đến Roma, chắc chắn thánh Phaolô biết rõ mình được hướng dẫn bởi những lời của các ngôn sứ, bởi đức tin và lời cầu nguyện của Israel. Sứ mạng hướng đến toàn thế giới cũng là thành phần của lời rao giảng Cựu Ước: Dân tộc Israel đã được mời gọi trở nên ánh sáng cho các dân nước. Thánh Vịnh 21, thánh vịnh của cuộc Thương Khó, --- mà câu đầu tiên: "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ rơi tôi?" đã được Chúa Giêsu thốt lên từ trên Thập Giá", --- Thánh Vịnh 21 nầy kết thúc với cái nhìn được nói lên bằng những lời như sau: "Tất cả mọi nơi sẽ trở vêà cùng Chúa, tất cả mọi gia đình các dân tộc sẽ phủ phục trước nhan Ngài" (Tv 21, 28). Khi Thánh Phêrô và Thánh Phaolô đến Roma, thì Chúa Giêsu, Ðấng đã bắt đầu thánh vịnh 21 nầy từ trên Thập Giá, đã phục sinh rồi; chiến thắng của Thiên Chúa giờ đây phải được công bố cho tất cả mọi dân tộc, và như thế thực hiện xong lời hứa mà thánh vịnh nói lên nơi câu kết.
Ðặc tính công giáo có nghĩa là phổ quát, --- sự đa biệt trở thành sự hiệp nhất; và sự hiệp nhất vẫn còn là sự đa biệt. Từ Lời của Thánh Phaolô về đặc tính phổ quát của Giáo Hội, chúng ta đã được nhìn thấy truớc rằng: cùng thuộc về sự hiệp nhất nầy, là khả năng của các dân tộc vượt qua được chính mình, để nhìn về Thiên Chúa duy nhất. Thánh Irênê thành Ly-on, vị sáng lập thật sự của nền thần học công giáo, đã diễn tả mối dây liên hệ giữa đặc tính công giáo phổ quát và sự hiệp nhất, một cách tốt đẹp như sau: Giáo Lý nầy, đức tin nầy đuợc Giáo Hội trên khắp thế giới gìn giữ kỷ lưỡng, dường như thể kết thành một gia đình duy nhất: chính một đức tin, cùng với một tâm hồn, cùng một lời rao giảng, cùng một giáo huấn, cùng một truyền thống, dường như thể phát xuất từ cùng một môi miệng. Những ngôn ngữ của các vùng trên thế giới là thật khác nhau, nhưng sức mạnh của truyền thống là duy nhất và như nhau. Những cộng đoàn giáo hội tại Ðức không có một đức tin hay truyền thống khác; cũng giống như vậy những giáo hội địa phương tại Tây Ban Nha, tại Pháp, tại Ai Cập, tại Lybia, tại Ðông Phương, tại trung tâm mặt đất; cũng như mặt trời, tạo vật của Thiên Chúa, là duy nhất và giống y như vậy trên khắp mọi nơi, thì cũng thế ánh sáng của lời giảng chân thật chiếu sáng khắp nơi và soi sáng cho tất cả mọi người muốn biết được sự thật." (Adv. haereses, I, 10,2). Sự hiệp nhất con người trong sự đa biệt, trở nên là điều có thể, bởi vì Thiên Chúa, Ðấng Duy Nhất của Trời và Ðất, đã mạc khải chính mình ngài cho chúng ta; bởi vì sự thật thiết yếu về sự sống chúng ta, về nguồn gốc chúng ta, từ đâu đến và đi về đâu, đã trở thành hữu hình khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta; trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã làm cho chúng ta nhìn thấy được dung nhan Ngài, nhìn thấy được chính Ngài. Sự thật này về điểm thiết yếu của hữu thể chúng ta, về sự sống và cái chết của chúng ta, một sự thật từ Thiên Chúa đã trở nên hữu hình, sự thật đó hiệp nhất chúng ta, làm cho chúng ta trở thành anh chị em với nhau. Ðặc tính công giáo và đặc tính hiệp nhất, cùng đi đôi với nhau. Và sự hiệp nhất có một nội dung: đó là đức tin mà các tông đồ đã truyền lại cho chúng ta từ Chúa Kitô. Tôi sung sướng vui mừng, vì hôm qua, trong ngày lễ kính thánh Irênê và trong buổi chiều áp ngày lễ trọng kính Thánh Phêrô và Thánh Phaolô --- tôi đã có thể trao cho Giáo Hội một hướng dẫn mới để thông truyền đức tin; tập hướng dẫn này giúp chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn và, do đó, sống tốt đẹp hơn đức tin đang hiệp nhất chúng ta: đó là tập sách Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo. Giáo Lý, trước đây đã được trình bày một cách đầy đủ chi tiết trong Sách Giáo Lý Lớn (--- tức sách Giáo Lý mới năm 1992) --- nhờ qua những chứng tá của các vị thánh trong các thế kỷ và với những suy tư chính mùi trong thần học, thì giờ đây được tóm gọn trong những điểm chính yếu; tập Toát Yếu Giáo Lý nầy sẽ được chuyển dịch sang ngôn ngữ thường ngày và cần được cụ thể hóa luôn luôn. Tập Toát Yếu được trình bày theo hình thức đối thoại hỏi-thưa; tập sách có in thêm 14 bức hình họa, diễn tả những lãnh vực khác nhau của đức tin; những bức hình nầy mời gọi người đọc chiêm niệm và suy gẫm. Có thể nói những bức hình họa nầy diễn tả lại cách hữu hình điều mà lời nói khai triển chi tiết. Vào đầu của Tập Toát Yếu, có hiện ảnh của Chúa Kitô vào thế kỷ thứ VI; hiện ảnh này hiện được cất giữ trong tu viện ở núi Athos và trình bày Chúa Kitô như là Chúa của Trái Ðất nầy, vừa đồng thời là "vị anh hùng của Phúc âm" mà Chúa cầm trong tay. "Ta là Ðấng Ta Là" --- danh gọi mầu nhiệm về Thiên Chúa như được mạc khải trong Cựu Ước --- giờ đây được dùng như là danh gọi của Chúa Kitô: tất cả những gì hiện hữu, đều đến từ Người; Chúa Kitô là nguồn mạch nguyên thủy của mọi sự. Ðó là bởi vì Chúa Kitô là đấng duy nhất, là đấng luôn luôn hiện diện, luôn luôn gần bên chúng ta vừa đồng thời luôn đi trước chúng ta, như là "Bia Chỉ Ðường" trên đường đời chúng ta, vì chính thật ra Người là Con Ðường. Người ta không thể đọc cuốn Toát Yếu Giáo Lý nầy, như đọc một tiểu thuyết. Cần phải suy niệm từng điểm trong thinh lặng, và cho phép nội dung của tập sách, qua các bức hình in trong đó, thấm nhập sâu xa vào trong tâm hồn chúng ta. Tôi hy vọng là Tập Toát Yếu Giáo Lý này được tiếp nhận trong cách thức như vừa nói trên và có thể trở thành một tập hướng dẫn tốt trong việc thông truyền Ðức Tin.
Chúng ta đã nói rằng đặc tính công giáo và sự hiệp nhất của giáo hội đi đôi với nhau. Sự việc cả hai chiều kích nầy được trở nên hữu hình cho chúng ta nhìn thấy được, nơi dung mạo của hai thánh tông đồ, nói lên cho chúng ta biết về đặc tính kế tiếp của Giáo Hội: đó là đặc tính tông truyền. Thử hỏi đặc tính "Tông Truyền" nầy có nghĩa gì? Chúa đã thiết lập 12 tông đồ, như Ông Giacóp có 12 người con; và như thế, Chúa đặt các ngài như là những kẻ đứng đầu của Dân Chúa, một dân đã trở nên phổ quát, và từ đó về sau bao gồm tất cả mọi dân tộc. Thánh sử Marcô nói cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã gọi 12 vị tông đồ, để họ "ở với ngài và để rồi Người sai họ ra đi" (Mc 3,14). Ðây xem ra như là một điều mâu thuẫn. Có lẽ chúng ta lý luận như sau: hoặc ở lại với Người hoặc họ được sai đi và họ lên đường. Có một lời của Ðức Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô Cả nói về các thiên thần, để giúp chúng ta giải quyết mâu thuẫn vừa nói. Thánh Giáo Hoàng nói rằng các thiên thần luôn được sai đi vừa đồng thời luôn hiện diện trước nhan Thiên Chúa: "Các thiên thần được sai đến khắp nơi; các ngài đi khắp nơi; các ngài luôn lên đường trong cung lòng Thiên Chúa" (Omelia 34,13). Sách Khải Huyền đã gọi các vị giám mục như là "những thiên thần" của Giáo Hội, và do đó chúng ta có thể áp dụng như sau: các tông đồ và những ai kế vị các ngài cần phải luôn ở lại với Chúa, và như thế, bất cứ đi đến nơi nào, các ngài luôn kết hiệp với Chúa và sống nhờ sự kết hiệp nầy.
Giáo Hội là tông truyền, bởi vì giáo hội tuyên xưng đức tin của các Tông đồ và cố gắng sống đức tin nầy. Có một sự duy nhất, đặc điểm của nhóm 12 tông đồ được Chúa kêu gọi, nhưng đồng thời cũng có sự liên tục trong sứ mạng tông đồ. Thánh Phêrô, trong thư thứ nhất của ngài, đã định nghĩa chính mình như là "đồng-trưởng lão" với các vị trưởng lão mà ngài gởi thư cho (5,1). Và như thế, thánh Phêrô diễn tả nguyên tắc về việc kế tục tông đồ: cùng một thừa tác vụ mà ngài đã lãnh nhận từ Chúa, giờ đây tiếp tục trong Giáo Hội nhờ qua việc truyền chức linh mục. Lời Chúa không những đã được viết ra, nhưng, nhờ qua những chứng nhân mà trong bí tích chức thánh, Chúa đã đưa vào trong thừa tác vụ tông đồ, thì Lời Chúa còn là Lời sống động nữa. Như thế, giờ đây tôi ngỏ lời với anh em, thưa anh em giám mục thân mến. Tôi thân ái chào anh em, cùng với những người thân trong gia đình của anh em và những tín hữu hành hương thuộc giáo phận của anh em. Anh em sắp lãnh nhận dây choàng Pallium từ tay người kế vị Thánh Phêrô. Chúng ta đã làm phép những dây choàng nầy, như thể là chính Thánh Phêrô làm phép chúng, bằng cách đặt những dây choàng nầy trên Mộ của Thánh Phêrô. Giờ đây, dây choàng nầy diễn tả trách nhiệm chung của chúng ta trước vị "tổng chủ chăn" là Chúa Giêsu Kitô, mà Thánh Phêrô nói đến nơi chương 5 câu 1 của thư thứ nhất Phêrô. Dây choàng Pallium nầy là biểu lộ cho sứ mạng tông đồ của chúng ta. Là biểu lộ cho sự hiệp thông của chúng ta, một sự hiệp thông được bảo đảm một cách hữu hình, trong thừa tác vụ Phêrô. Công việc phục vụ của thừa tác vụ Phêrô được liên kết với sự hiệp nhất, cũng như với đặc tính tông truyền; công việc phục vụ nầy hiệp nhất, một cách hữu hình, giáo hội khắp mọi nơi và thuộc mọi thời đại, vừa bảo vệ mỗi người chúng ta khỏi rơi vào những sự tự lập giả hiệu, dễ đàng được biến thành những điểm tách riêng trong của giáo hội, và như thế, có thể gây thiệt hại sự độc lập nội bộ. Như thế, chúng ta không được quên rằng ý nghĩa của tất cả mọi vai trò và mọi thừa tác vụ, tựu trung ở điểm nầy, là "chúng ta tất cả đạt đến sự hiệp nhất đức tin và hiệp nhất trong sự hiểu biết Con Thiên Chúa, như là con người trọn vẹn, trong mức độ phù hợp với sự trưởng thành trọn hảo của Chúa Kitô, ngõ hầu nhiệm thể Chúa Kitô được lớn lên "để xây dựng chính mình trong tình bác ái" (thư Ephêsô 4, 13.16).
Trong viễn tượng của sự hiệp nhất giáo hội, từ trong tâm hồn và với tâm tình biết ơn, tôi xin chào phái đoàn của Giáo Hội Chính Thống Giáo Costantinôpôli, đã được Ðức Thượng Phụ đại kết Bartolômêô I, gởi đến tham dự Thánh Lễ nầy; Tôi xin gởi đến Ðức Thượng Phụ dòng suy tư chân thành sau đây.
Ðược Ðức Tổng Giám Mục Joannis hướng dẫn, phái đoàn đã đến tham dự Lễ Mừng hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô và tham dự vào việc cử hành thánh thể của chúng ta. Mặc dù chúng ta chưa đồng ý trong vấn đề giải thích và vấn đề tầm quan trọng của thừa tác vụ Phêrô, tuy nhiên chúng ta cùng đứng chung với nhau trong việc tiếp nối truyền thống các tông đồ, chúng ta hiệp nhất sâu xa với nhau về thừa tác vụ giám mục, về bí tích chức thánh, và chúng ta cùng tuyên xưng đức tin của các Tông Ðồ, như đã được trao ban cho chúng ta trong Kinh Thánh và như được giải thích trong những Ðại Công Ðồng. Trong giờ phút nầy của thế giới, giờ phút đầy chủ nghĩa hoài nghi và đầy những nghi ngờ, mặc dù cũng là giờ phút đầy ước ao hướng về Thiên Chúa, --- chúng ta nhìn nhận lại một lần nữa sứ mạng chung của chúng ta, sứ mạng làm chứng cho Chúa Kitô, và trên nền tảng của sự hiệp nhất đã được ban cho, chúng ta cùng nhìn nhận lại sứ mạng giúp cho thế gian được chấp nhận kính tin. Chúng ta hết lòng khẩn cầu Chúa, xin Ngài hướng dẫn chúng ta đến sự hiệp nhất trọn vẹn, sao cho ánh sáng sự thật, --- là ánh sáng duy nhất có thể sáng tạo sự hiệp nhất, --- được trở nên hữu hình trong thế giới.
Phúc âm của Ngày Lễ nầy nói cho chúng ta biết về lời Tuyên Xưng của Thánh Phêrô, mà từ đó Giáo Hội đã bắt đầu; lời tuyên xưng như sau: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16). Ngày hôm nay, khi nói về Giáo Hội Duy Nhất, công giáo, và tông truyền, --- và chưa nói về Giáo Hội Thánh Thiện, --- chúng ta muốn nhắc lại nơi đây, trong giây phút nầy, lời tuyên xưng khác nữa của Thánh Phêrô, được tuyên xưng nhân danh 12 tông đồ, trong giây phút tín thác cao độ, như sau: "Chúng tôi đã tin và biết rằng Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa" (Gn 6,69). Thử hỏi điều nầy có nghĩa là gì? Chúa Giêsu, trong lời cầu nguyện tư tế, nói rằng ngài thánh hóa chính mình cho các môn đệ, vừa ám chỉ đến cái chết hy tế của ngài (Gn 17,19). Như thế, Chúa Giêsu nói lên cách mặc nhiên vai trò của ngài như là Vị Thượng Tế thực hiện mầu nhiệm của "Ngày Hòa Giải", không phải chỉ trong những nghi thức thay thế, nhưng cách thật sự bằng chính Mình và Máu Thánh ngài. Cụm từ "Ðấng Thánh của Thiên Chúa" trong Cựu Ước ám chỉ đến ông Aron, như là vị Thượng Tế có trách vụ hoàn tất việc thánh hóa dân Israel (Tv 105, 16; x. Sir, 45,6). Lời Tuyên Xưng của Phêrô về Chúa Kitô, mà thánh nhân gọi là "Ðấng Thánh của Thiên Chúa", nằm trong khung cảnh của bài diễn văn của Chúa Giêsu về Bí Tích Thánh Thể, trong đó Chúa Giêsu công bố Ngày Vĩ Ðại của Sự Hòa Giải, nhờ qua việc dâng hiến chính mình ngài trong Hy tế; Chúa nói như sau: "Bánh mà Ta sẽ ban cho là Thịt mình Ta, cho thế gian được sống" (Gn 6,51). Như thế, trên nền tảng của lời tuyên xưng nầy, chúng ta nhìn thấy Mầu Nhiệm Tư Tế của Chúa Giêsu, nhìn thấy hy tế của Ngài cho tất cả chúng ta. Giáo Hội không thánh thiện do tự chính mình; giáo hội thật ra bao gồm những kẻ tội lỗi --- tất cả chúng ta đều biết điều nầy và đều nhìn thấy như thế. Nhưng, giáo hội luôn luôn được thánh hóa lại do bởi tình thương thanh luyện của Chúa Kitô. Thiên Chúa đã không chỉ nói mà thôi; Ngài còn đã yêu thương chúng ta một cách thật sự cụ thể; Ngài đã yêu thương chúng ta cho đến cái chết của Con Một Ngài. Chính từ đây mà Thiên Chúa chỉ cho chúng ta nhìn thấy trọn cả sự cao cả của mạc khải, đến độ ngài dường như đã khắc ghi những vết thương vào trong con tim của Thiên Chúa. Như thế, mỗi người trong chúng ta có thể đích thân nói như thánh Phaolô Tông Ðồ rằng: "Tôi sống trong đức tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu thương tôi và dã trao ban chính mình cho tôi" (Gal 2,20). Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho sự thật của lời nói trên được thêå hiện cách sâu xa trong tâm hồn chúng ta, cùng với niềm vui và trách nhiệm mà sự thật của lời đó mang đến. Chúng ta hãy cầu nguyện cho sự thật của lời nầy, nhờ chiếu tỏa từ việc cử hành bí tích Thánh Thể, mà mỗi ngày mỗi trở nên có sức mạnh nhiều hơn, đêå uốn nắn đời sống chúng ta.
(Ðặng Thế Dũng)