Bài Giảng của
Ðức Thánh Cha Bênêdictô XVI
trong thánh lễ
khai mạc thừa tác vụ Phêrô
sáng Chúa Nhật, ngày 24/04/2005
Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines
Bài
Giảng của Ðức Thánh Cha Bênêdictô
XVI trong thánh lễ khai mạc thừa tác vụ Phêrô, sáng
Chúa Nhật, ngày 24 tháng 4 năm 2005, tại quảng trường trước Ðền Thờ Thánh
Phêrô, Roma.
(Radio Veritas Asia 27/04/2005) - Trong bài giảng nầy, chúng ta sẽ thấy rằng Ðức Tân Giáo Hoàng Benedictô XVI đã không đưa ra một chương trình hành động, nhưng ngài tập trung giải thích hai biểu tượng được dùng để chỉ thứa tác vụ Phêrô của vị giám mục Roma. Và khi giải thích hai biểu tượng nầy --- dây Pallium và Nhẫn Ngư Phủ --- Ðức Tân Giáo Hoàng mô tả dung mạo tinh thần của Vị Chủ Chăn theo Thánh Ý Chúa muốn, một vị chủ chăn tràn đầy tình thương đối với Chúa cũng như đối với đoàn chiên được trao phó cho. Dù ý thức phận mình yếu hèn, không khả năng chu toàn trách vụ lớn lao, nhưng Ðức Tân Giáo Hoàng nói lên xác tín ngài không cô đơn một mình, vì có các thánh cùng đồng hành, bao bọc và hướng dẫn.
Ðây kính mời quý vị và
các bạn theo dõi trọn bài giảng của Ðức Thánh Cha Benedictô
XVI:
Kính
Thưa Quý Vị Hồng Y,
Anh
em đáng kính trong hàng giám mục và linh mục,
Kính
Quý Vị Lãnh Ðạo các Quốc
Gia và Thành Viên Ngoại
giao đoàn,
Anh
chị em rất thân mến,
Trong
những ngày thật đầy ý nghĩa nầy, kinh cầu Các Thánh đã
đến đồng hành với chúng ta ba lần: trong lễ an táng Ðức
Thánh Cha Gioan Phaolô II; trong dịp Các Vị Hồng Y bước
vào Mật Viện, và trong ngày hôm nay, khi chúng ta cất hát
lên lần nữa, với lời khẩn cầu: Tu Illum adjuva --- Xin Chúa
trợ giúp cho Vị Tân Kế Vị Thánh Phêrô. Mỗi lần, trong một
cách thức đặc biệt, tôi
đều cảm thấy bài Hát Kinh Cầu Các Thánh nầy như là lời
an ủi to lớn. Sau khi Ðức Gioan Phaolô II ra đi, chúng ta đã cảm
thấy mình như bị bỏ rơi biết là chừng nào! Ngài là vị Giáo
Hoàng trong vòng 26 năm đã là chủ chăn và là vị hướng dẫn
chúng ta trong cuộc hành trình qua dòng thời gian. Ngài đã bước
qua ngưỡng cửa tiến vào sự sống khác, bước vào trong mầu
nhiệm Thiên Chúa. Nhưng ngài đã không thực hiện cái "bước
qua" nầy một mình. Ai tin tưởng, thì không bao giờ cô đơn
một mình --- không bao giờ cô đơn trong cuộc sống, cũng khơng
cô đơn trong cái chết. Trong giây phút đó, chúng ta đã có
thể khẩn cầu các Thánh của tất cả mọi thế kỷ --- những vị
thánh bạn hữu của ngài, những anh chị em của ngài trong
đức tin, vừa biết rằng các vị như kết thành đoàn rước
sống động để cùng đồng hành với Ðức Gioan Phaolô II vào
cõi bên kia, cho đến vinh quang Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng
ngài đã được chờ đón. Giờ
đây chúng ta biết rằng Ngài đang hiện diện giữa những người
của ngài; ngài thật sự ở nhà ngài. Một lần nữa, chúng
tôi đã được an ủi khi long trọng bước vào Mật Viện, để
chọn Ðấng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Làm sao chúng ta có
thể biết được danh tánh của Ðấng đó? Làm sao 115 giám mục,
đến từ mọi nền văn hóa
và đất nước, có thể gặp được Ðấng mà Thiên Chúa đã
muốn trao phó cho sứ mạng cầm buộc và tháo gỡ? Một lần nữa,
chúng ta biết được điều đó: chúng ta biết rõ rằng chúng
ta không cô đơn một mình, rằng chúng ta được vây quanh,
được dẫn đi và được chỉ đường bởi những bạn
hữu của Thiên Chúa. Và giờ đây, trong giây phút nầy, Tôi, người tôi tớ yếu hèn của Thiên Chúa, tôi phải lãnh lấy
trách vụ to lớn, một trách vụ thật sự vượt quá mọi khả
năng con người. Làm sao tôi có thể làm được? Làm sao tôi
có khả năng để làm việc
nầy? Thưa các bạn thân mến, tất cả anh chị em vừa khẩn cầu
toàn thể cộng đoàn các
thánh, được đại diện bởi những vị nổi tiếng trong lịch sử
Thiên Chúa tiếp xúc với con người. Như thế, trong tôi
được sống lại ý thức nầy rằng tôi không cô đơn một mình.
Tôi không phải một mình mang lấy điều mà trong thực tế tôi
không thể nào mang lấy tự một mình. Cộng đoàn các Thánh
của Thiên Chúa bảo vệ tôi,
nâng đỡ tôi và đưa tôi đi. Và lời cầu nguyện của anh
chị em, thưa quý bạn thân mến, lòng khoan dung của anh chị em, tình
thương, đức tin và niềm hy vọng của anh chị em, tất cả cùng
đồng hành với tôi. Thật vậy cộng đoàn các thánh không
phải chỉ có những vị nổi tiếng đã đi trước chúng ta và
là những vị chúng ta đã biết đến danh tánh. Tất cả chúng
ta là cộng đoàn các thánh, chúng ta, những kẻ đã lãnh nhận
bí tích rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta,
những kẻ sống nhờ hồng ân Mình và Máu của Chúa Kitô, mà
nhờ đó Chúa muốn biến đổi chúng ta trở nên giống như Người.
Phải, Giáo Hội còn sống
động; đây là kinh nghiệm kỳ diệu của những ngày nầy. Chính
trong những ngày ưu buồn khi Ðức Gioan Phaolô II đau bệnh và qua đời,
mà điều nầy được
thể hiện một cách diệu kỳ trước mắt chúng ta: rằng giáo
hội còn sống động. Và Giáo hội còn trẻ trung. Giáo Hội
mang trong mình tương lai của thế giới và vì thế chỉ cho mỗi
người chúng ta biết con đường tiến đến tương lai. Giáo Hội
còn sống và chúng ta nhìn thấy được điều nầy: chúng ta cảm
nghiệm được niềm vui mà Ðấng Phục sinh đã hứa ban cho những
kẻ thuộc về người. Giáo Hội còn sống; Giáo Hội còn sống
bởi vì Chúa Kitô hằng sống,
bởi vì Chúa Kitô đã thực sự sống lại. Trong đau khổ, hiện
diện trên dung mạo của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong những ngày
mừng lễ Vượt qua, chúng ta đã chiêm ngắm mầu nhiệm
cuộc Thương Khó của Chúa Kitô và cùng nhau chạm đến những
vết thương của Người. Nhưng trong tất cả những ngày qua, chúng
ta đã có thể, trong một ý nghĩa sâu xa, chạm đến Ðấng Phục
Sinh. Chúng ta được ban cho dịp nếm hưởng niềm Vui mà Chúa đã
hứa, niềm vui như là hoa trái của sự Phục Sinh Chúa, sau một
thời gian ngắn trong bóng tối.
Giáo
Hội đang sống, --- bằng những lời như thế, tôi xin chào tất
cả đang quy tụ nơi đây, với niềm vui to lớn và với lòng
biết ơn, thưa chư huynh đáng kính, hồng y và giám mục, thưa
quý linh mục rất thân mến, quý thầy phó tế, các tác viên
mục vụ và những giáo lý viên. Tôi xin chào tất cả tu sĩ
nam nữ, những chứng nhân cho sự hiện diện đầy sức biến
đổi của Thiên Chúa. Thưa anh chị em tín hữu, tôi xin chào anh
chị em, những kẻ dấn thân vào trong khoảng rộng của việc xây
dựng Nước Thiên Chúa đang lan rộng trong thế gian, trong mọi
hoàn cảnh cuộc sống. Tôi xin gởi những lời chào đầy tình
thân đến tất cả những ai đã được tái sinh trong bí tích
rửa tội, nhưng không còn hiệp thông trọn vẹn với chúng tôi;
và tôi xin gởi lời chào đến anh chị em dân tộc do thái, mà
chúng ta được liên kết với, do
phần gia tài thiêng liêng to lớn mà chúng ta có chung với
nhau, phần gia tài ăn rễ sâu trong những lời hứa không thể
rút lại được của Thiên Chúa. Sau cùng, tư tưởng tôi --- như làn sóng được lan rộng ra mãi
--- đến với tất cả mọi
người của thời đại chúng ta, tin hay không tin.
Thưa
các bạn thân mến, trong giây phút nầy, tôi không cần trình
bày chương trình hành động cho việc quản trị giáo hội. Vài
khía cạnh của điều mà tôi xem như là trách vụ của tôi, tôi
đã có thể trình bày rồi trong sứ điệp hôm thứ Tư tuần
qua, ngày 20 tháng 4 (năm 2005); chúng ta sẽ còn nhiều dịp khác để làm
công việc nầy. Chương trình cai quản đích thực của tôi là
chương trình không làm theo ý muốn của tôi, không thực hiện
những ý nghĩ của tôi, nhưng là đặt mình lắng nghe, cùng với
trọn cả giáo hội, (lắng nghe) lời
và ý muốn của Chúa, và để Chúa hướng dẫn tôi,
bởi vì chính Ngài mới
là kẻ phải hướng dẫn giáo hội trong giờ phút nầy của lịch
sử chúng ta. Thay vì trình bày một chương trình hành động, tôi
chỉ muốn đơn sơ giải thích hai dấu chỉ, mà phụng vụ dùng
để chỉ việc lãnh nhận thừa tác vụ Phêrô; cả hai
dấu chỉ nầy phản ánh cách chính xác điều được công bố
trong những bài đọc thánh lễ hôm nay.
Dấu
chỉ thứ nhất là Dây Pallium, bằng len, được choàng lên đôi
vai tôi. Dấu chỉ rất cổ xưa nầy, mà những vị giám mục Roma
mang lấy từ thế kỷ thứ IV đến nay, có thể được nhìn như
là hình ảnh của ách Chúa Kitô, mà vị Giám Mục của Roma nầy,
người tôi tớ của các tôi tớ của Thiên Chúa, mang lấy
trên đôi vai mình. Ách của Thiên Chúa là Thánh Ý Ngài mà
chúng ta nhận lãnh. Và Thánh ý của Thiên Chúa đây đối với
chúng ta, không phải là gánh nặng bên ngoài, áp đặt trên
chúng ta và làm cho chúng ta mất đi tự do. Biết được điều
Thiên Chúa muốn, biết được đâu là con đường của sự
sống --- đó đã là niềm vui của dân Isrtael, là đặc ân to lớn
của họ. Ðây cũng là niềm vui của chúng ta: thánh ý của
Thiên Chúa không làm cho chúng ta bị vong thân, nhưng thanh luyện
chúng ta --- có thể trong cách thức làm chúng ta đau khổ
--- và như thế dẫn đưa chúng ta trở về với chính mình.
Như thế, chúng ta không chỉ phục vụ cho Chúa, nhưng phục vụ
cho sự cứu rỗi của trọn cả thế gian, của trọn cả lịch
sử. Thực ra, biểu tượng Dây Pallium còn mang tính cách cụ
thể hơn nữa: len từ con chiên có ý nhắc đến con chiên bị
lạc mất, hay con chiên bị đau hay con chiên yếu kém, mà vị chủ chăn vác trên
vai và đưa về nguồn nước ban sự sống. Chuyện dụ ngôn về
con chiên bị lạc mất, mà vị chủ chăn đi tìm trong sa mạc, đối
với các Giáo Phụ, là hình ảnh cho mầu nhiệm Chúa Kitô và
Giáo Hội. Nhân loại --- tất cả chúng ta --- là con chiên bị
lạc mất, con chiên không tìm được đường đi trong sa mạc.
Con Thiên Chúa không chấp nhận để như vậy; Con Thiên Chúa
không thể bỏ rơi nhân loại trong một tình trạng đáng thương
như vậy. Người đứng lên, từ bỏ vinh quang trên trời, để
tìm gặp lại con chiên lạc và đi theo con chiên đó cho đến
Thập giá. Người vác nó trên vai, Người mang lấy nhân loại
chúng ta, mang lấy chính chúng ta; Người là vị chủ chăn nhân
lành, hiến dâng mạng sống mình cho đoàn chiên. Dây choàng
Pallium trước hết nói cho chúng ta biết rằng tất cả chúng ta
đều được Chúa Kitô vác lấy. Nhưng đồng thời dây Pallium
nầy mời gọi chúng ta hãy vác lẫn nhau. Như thế, dây Pallium
trở nên biểu tượng cho sứ mạng của vị chủ vhăn, mà bài
đọc thứ hai và bài phúc âm nói đến. Mối lo lắng thánh
thiện của Chúa Kitô phải linh động người mục tử: người
mục tử không lãnh đạm trước sự kiện biết bao người sống
trong sa mạc. Và có biết bao hình thức sa mạc. Có sa mạc của
sự nghèo cùng, sa mạc của nạn đói và khát, có sa mạc của
sự bỏ rơi, của cô đơn, của tình yêu bị phá tan. Có sa mạc
của sự mờ tối về Thiên Chúa, của sự trống vắng nơi các
tâm hồn không còn ý thức về phẩm giá và về cuộc hành
trình của con người. Những sa mạc bên ngoài gia tăng trên
thế giới, bởi vì những
sa mạc nội tâm đã trở nên rộng lớn hơn. Vì thế, những
kho tàng của trái đất không còn phục vụ cho việc xây dựng
ngôi vườn của Thiên Chúa, trong đó tất cả có thể sống,
nhưng bị bắt làm nô lệ cho những quyền lực lạm dụng và
tàn phá. Giáo Hội trong toàn thể của nó, và những vị chủ
chăn trong đó, giống như Chúa Kitô, cần phải lên đường,
để hướng dẫn con người ra khỏi sa mạc, má tiến đến nơi
của sự sống, đến tình bằng hữu với Con Thiên Chúa, đến
với Ðấng trao ban cho chúng ta sự sống, sự sống trọn đầy.
Biểu tượng con chiên còn có một khía cạnh khác nữa. Trong
vùng Ðông Phương thời cổ, có thói quen các nhà vua coi mình
như là những vị chủ chăn của dân. Ðây là hình ảnh cho
quyền hành của họ, một hình ảnh coi thường kẻ khác: dân
chúng là như những con chiên, mà vị chủ chăn có thể sử
dụng tùy ý thích. Trong khi đó Thiên Chúa hằng sống, vị chủ chăn của tất cả
mọi người, đã trở thành con chiên, đứng về phía những
con chiên, của những ai bị chà đạp và bị giết chết. Chính
như thế mà Thiên Chúa mạc khải mình như là vị chủ chăn
đích thực: "Ta là chủ chăn nhân lành. Ta hiến mạng sống
mình cho các chiên Ta", Chúa Giêsu nói về chính mình như vậy
(Gn 10,14tt). Không phải quyền lực có sức cứu rỗi, mà là tình yêu thương! Ðây
là dấu chỉ của Thiên Chúa: chính Ngài là Tình Thương. Biết
bao lần chúng ta có lẽ cũng ao ước Thiên Chúa mạc khải chính
mình một cách mạnh mẽ hơn. Chúng ta ao ước Thiên Chúa đánh
xuống thật đau, làm cho sự dữ phải thảm bại và tạo dựng
một thế giới tốt đẹp hơn. Tất cả những ý thức hệ của
quyền lực đều tự biện
hộ như thế, biện hộ cho việc phá hủy những gì xem ra như nghịch
lại tiến bộ, nghịch lại sự giải phóng nhân loại. Chúng ta
đau khổ vì sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Nhưng tất cả chúng
ta lại cần đến sự kiên nhẫn của Ngài. Thiên Chúa, đấng
trở thành con chiên, nói với chúng ta rằng thế gian được
cứu rỗi bởi Ðấng đã chịu đóng đinh,
chớ không phải bởi những kẻ đóng đinh. Thế gian
được cứu rỗi nhờ bởi sự nhẫn nại của Thiên Chúa, và
thế gian bị phá hủy bởi sự không
kiên nhẫn của con người.
Một
trong những đặc tính căn bản của chủ chăn phải là
yêu thương những người đã được trao phó cho, yêu
thương giống như Chúa Kitô yêu thương họ, Chúa Kitô mà vị
chủ chăn phục vụ. "Hãy chăn những con chiên của Thầy",
Chúa Kitô đã nói với tông đồ Phêrô như thế, và Chúa
nói với tôi như vậy trong lúc nầy. Chăn chiên có nghĩa là
yêu thương, và yêu thương có nghĩa là sẵn sàng chịu đau khổ.
Yêu thương có nghĩa là: trao ban cho những con chiên điều thiện
hảo đích thực, là cung cấp của ăn sự thật của Thiên Chúa,
là Lời Chúa, là sự hiện diện của Chúa, mà Chúa ban cho
chúng ta trong Bí Tích Rất
Thánh. Thưa các bạn thân mến, trong giây phút nầy, tôi chỉ
có thể nói như sau: hãy cầu nguyện cho tôi, ngõ hầu tôi có
thể học biết yêu thương Chúa mỗi ngày một hơn. Hãy cầu
nguyện cho tôi, ngõ hầu tôi có thể học biết yêu thương mỗi
ngày một hơn đoàn chiên Chúa, là anh chị em, là Giáo Hội,
là từng người anh chị em cách riêng và tất cả anh chị em nói
chung. Xin hãy cầu nguyện cho tôi, ngõ hầu tôi không chạy trốn,
vì lo sợ, trước những chó sói. Chúng ta hãy cầu nguyện
cho nhau, ngõ hầu Chúa nâng đỡ chúng ta và chúng ta học biết
nâng đỡ nhau.
Dấu
chỉ thứ hai, được dùng để nói lên việc lãnh nhận Thừa
Tác Vụ Phêrô trong phụng vụ hôm nay, là việc trao chiếc
nhẫn
ngư phủ. Lời mời gọi Phêrô làm chủ chăn, mà chúng ta vừa
nghe trong Phúc âm hôm nay, tiếp theo bài tường thuật về vụ
lưới được tràn đầy cá: sau một đêm họ thả lưới mà
không có kết quả nào, các môn đệ nhìn thấy Chúa Phục
Sinh đứng trên bờ. Ngài ra lệnh cho các ông hãy trở lại
thả lưới một lần nữa, và đây lưới được thật đầy
cá đến độ họ không thể kéo lên; 153 con cá to; "Và cho
dù được thật nhiều cá như vậy, mà lưới không bị rách"
(Gn 21,11). Bài tường thuật nầy, --- vào lúc kết thúc cuộc
hành hương trên trần gian của Chúa Giêsu với các môn đệ, ---
phù hợp với bài tường thuật lúc ban đầu: lúc đó
cũng vậy, các môn đệ đã không bắt được con cá nào suốt
cả đêm; và lúc đó cũng vậy, Chúa đã gọi Simon hãy ra khơi
thả lưới một lần nữa. Và Simon, --- lúc đó chưa được gọi
là Phêrô --- đã trả lời cách đáng khâm phục như sau: "Thưa
Thầy, vâng theo lời Thầy, con sẽ thả lưới!" Và sau đó
là việc trao ban sứ mạng:
"Ðừng sợ! Từ nay, con sẽ là kẻ lưới cá con
người" (Lcx 5,1-11). Ngày hôm nay,
cũng được nói cho Giáo Hội và cho những ai kế vị các
tông đồ rằng hãy ra khơi trong đại dương của lịch sử và
hãy thả lưới, để thu phục con người về với Phúc Âm,
---
về với Thiên Chúa, về với Chúa Kitô, về với sự sống
thật. Các giáo phụ đã dành một giải thích thật đặc biệt
cho trách vụ riêng biệt nầy. Các giáo phụ đã nói như sau:
đối với con cá, được tạo dựng để sống trong nước, nó
sẽ chết, nếu bị đưa ra khỏi đại dương. Cá được bắt ra
khỏi môi trường sống của nó, để làm lương
thực cho con người. Nhưng trong sứ mạng của kẻ lưới
cá con nguời, thì điều ngược lại xảy ra. Là con người,
chúng ta sống bị vong thân, trong nước mặn của khổ đau và sự
chết; trong đại dương bóng tối không có ánh sáng. Lưới
Phúc Âm bắt đưa chúng ta ra khỏi những dòng nước của sự
chết và đưa chúng ta vào trong vinh quang của ánh sáng Chúa,
trong sự sống đích thực. Và đúng thật như vậy --- trong sứ
mạng của kẻ lưới cá con
nguời, theo lệnh Chúa Kitô truyền, thì cần phải đưa con
người
ra khỏi biển mặn của tất cả mọi thứ vong thân,
tiến tới vùng đất của sự sống, đến ánh sáng của
Thiên Chúa. Ðúng là như thế: chúng ta hiện hữu để chỉ cho
con người nhìn thấy Thiên Chúa. Và chỉ nơi nào người ta nhìn
thấy Thiên Chúa, thì ở đó mới thật sự bắt đầu sự sống.
Chỉ khi nào chúng ta gặp Thiên Chúa hằng sống nơi Chúa Kitô,
thì chúng ta biết được sự sống là gì. Chúng ta không phải
là một sản phẩm ngẫu nhiên và không có ý nghĩa gì của sự
tiến hóa. Mỗi người trong chúng ta là hoa trái của một ý tưởng
Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta đều được muốn có, mỗi
người chúng ta đều được yêu thương, mỗi người chúng ta
là cần thiết. Không có gì tốt đẹp hơn cho chúng ta bằng việc
được Phúc âm, được Chúa Kitô chạm đến và thức tỉnh.
Không có gì tốt đẹp hơn việc biết Chúa và thông truyền
cho kẻ khác tình bằng hữu với Chúa. Trách vụ của vị chủ
chăn, của kẻ lưới cá con người thường có thể xem ra cực nhọc. Nhưng là một trách vụ
tốt đẹp và cao cả, bởi vì xét
cho cùng trách vụ đó phục vụ cho niềm vui, cho niềm vui của
Thiên Chúa, Ðấng muốn bước vào trong thế gian.
Ở
đây, tôi muốn nhấn mạnh một điều: trong hình ảnh của vị
chủ chăn cũng như trong hình ảnh người lưới cá, đều có
phát xuất một cách thật rõ ràng lời kêu gọi tiến đến sự
hiệp nhất. "Thầy còn có những con chiên khác nữa chưa
thuộc về ràng. Thầy phải dẫn những con chiên đó trở về;
chúng sẽ nghe tiếng Thầy và chúng sẽ trở thành một
đoàn chiên và một chủ chăn mà thôi" (Gn 10,16), Chúa Giêsu
nói như thế vào cuối bài diễn văn về người chăn chiên
nhân
lành. Và bài tường thuật về 153 con cá lớn,
kết thúc bằng nhận định đầy vui mừng như sau: "Cho dù
có thật nhiều cá, nhưng lưới không bị rách" (Gn 21,11) Buồn
thay, thưa Chúa yêu dấu, tấm lưới cá đó giờ đây đã bị
rách! Có lẽ chúng ta nói lên điều nầy với tâm hồn
ưu buồn. Nhưng không, chúng ta không nên buồn. Chúng con
vui mừng lên vì lời hứa của Chúa, lời hứa không làm
thất vọng, và chúng con làm tất cả những gì có thể, để
đi trên con đường tiến đến sự hiệp nhất mà Chúa đã hứa.
Chúng ta nhớ đến lời hứa nầy trong lời cầu nguyện dâng
lên Chúa, như những kẻ van xin: Phải,
Lạy Chúa, xin hãy nhớ lại tất cả những gì Chúa đã hứa.
Xin hãy làm sao cho chúng con được trở thành một chủ chăn
và một đoàn chiên. Xin đừng để cho lưới
cá của Chúa bị rách đi, và xin hãy giúp chúng con trở
thành những người tôi tớ của sự hiệp nhất!
"Trong
giây phút nầy, tâm trí tôi trở lại với ngày 22 tháng 10
năm 1978, khi đức Gioan Phaolô II bắt đầu thừa tác vụ của ngài tại
quảng trường thánh Phêrô nầy. Những lời của ngài trong dịp
đó giờ vẫn luôn vang lên bên tai tôi: "Xin đừng sợ! Hãy
mở rộng các cửa cho Chúa Kitô!" Ðức Gioan Phaolô II lúc đó ngỏ
lời với người quyền thế, với kẻ có sức mạnh trên thế
giới nầy, những kẻ lo sợ Chúa Kitô có thể đến lấy đi
mất điều gì đó ra khỏi quyền lực của họ, nếu như họ để
cho Chúa Kitô ngự vào, nếu
như họ cho phép đức tin được tự do. Phải, chắc chắn Chúa
Kitô lấy đi điều gì đó
khỏi họ: ngài lấy đi sự thống trị của tham nhũng, lấy đi việc lèo
lái luật pháp và sự tự do muốn làm gì tùy ý. Nhưng Chúa
Kitô không lấy đi bất cứ điều gì có liên quan đến phẩm
giá hay sự tự do của con người hoặc liên quan đến việc xây
dựng một xã hội công bằng. Ðức Gioan Phaolô II lúc đó cũng
ngỏ lòi với mọi người, nhất là những người trẻ. Thử
hỏi chúng ta chẳng lẽ không
lo sợ cách nầy hay cách khác hay sao? Nếu chúng ta để cho Chúa
Kitô bước vào cách trọn vẹn trong đời sống chúng ta, nếu
chúng ta mở rộng hoàn toàn chính mình để tiếp rước ngài,
thì thử hỏi chúng ta có sợ rằng Ngài sẽ lấy đi điều gì
đó ra khỏi chúng ta hay không? Cóù
thể chúng ta đang lo sợ phải bỏ đi điều gì đó có ý nghĩa,
điều gì đó duy nhất, điều gì đó làm cho cuộc sống nầy trở
nên tươi đẹp, có phải vậy không? Liệu chúng ta không liều
gặp phải hậu quả nầy là thấy mình sống trong
buồn phiền và thiếu vắng sự tự do hay không? Và đây,
một lần nữa, Ðức Gioan Phaolô II nói với chúng ta rằng: Không! Ai
chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời
họ, thì người đó
không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì
làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả.
Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô nầy mà các cửa sự
sống được mở rộng ra.
Chỉ trong tình bạn với Chúa nầy mà những khả năng to lớn
của cuộc sống con người được
thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa nầy mà chúng
ta cảm nghiệm được điều gì là tươi
đẹp và điều gì là tự do. Như thế, thưa các bạn trẻ
thân mến, ngày hôm nay, với
sức mạnh cao cả và với niềm xác tín to lớn, dựa trên những
năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Cha nói với chúng
con rằng: chúng con đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy
mất đi điều gì cả, nhưng
ban cho đủ mọi sự. Ai hiến
thân cho Chúa, thì được
nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho
Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật. Amen.
(Ðặng Thế Dũng chuyển dịch Việt Ngữ theo nguyên bản tiếng Ý)