Di Chúc của
Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines
Di
Chúc của Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
(Radio Veritas Asia 8/04/2005) - Di chúc của Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được viết bằng tiếng BaLan và đã được Tòa Thánh công bố trong ấn bản bằng tiếng BaLan, tiếng Ý và tiếng Anh hôm thứ Năm, mùng 7 tháng 4 năm 2005, sau khi đã được Các Vị Hồng Y mở đọc trong phiên họp chung vào sáng thứ Tư, mùng 6 tháng 4 năm 2005. Di chúc gồm nhiều đoạn, được viết nhiều lúc khác nhau, trong khoảng thời gian từ năm 1979 --- năm ÐTC viết đoạn đầu tiên --- cho đến năm 2000, --- năm ÐTC Gioan Phaolô II viết đoạn cuối cùng Di Chúc của ngài.
Và
khung cảnh thiêng liêng để Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết Di
Chúc, là những ngày Cấm Phòng Năm.
Dựa theo những ngày tháng được ghi ở đầu mỗi đoạn
di chúc, chúng ta thấy ÐTC Gioan
Phaolô II đã bắt đầu viết Di Chúc lần thứ nhất vào ngày mùng
6 tháng III năm 1979, lần thứ hai trong khoảng thời gian từ ngày
24 tháng 2 đến ngày 1 tháng 3 năm 1980, lần thứ ba là vào
ngày 5 tháng 3 năm 1982, lần thứ tư là vào ngày 1 tháng 3 năm
1985, và lần thứ năm là từ ngày 12 đến
18 tháng 3 năm 2000, cũng trong dịp Cấm Phòng Năm.
Kính mời quý vị và các bạn theo dõi bản dịch tiếng Việt nguyên văn Di Chúc của ÐTC Gioan Phaolô II:
Di
chúc ngày 6 tháng 3 năm 1979
(và
những đoạn viết tiếp theo sau đó)
Totus
tuus ego sum
Trọn
cả con thuộc về Mẹ.
Nhân
danh Thiên Chúa Ba Ngôi rất thánh. Amen
"Chúng
con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào Chúa chúng
con sẽ đến! (x. Mt 24,42) --- những lời nầy nhắc tôi nhớ đến
lời Chúa gọi cuối cùng, sẽ xảy ra vào lúc Chúa muốn. Tôi
muốn theo Ngài và tôi ao ước rằng tất cả những gì kết
thành đời sống tôi trên trần gian nầy đều giúp tôi chuẩn
bị cho giây phút Chúa gọi nầy. Tôi không biết lúc nào sẽ
xảy đến, nhưng cũng như tôi đặt tất cả mọi sự, thì tôi
cũng đặt giây phút nầy trong tay của Mẹ của Chúa tôi:
totus tuus, trọn cả con thuộc về Mẹ. Trong đôi tay hiền mẫu của
Mẹ, tôi đặt tất cả mọi sự và tất cả những ai
có liên hệ đến
đời sống và ơn gọi của tôi. Trong đôi tay Mẹ, tôi phó
thác nhất là Giáo Hội và Quốc Gia BaLan của tôi và toàn
thể nhân loại. Tôi cám ơn tất cả mọi người. Tôi xin tất
cả mọi người tha thứ cho tôi. Tôi xin mọi người cầu nguyện
cho tôi, ngõ hầu lòng Nhân Từ của Thiên Chúa được tỏ
ra to lớn hơn sự yếu đuối và
bất xứng của tôi.
Trong
những ngày Cấm Phòng, tôi đã đọc lại chúc thư của Ðức
Thánh Cha Phaolô VI. Việc làm nầy đã thôi thúc tôi viết ra
bản di chúc nầy.
Tôi
không để lại bất cứ sở hữu nào để cần được phân
phối. Về những vật dụng thường ngày giúp tôi, tôi yêu
cầu phân phát tùy ý thuận tiện. Những ghi chú cá nhân cần
phải được đốt bỏ đi. Tôi yêu cầu Don Stanislao đặc trách
việc nầy; và tôi cám ơn cha Stanislao vì sự cộng tác và giúp
đỡ trong nhiều năm qua và đầy lòng thông cảm. Tất cả những
lời cám ơn khác, tôi mang chúng trong tâm hồn trước nhan
Thiên Chúa, bởi vì thật khó mà diễn tả chúng ra.
Liên
quan đến việc An Táng, tôi nhắc lại cũng những quy định đã
được Ðức Thánh Cha Phaolô VI đề
ra (= đến đây có lời phụ ghi bên lề như sau: chôn
vào trong lòng đất, chớ không chôn trong ngôi mộ nổi,
13.3.92).
Lòng
nhân từ và ân sũng nơi Chúa luôn tràn đầy
Apud
Dominum misericordia et copiosa apud Eum redemptio."
Gioan
Phaolô II, giáo hoàng.
Roma 6.III.1979
Sau
khi tôi qua đời, xin hãy dâng Thánh Lễ và cầu nguyện cho tôi.
5.III.
1990.
Những
Lời sau đây không có ghi ngày tháng:
Tôi
nói lên niềm tin tưởng sâu xa nhất rằng, mặc cho tất cả
những sự yếu đuối của tôi, Thiên Chúa sẽ ban cho tôi
mọi ơn cần thiết để đương đầu đúng theo Thánh Ý ngài bất
cứ trách vụ nào, bất cứ thử thách
và đau khổ nào mà Ngài muốn đòi hỏi nơi người tôi
tớ của Ngài, trong suốt đời sống. Tôi cũng tin tưởng rằng
Thiên Chúa sẽ không bao giờ để cho tôi phản bội những đòi
buộc của tôi nơi Ngai Tòa Phêrô nầy, bằng thái độ nào đó
của tôi: lời nói, việc làm và những thiếu sót.
24.II
- 1.III.1980
Trong
những ngày cấm phòng nầy tôi đã suy nghĩ về sự thật Chức
Tư Tế của Chúa Kitô trong viễn tượng của cuộc Chuyển Tiếp
mà đối với mỗi người chúng ta là giây phút mình
qua đời. Ðối với mỗi người chúng ta, Sự Phục Sinh của
Chúa Kitô là dấu chỉ hùng hồn
(--- có thêm vào phía trên: quyết định) --- cho cuộc ra
đi khỏi đời nầy, để sinh vào đời sau, vào thế giới tương
lai.
Tôi
đã đọc bản di chúc tôi đã viết năm vừa qua, cũng trong dịp
Cấm Phòng, tôi đã so sánh nó với di chúc của vị Tiền Nhiệm
cao cả và là người Cha của Tôi là Ðức Phaolô VI, với chứng
từ cao cả về cái chết của người Kitô và là của một vị
giáo hoàng --- và tôi đã canh tân lại trong tôi ý thức về
những điều được nhắc đến trong bản di chúc của ngày 6
tháng III năm 1979 cũng đã do tôi soạn ra (một cách có thể
nói là tạm thời).
Ngày
hôm nay, tôi muốn thêm vào đó chỉ điều nầy thôi, là mỗi
người cần phải đặt trước mắt cái chết. Mỗi người cần
phải sẵn sàng trình diện mình trước nhan Chúa và Quan Tòa, vừa
đồng thời là Ðấng Cứu Chuộc và là người Cha. Tôi đây
cũng vậy, tôi luôn luôn nghĩ đến điều nầy, vừa phó thác
giây phút quyết định đó cho Mẹ của Chúa Kitô và Mẹ của
Giáo Hội, cho người Mẹ của niềm hy vọng tôi.
Thời gian trong đó chúng ta sống, là thời gian khó khăn và bất an một cách không thể tả được. Ðời sống của Giáo Hội cũng đã trở thành khó khăn và căng thẳng, một thử thách đặc biệt của thời đại nầy --- cho các tín hữu cũng như cho các chủ chăn. Tại vài quốc gia, (chẳng hạn như tại quốc gia mà tôi đã được đọc trong thời gian cấm phòng) Giáo Hội ở trong giai đoạn bị bách hại đến độ không thua gì những bách hại của những thế kỷ đầu, mà còn vuợt hơn những bách hại đó, xét vì cường độ của sự độc ác và lòng thù hận. Sanguis martyrum, semen christianorum, Máu của những vị tử đạo là hạt giống trổ sinh những người kitô. Và hơn thế nữa, biết bao nguời bị mất tích cách vô tội, cả trong Ðất Nước nầy trong đó chúng ta sinh sống...
Một
lần nữa tôi muốn phó thác hoàn toàn cho ân sũng của Chúa.
Chính ngài sẽ định khi nào và cách nào tôi phải kết thúc
đời tôi trên trần gian và kết thúc thừa tác vụ mục vụ
của tôi. Sống cũng như chết, totus tuus, trọn cả con thuộc về
Mẹ, trọn cả con nhờ qua Ðấng Vô Nhiễm. Ngay từ bây giờ,
qua việc chấp nhận cái chết, tôi hy vọng rằng Chúa Kitô ban
cho tôi ân sũng cho cuộc Ra Ði cuối cùng, tức là cuộc Vượt
Qua của tôi. Tôi hy vọng Chúa làm cho cái chết của tôi
trở nên hữu ích cho cộng cuộc quan trọng hơn mà tôi cố gắng
phục vụ cho: đó là ơn cứu rỗi cho con người, sự bảo vệ
gia đình nhân loại bao gồm
tất cả mọi quốc gia và mọi dân tộc (trong đó tôi nghĩ đặc
biệt đến quê hương trần
gian của tôi), hữu ích cho những ai đã được trao phó cho tôi
cách đặc biệt, hữu ích cho công cuộc của Giáo Hội,
hữu ích cho vinh quang của chính Thiên Chúa.
Tôi
không muốn thêm gì vào tất
cả những điều tôi đã viết cách đây một năm; tôi chỉ
muốn nói lên sự sẵn sàng và đồng thời lòng tin tưởng
phó thác, mà những ngày cấm phòng nầy một lần nữa chuẩn
bị tôi.
Gioan
Phaolô II.
Ngày
5 tháng III năm 1982:
Totus
tuus ego sum
Trọn
cả con thuộc về Mẹ.
Trong
thời gian cấm phòng của năm nay, tôi đã đọc nhiều lần bản
Di chúc của ngày 6 tháng III năm 1979. Cho dù tôi xem bản Di chúc
nầy như là tạm thời (chưa vĩnh viễn), tôi vẫn để như vậy.
Tôi không thay đổi gì cả, và cũng không thêm gì, trong những
gì liên quan đến những điều được
nói lên trong đó.
Cuộc
mưu sát ngày 13 tháng V năm 1981 một cách nào đó đã xác
nhận tính cách xác thực của những lời đã được viết
ra trong thời gian cấm phòng của năm 1980 (từ ngày 24 tháng II
cho đến mùng 1 tháng
III).
Tôi
càng cảm nghiệm sâu xa rằng tôi hoàn toàn phó thác mình
trong Tay Thiên Chúa, và tôi luôn luôn sẵn sàng để Chúa sử
dụng tôi tùy ý ngài, vừa tín thác vào Ngài trong Mẹ Vô
Nhiễm (Totus Tuus, Trọn cả con thuộc về Mẹ).
Gioan
Phaolô II.
Ngày
5 tháng III năm 1982
Liên quan đến câu cuối cùng của bản di chúc ngày 6 tháng III năm 1979
(Về nơi chốn
/ tức nơi an táng, ---
hồng y đoàn và những người đồng hương của tôi
quyết định --- tôi xin giải thích rõ ràng điều tôi nghĩ
trong đầu: đó là vị Tổng Giám Mục Cracovia hoặc Ủy Ban Thường
Trực của Hội Ðồng Giám Mục BaLan --- tôi yêu cầu Hồng Y Ðoàn
hãy thi hành theo
mức có thể những yêu cầu của những gì đã được kể
ra ở trên.
Ngày
1 tháng III năm 1985 (trong Tuần Cấm Phòng)
Một
lần nữa --- liên quan đến cụm từ "Hồng Y Ðoàn và Những Người Ðồng Hương": Hồng
Y Ðoàn không bị bắt buộc phải "tham khảo" những người
Ðồng Hương tôi về vấn đề nầy; tuy nhiên Hồng Y Ðoàn có
thể tham khảo, nếu vì lý
do nào đó Hồng Y Ðoàn cảm thấy làm như vậy là đúng.
Gioan
Phaolô II
Cấm
Phòng Năm Thánh 2000 (từ 12 đến 18 tháng III)
(đưa vào Di Chúc)
1.
Vào ngày 16 tháng 10 năm 1978, khi Mật Viện Hồng Y chọn lên
Gioan Phaolô II, thì vị
giáo chủ của BaLan, Ðức Hồng Y Stefan Wyszynski đã nói với
tôi như sau: "Bổn phận của Vị Tân Giáo Hoàng sẽ là dẫn
đưa Giáo Hội vào trong ngàn năm thứ ba". Tôi không biết
tôi có lặp lại đúng câu nói của ngài hay không, nhưng ít
ra đó là ý nghĩa của điều tôi đã nghe được lúc đó.
Ðó là điều được nói lên bởi Vị đã bước vào lịch sử
như là Vị Giáo Chủ của Thiên Niên Kỷ. Một Vị Giáo Chủ vĩ
đại. Tôi là chứng nhân cho sứ mạng của ngài, cho sự tín
thác hoàn toàn của ngài. Tôi làm chứng cho những cuộc
Tranh đấu của ngài. Cho chiến thắng của ngài. "Chiến Thắng,
khi nó đến, sẽ là chiến thắng nhờ qua Mẹ Maria" --- Vị Giáo
Chủ của Thiên niên kỷ đã thường lặp đi lặp lại những lời nầy
của vị tiền nhiệm ngài là Ðức Hồng Y August Hlond.
Như
thế, một cách nào đó, tôi được chuẩn bị cho trách vụ mà
ngày 16 tháng 10 năm 1978 đã
mở ra trước mặt tôi. Trong giây phút tôi viết ra những lời
nầy, Năm Thánh 2000 đã là
thực tại đang diễn ra. Ðêm 24 tháng 12 năm 1999, Cửa của Ðại
Năm Thánh tại Ðền Thờ Thánh Phêrô đã được mở ra,
tiếp đó là Cửa Năm Thánh tại Ðền Thờ Thánh Gioan
Lateranô, rồi tại Ðền Thờ Ðức Bà Cả, vào ngày đầu Năm
mới, và ngày 19 tháng Giêng,
Cửa Năm Thánh tại Ðền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành
được mở ra. Tôi nhớ thật rõ Biến cố cuối cùng nầy,
do bởi tính cách đại kết của nó.
2.
Trong mức độ Năm Thánh 2000 được khai triển, ngày qua ngày,
thế kỷ 20 được đóng lại phía sau chúng ta, và thế kỷ thứ
21 được mở ra. Theo những ý định của Chúa Quan Phòng, tôi
đã được sống trong thế kỷ khó khăn đang đi vào quá khứ,
và giờ đây trong năm mà tuổi đời của tôi đạt đến 80
("octogesima adveviens"), thì cần phải tự vấn xem đây có phải
là lúc để lặp lại với Ông Simêon lời thưa "Nunc dimittis"
(Lạy Chúa, xin hãy để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an!)
Ngày 13 tháng 5 năm 1981, ngày mưu sát Ðức Giáo Hoàng trong buổi tiếp kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô, Thiên Chúa Quan Phòng đã cứu tôi khỏi chết như một phép lạ. Ðấng là Chúa duy nhất của sự sống và sự chết, chính Ngài đã kéo dài thêm đời sống tôi; một cách nào đó, Ngài đã cho tôi một cuộc sống thứ hai. Kể từ giây phút đó, đời tôi thuộc về Ngài nhiều hơn nữa. Tôi hy vọng rằng Ngài sẽ giúp tôi nhận ra cho đến khi nào tôi phải tiếp tục việc phục vụ mà Ngài đã gọi tôi thực hiện vào ngày 16 tháng 10 năm 1978. Tôi xin Ngài hãy gọi tôi về với Ngài, khi nào ngài muốn. "Sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa... chúng ta là sở hữu của Chúa." (x. Roma 14,8). Tôi cũng hy vọng rằng bao lâu Thiên Chúa để cho tôi thi hành việc phục vụ của Phêrô trong giáo hội, thì bấy lâu Thiên Chúa nhân từ sẽ ban cho tôi những sức mạnh cần thiết cho công việc phục vụ nầy.
3. Như mọi năm, trong những ngày cấm phòng, tôi đều đọc Di Chúc tôi đã viết ra ngày 6 tháng III năm 1979. Tôi tiếp tục giữ y nguyên những quyết định trong di chúc đó. Ðiều mà bây giờ được thêm vào, và cả trong những lần cấm phòng tiếp theo, là suy tư của tôi về tình trạng chung khó khăn và căng thẳng đã ghi dấu thập niên 80. Nhưng từ mùa thu năm 1989, tình trạng nầy đã thay đổi. Thập niên cuối cùng của thế kỷ XX không còn có những căng thẳng trước đó nữa; điều nầy không có nghĩa là nó không mang đến những vấn đề và những khó khăn mới. Một cách đặc biệt, xin chúc tụng Thiên Chúa Quan Phòng vì thời kỳ được gọi là "thời chiến tranh lạnh" đã kết thúc mà không có cuộc xung đột nguyên tử dữ dằn, một nguy hiểm đã đè nặng trên thế giới trong thời gian trước đó.
4.
Ðứng nơi ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba "in medio
Ecclesiae" (giữa lòng Giáo Hội), một lần nữa tôi muốn nói
lên lòng biết ơn đối với Chúa Thánh Thần vì hồng ân cao
cả Công Ðồng Vaticanô II; cùng với toàn thể giáo hội --- và
nhất là với toàn thể hàng giám mục --- tôi cảm thấy mình
mang ơn Công Ðồng nầy. Tôi xác tín rằng trong thời gian dài
lâu nữa các thế hệ đến sau sẽ
còn múc lấy những sự phong phú mà Công Ðồng của thế kỷ XX đã phân phát tràn đầy cho chúng ta. Như là
vị giám mục đã tham dự vào biến cố Công Ðồng từ ngày
đầu tiên cho đến ngày cuối cùng, tôi muốn trao phó phần
gia tài to lớn nầy cho tất cả những ai đang
và sẽ được mời gọi thực hiện phần gia tài nầy
trong tương lai. Về phần mình, tôi cám ơn vị Chủ Chăn đời
đời vì đã cho phép tôi phục vụ cho công cuộc hết sức
cao cả nầy trong suốt những năm của triều giáo hoàng của tôi.
"In medio Ecclesiae, giữa lòng giáo hội"... từ những năm đầu tiên tôi phục vụ như một giám mục chính nhờ Công Ðồng mà tôi đã được cảm nghiệm sự hiệp thông huynh đệ của hàng giám mục. Như là linh mục của tổng giáo phận Cracovia, tôi đã cảm nghiệm được thế nào là sự hiệp thông huynh đệ của linh mục đoàn --- Công Ðồng đã mở ra một chiều kích mới của kinh nghiệm nầy.
5.
Có biết bao người tôi phải kể danh tánh ra nơi đây! Có lẽ
Thiên Chúa đã gọi đa số các vị nầy về với Ngài rồi!
--- phần những ai còn sống trên trần gian nầy, những lời của
Di Chúc nầy nhắc nhớ đến họ, tất cả và khắp mọi nơi, bất
luận họ đang sinh sống nơi đâu.
Trong
vòng hơn 20 năm thi hành công việc phục vụ của Phêrô "in
medio Ecclesiae" giữa lòng giáo hội, tôi đã cảm nghiệm
được sự cộng tác thân thiện và hết sức phong phú kết
quả của biết bao vị Hồng Y, Tổng giám mục, và Giám mục, của
biết bao Linh mục và biết bao người tận hiến --- những nam nữ tu sĩ --- và
cuối cùng của biết bao anh chị em giáo dân, trong Giáo triều,
trong Văn Phòng Tổng Ðại Diện của giáo phận Roma, và cả bên
ngoài những môi trường vừa nói.
Làm sao mà không ôm trọn trong ký ức đầy biết ơn tất cả các hàng giám mục trong thế giới, mà tôi đã được tiếp xúc trong chuỗi những cuộc viếng thăm Tòa Thánh "ad limina Apostolorum"! Làm sao không nhớ đến biết bao anh em kitô, không công giáo! Và vị Giáo Trưởng Do Thái tại Roma và đông số những vị đại diện của các tôn giáo không kitô! Và biết bao vị đại diện cho thế giới văn hóa, khoa học, chính trị, và thế giới các phương tiện truyền thông xã hội!
6.
Ðến gần mức cuối cùng của cuộc đời tôi trên trần gian,
tôi nhớ về lúc khởi đầu, nhớ đến Cha Mẹ tôi, nhớ đến
anh đến chị tôi (người chị mà tôi không biết, bởi vì người
chị nầy đã chết trước khi tôi được sinh ra), nhớ đến
giáo xứ Wadovice, nơi tôi đã được Rửa Tội, đến thành
phố tôi yêu mến, nhớ những người bạn cùng tuổi, những
bạn học nam nữ của trường tiểu học, trung học
và đại học, cho đến thời BaLan bị chiếm đóng, khi tôi
phải làm việc như người lao động, và sau đó tại giáo xứ
Niegowi... nhớ đến giáo xứ San Floriano tại Cracovia, đến việc
mục vụ nơi giới trí thức, đến môi trường sinh
sống... tất cả mọi môi trường sinh sống... ở Cracovia và ở
Roma... nhớ đến những người
đã được Chúa trao phó cho tôi một cách đặc biệt.
Với
tất cả mọi người, tôi muốn nói điều duy nhất nầy: "Xin
Thiên Chúa thưởng công".
In
manus tuas , Domine, commendo spiritum meum", "Trong tay ngài, lạy Chúa,
con xin phó thác hồn con".
A.D
Ngày 17 tháng III năm 2000
(bản dịch Việt ngữ của Ðặng Thế Dũng)