Phỏng Vấn ÐHY Gioan B. Phạm Minh Mẫn
Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Saigon
về Tương Lai mối tương quan giữa Giáo Hội
và Nhà Cầm Quyền Cộng Sản tại Việt Nam
Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines
Phỏng Vấn Ðức
Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Tổng Giáo
Phận Saigon, về Tương
Lai mối tương quan giữa Giáo Hội và Nhà Cầm Quyền Cộng Sản
tại Việt Nam.
(UCA
News 4/08/2004) - "Giáo hội Việt
Nam có thể phục vụ xã hội trong các lĩnh vực giáo dục và
xã hội, và thậm chí có thể truyền giáo trong một môi trường
"tự do có kiểm soát,": đó là nhận định của
Ðức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục thành
phố Saigon.
Ðức Hồng Y Mẫn, năm nay
70 tuổi, nói rằng trong một môi trường như tại Việt Nam, Giáo
hội cần phải "kiên nhẫn" và phải tìm kiếm những điểm
tương đồng với Nhà Nước trong các lĩnh vực mà Giáo hội
có thể hoạt động để phát triển xã hội.
Trong khi dự họp ở
Bangkok, Ðức Hồng y Mẫn đã nói chuyện với hãng tin UCA hôm
4/08/2004, về việc ÐTC bổ nhiệm
ngài làm hồng y, về tầm nhìn
của ngài về tổng giáo phận, về
phương pháp ngài thực hiện các sứ vụ của Giáo hội, và
về các mối quan hệ giữa Giáo hội và Nhà Nước Việt
Nam.
Kính mời quý vị và các bạn theo dõi cuộc phỏng vấn nầy do hãng tin UCA thực hiện tại Bangkok. Và nhân dịp xin giới thiệu công việc phục vụ của UCA NEWS với quý vị và các bạn:
UCA NEWS: Thưa
đức hồng y, ngài có đối thoại với Nhà Nước về việc
ngài được bổ nhiệm làm hồng y không?
Ðức Hồng Y Gioan
Baotixita Phạm Minh Mẫn:
Tôi đi bước trước đến gặp gỡ các viên chức Nhà
Nước để tìm hiểu điều gì đang diễn ra. Tôi đã nghe những
lời đồn về việc tôi được bổ nhiệm từ các linh mục của
tôi và các đức giám mục khác.
Tôi nói (với các viên
chức đó) rằng tôi nhận được tin bổ nhiệm này giống như
mọi người khác và không biết trước về điều này. Tôi
còn nói "hồng y" là một tước hiệu, không phải là
một trách nhiệm mới, không có gì thay đổi, ngoại trừ màu
sắc của phẩm phục.
Tôi cũng nói với
họ rằng tôi phải nhận tước vị đó. Thế rồi viên chức
đó bảo tôi viết thư cho thủ tướng để ông công nhận tôi
là hồng y. Lúc đó là ngày 1-10-2003, ba ngày sau việc bổ nhiệm.
Tôi bay trở về Saigon vào ngày hôm đó, và ngày hôm sau tôi
gặp mặt các nhà chức trách thành phố và họ đã chúc mừng
tôi. Họ hỏi tôi về việc thuyên chuyển tôi ra Hà Nội. Lúc
đó, tôi hiểu được Nhà Nước đã nghĩ rằng trở thành
hồng y đồng nghĩa với việc tôi phải chuyển ra Hà Nội. Họ
bảo tôi tuân theo bề trên (tức đức giáo hoàng) và chuyển
ra Hà Nội. Tôi nói tôi phải tuân thủ những gì tôi có thể
làm được, nhưng những gì tôi không thể làm được, thì
tôi không thể làm.
Một tuần sau đó, tôi đến
Rôma để dự lễ và Ðức Hồng y Crescenzio Sepe (tổng trưởng
Bộ Truyền giáo) nói với tôi rằng đức giáo hoàng vui mừng
khi lập một tòa hồng y thứ hai ở Việt Nam.
Hỏi: Thưa Ðức
hồng y, Với tư cách là hồng y, ngài có can đảm hơn để nói
thẳng ý kiến của mình không?
Ðáp:
Tôi không nghĩ là tôi sẽ dũng cảm hơn. Lâu nay tôi
luôn nói những gì là thật và công bằng, kể cả trước
khi trở thành hồng y. Tôi đã luôn luôn kêu gọi người Công
giáo góp phần vào việc phát triển của quốc gia dựa trên sự
thật, công lý và bác ái. Tuy nhiên, kể từ khi trở thành
hồng y, đã có nhiều người đến gặp tôi hơn, nhất là các
nhà ngoại giao.
Hỏi: Ngài đánh
giá như thế nào pháp lệnh tôn giáo mới, sẽ
có hiệu lực vào tháng 11 tới đây (năm 2004), thưa
đức hồng y?
Ðáp:
Pháp lệnh tôn giáo mới vẫn còn giữ cơ chế củ là
"xin-cho" đối với mọi thứ. Kiểu hệ thống này thay
đổi quyền tự do thành cho phép tự do. Tôi nói với Nhà
Nước nhiều lần rằng khi các nhà ngoại giao nước ngoài hỏi
tôi là tôi có đồng ý với họ là Việt Nam không có tự
do không, tôi nói: "Không! Việt Nam không có "quyền"
tự do, nhưng có tự do "trong sự cho phép". Ở đây
chúng tôi có tự do, nhưng phải được phép, bị hạn chế và
bị kiểm soát.
Tôi nói với Nhà
Nước rằng cái tự do mà người dân muốn có là lớn bằng
cái bàn. Nhưng cái tự do ở Saigon thì giống như một cái
đĩa trên cái bàn này, và ở những nơi khác thì chỉ bằng
cái tách. Ðó là một thực tế. Vì thế ---(thông qua pháp lệnh
mới này) --- họ cố làm cho các thứ cởi mở hơn. Nhưng tôi
vẫn nhận thấy có cùng một hệ thống. Chúng tôi phải đòi
hỏi và chờ đợi để có tự do.
Hỏi: Thưa
Ðức Hồng Y, Ðiều này ảnh hưởng như thế nào đến người
Công giáo và việc sống đức tin ở Việt Nam?
Ðáp:
Người Công giáo với tư cách là cá nhân không gặp
khó khăn nào trong việc đi nhà thờ và sống đạo của mình.
Nhưng Nhà Nước không công nhận một tổ chức tôn giáo như
là một cơ quan. Sống đức tin trong môi trường hiện nay là
rất khó. Chẳng hạn, ở trường học, dù là trường tiểu
học, trung học hay đại học, không phải tất cả, nhưng đa số học sinh có tính gian lận. Học sinh Công
giáo suy nghĩ về đức tin của mình như thế nào trong môi trường
này? Lại còn có quá nhiều tham nhũng trong công ty và cơ quan.
Người Công giáo sống như thế nào trong môi trường này? Ðây
là vấn đề lớn thách thức họ.
Hỏi: Sứ mệnh
chính của Giáo hội là rao giảng Tin mừng. Việc này có thể
thực hiện được trong một xạ hội chính
thức theo thuyết vô thần không, thưa Ðức Hồng Y?
Ðáp:
Tôi nói với giáo dân rằng có quá nhiều khó khăn và
tệ nạn xã hội trong xã hội. Họ và gia đình họ thôi cũng
không thể vượt qua những khó khăn này. Họ nên đoàn kết
lại (để truyền giáo). Hiện nay tôi đã thành lập một nhóm
các bác sĩ y khoa với khoảng 100 thành viên; một nhóm nghệ sĩ
Công giáo, gần 100; một nhóm doanh nhân Công giáo, vài trăm
người; một nhóm giáo viên Công giáo, vài ngàn người. Tôi
cũng sẽ tập họp những người Công giáo nằm trong số các
viên chức Nhà Nước đã được trúng cử.
Tôi hỏi họ là làm
người Công giáo trong môi trường hiện tại này như thế nào.
Tôi bảo họ nên bảo vệ sự thật, công lý và bác ái
trong công việc phát triển xã hội và đất nước. Họ có
thể làm điều đó như thế nào? Ðó là nhiệm vụ họ phải
khám phá. Ðây là truyền giáo.
Qua các dòng tu,
tổng giáo phận đã thành lập các hội truyền giáo tại
những vùng không có người Công giáo, thành lập các trường
học cho người tàn tật, trường dạy nghề, và trường mẫu
giáo. Chúng tôi còn có nhiều hoạt động "chui." Tôi
nói cho các viên chức nhà Nhà Nước biết về công việc
giúp đỡ những cô gái hành nghề mại dâm mà một số dòng
tu đã thực hiện. Các tu sĩ tập hợp những người phụ nữ
này lại, đưa họ về nhà, giúp những người mang thai sinh
con, nuôi những đứa trẻ đó và tìm việc làm mới cho những
phụ nữ này. Nhiều nhà dòng đã có một số ngôi nhà như
thế và Nhà Nước biết họ. Một dòng tu thậm chí đã thuê
một ngôi nhà của một viên công an.
Hỏi: Thưa
Ðức Hồng Y, Thách thức khó
khăn nhất của ngài là gì, và ngài đương đầu với những
thách thức đó ra sao?
Ðáp:
Một lần tôi đã hỏi khoảng 10 nghị sĩ Hoa Kỳ, những người
đến thăm tôi và hỏi tôi là họ có thể làm được điều
gì để giúp tôi không, chỉ cho tôi cách thay đổi quan niệm,
hay ý nghĩ của người dân. Và họ đã cười. Một nghị sĩ
Công giáo nói với tôi rằng "ngài nên cầu nguyện chăm
chỉ. Vì thế tôi đã yêu cầu họ cầu nguyện với tôi."
Ðể đối thoại ngài
nên tìm ra những ý tưởng chung, và đồng thời ngài cũng
phải thật kiên nhẫn.
Một khó khăn nữa
là phát triển quốc gia. Thách thức hệ
tại ở công việc giáo dục . Về phần tôi, tôi không thể
xây bệnh viện hay trường học, nên tôi đã lập ra một nhóm
thương gia Công giáo để thực hiện công việc như thế. Các
sứ vụ của chúng tôi phải được thực hiện theo đức tin
của chúng tôi để chỉ cho người Việt Nam thấy được Chúa
yêu thương họ.
Hỏi: Liên Hội
đồng Giám mục Á châu đang quan tâm về vấn đề gia đình. Những
thách thức nào đối mặt với gia đình ở Việt Nam, thưa
đức hồng y?
Ðáp:
Sau khi Việt Nam mở cửa, cả điều tốt và điều xấu đều
nhảy vào. Toàn cầu hóa tràn vào. Với toàn cầu hóa, các
bạn có "văn hóa sự chết," một đe dọa cho gia đình.
Nhiều bà mẹ đã viết thư xin tôi cầu nguyện cho gia đình họ,
bởi vì con cái của họ đang dính líu đến các tệ nạn xã hội.
Các bà mẹ khác viết thư cho tôi nói rằng con trai và con gái
của họ đã bị đưa vào các trại giam nhiều năm rồi.
Ở Saigon, cách đây
ba năm Nhà Nước đã có một danh sách 17,000 thanh niên nghiện
ma túy. Nhà Nước đã đưa họ vào các trung tâm xã hội, nhưng
các trung tâm này được quản lý giống như nhà tù. Hiện
nay không phải là 17,000 nữa, nhưng là 32,000 thanh niên
trong 15 trung tâm. Trong số đó, có
người Công giáo. Thành phố này hiện trông có vẻ là sạch
sẽ.
Vì nhiều thanh niên
tại các trung tâm này bị nhiễm HIV/AIDS, nên các trung tâm quyết
định đưa họ vào một trại. Vì trại này không có người
chăm sóc họ, nên Nhà Nước đã yêu cầu tôi phái các nữ
tu đến chăm sóc họ. AIDS là một vấn đề lớn, và số bệnh
nhân đã càng ngày càng tăng lên đến vài ngàn.
Tôi đã lập một ủy
ban mục vụ cho người nhiễm HIV/AIDS, nhằm tổ chức một cuộc
vận động chống AIDS và chăm sóc những người mắc căn bệnh
này. Ủy ban này đã tổ chức huấn luyện cho các tu sĩ và
giáo dân nhằm trang bị cho họ biết cách chăm sóc người bị
nhiễm HIV/AIDS trong thành phố. Cuộc vận động này nhằm hướng
đến hơn 120,000 gia đình, hay khoảng 600,000 người Công giáo
sinh sống trong 200 giáo xứ của tổng giáo phận. Chúng tôi cũng
dự định làm các đĩa CD nói về cách chăm sóc người bị
nhiễm HIV/AIDS và cách ngăn chặn việc lây nhiễm HIV, sẽ
được gởi đến cho khoảng 500 linh mục trong tổng giáo phận.
HIV/AIDS là một tệ
nạn xã hội, không phải là tệ nạn duy nhất. Tôi kêu gọi
các gia đình luôn tập trung cầu nguyện với nhau và tự bảo
vệ mình khỏi sự đe dọa của nền văn hóa sự chết này.
Hỏi: Thưa
Ðức Hồng Y, Tại sao ngài đã mời rất nhiều hồng y sang Việt
Nam?
Ðáp:
Lý do sâu xa là sự hiệp thông của Giáo hội, nhất là
ở châu Á. Lý do thứ hai là để mở rộng cửa hơn. Từ
năm 1975 (sau khi hai miền Nam-Bắc Việt Nam thống nhất), không có
vị giám mục nào, kể cả hồng y trong nước,
có thể mời các giám mục nước ngoài đến ở qua đêm
tại nơi ở của mình. Không có người nào! Vì thế trong năm
2002, tôi bắt đầu làm việc đó bằng cách mời Ðức Tổng
Giám mục Paul Josef Cordes, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng "Ðồng
Tâm" (Cor Unum) sang thăm Việt
Nam. Cuối năm ngoái (2003), tôi cũng mời các hồng y ở châu
Á đến dự lễ tạ ơn hồng y của tôi. Trước đây tôi phải
trình đơn thỉnh cầu. Nay tôi chỉ nói với họ rằng đây là
những gì tôi dự tính làm.
Hỏi: Thưa
Ðức Hồng y, Ngài có vẻ như lạc quan về tương lai của Giáo
hội ở Việt Nam. Có phải vậy không?
Ðáp:
Ðúng vậy!
Vừa rồi là bài phỏng vấn phỏng vấn Ðức Hồng Y Tổng Giám Mục Sài Gòn, do hãng tin UCAN thưc hiện, khi Ðức Hồng Y đến Bangkok họp, đầu tháng 8 năm 2004. Xin Hẹn gặp lại quý vị và các bạn.
(Ðặng Thế Dũng ghi lại theo bản tin của UCAN)