Bàn về cuộc Chiến hiện nay
giữa Do thái-Palestine
Prepared for Internet by Msgr Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines
Bàn về cuộc
Chiến hiện nay giữa Do thái-Palestine.
(Radio Veritas -
8/04/2002) - Trước hết, chúng ta cần nhớ lại rằng: những vụ
xung đột giữa Do thái (được Hoa kỳ ủng hộ) và Palestine (được
khối Ả rập giúp đỡ) đã xẩy ra từ hơn năm 50 năm nay,
nghĩa là từ lúc Do thái thành lập quốc gia, sau đệ nhị thế
chiến (1939-1945). Theo quyết nghị của LHQ (năm 1946), Do thái và
Palestine là hai quốc gia độc lập với biên giới rõ ràng. Nhưng
quyết nghị của LHQ không bao giờ được thi hành.
Khối Ả rập không thể chịu nổi sự hiện diện của một
quốc gia Do thái trong miền Trung Ðông, vì đây là một đe dọa
liên lỉ cho các nước trong vùng này. Tuy nhiên, mỗi lần khối
Ả rập gây chiến muốn đánh bật Do thái ra khỏi miền này,
đều bị thất bại nặng nề. Chiến tranh chớp nhoáng năm 1967,
Do thái chiếm miền Cisjordanie, và Gaza... và chiến tranh khủng khiếp năm 1975, Do thái
chiếm cả miền Sinai và len lỏi vào tận thủ đô Cairô của Ai cập, làm tê liệt các đài radar kiểm
soát. Ai cập là một quốc gia hùng mạnh hơn cả trong miền, đã
phải ký hòa ước với Do thái. Các quốc gia khác không thể
đương đầu với Do thái được.
Irak, Iran ...giầu có và hùng mạnh, chắc chắn không quên
gương thất bại của Ai cập. Hơn nữa Irak đã có bài học
"chiến tranh trừng phạt chớp nhoáng" cách đây 10 năm. Hơn
nữa, trong lúc này, Irak và Iran bị Hoa kỳ tố cáo ủng hộ các
nhóm khủng bố và cung cấp vũ khí cho Palestine.
Hoa kỳ không những cảnh cáo, nhưng cùng với Anh quốc
quyết định phải loại bỏ
Tổng Thống Saddam Hussein của Irak. Cũng trong những ngày này, Tổng
thống Hoa kỳ và Ngoại trưởng Do thái, ông Simon Peres, yêu cầu
Chủ tịch Arafat lên án khủng bố, nhưng không bao giờ ông làm.
Ngoại trưởng Hòa kỳ, ông Powell Collin đang trên đường đi
Trung Ðông để giàn xếp vần đề Do thái và Palestine. Trước
khi đến Giêrusalem, ông qua các nước Maroc, Ai cập, Jordanie,
Arabie Saudite (các quốc gia ôn hòa của Khối Ả rập) để tham
khảo ý kiến. Arabie Saudite đã đưa ra một số đề nghị
về hòa bình, để giải quyết vụ tranh chấp vô tận giữa
Do thái và Palestine, trong đó có việc công nhận và thiết lập
quan hệ ngoại giao với Do thái về phía các nước Khối Ả rập
và bảo đảm an ninh lãnh thổ Do thái, bên cạnh Quốc gia
Palestine độc lập. Sáng kiến của Arabie Saudite đã được Khối
Ả rập thảo luận tại Beyrouth trong tuần vừa qua. Ngoại trưởng
Hoa kỳ cũng gặp Thủ tướng Tây ban nha, vì Tây ban nha đang giữ
chức chủ tịch Khối Liên hiệp Châu Âu trong lục cá nguyệt
này.
Sau những cuộc tham khảo, Ngoại trưởng Hoa kỳ sẽ tới Giêrusalem để thảo luận với Chính phủ Do thái. Trước khi lên đường từ Hoa kỳ, ngoại trưởng tuyên bố như sau: "Trong chương trình không có mục gặp gỡ và thảo luận với Chủ tịch Arafat". Trong những ngày vừa qua Tổng thống Bush tuyên bố: "Ông Arafat đã làm tôi thất vọng". Trong bài phỏng vấn dành cho nhật báo Le Figaro của Pháp, được tờ "Tin Chiều" (Corriere della sera) (07/04/2002) của Ý thuật lại, Bộ trưởng Ngoại giao Do thái tuyên bố: "Ông Arafat là người bạn của chúng tôi, nhưng ông đã không cư xử đúng như vậy. Ông đã được dân Palestine bầu lên, chúng tôi không thay đổi được; nhưng ông phải tôn trọng các hòa ước đã ký kết, chiến đấu chống khủng bố. Mỗi lần chúng tôi tìm hiểu lập trường của ông, đều phạm một lỗi lầm không thể chấp nhận được. Thí dụ, trong lời kêu gọi của ông, ông ước mong có "triệu triệu vị tử đạo cho Giêrusalem". Chúng tôi biết rõ rằng: không bao giờ ông ra lệnh cho 30 ngàn cảnh sát của ông chiến đấu chống khủng bố. Tướng Zinni (đại diện Hoa kỳ trong cuộc đàm phán với Do thái-Palestine) yêu cầu ông tuyên bố đình chiến cách rõ ràng, ông đã không làm".
Những lời
tuyên bố của các nhân vật
quan trọng trong cuộc, có
thể định đoạt số phận của lãnh tụ Arafat. Xem ra Hoa kỳ và
chính Thủ tướng Do thái muốn thảo luận để chấm dứt chiến
tranh với cấp lãnh đạo mới, ôn hòa hơn, vì
không còn tín nhiệm ông Arafat nữa. Báo chí cũng viết:
Ðáng lẽ Ông Arafat đã phải ký hiệp ước hòa bình với Do
thái, thời Tổng Thống
Clinton và Thủ tướng Do thái, ông Barak, thuộc Ðảng Lao động,
vì có lợi nhiều cho Palestine; nhưng ông đã không ký,
mà muốn trì hoãn để đòi thêm hơn nữa. Thủ tướng
Sharon (thuộc Ðảng Bảo thủ cực hữu, là người đã muốn
loại bỏ Ông Arafat cách đây 20 năm trong lúc chiến tranh với
Liban, và xem ra không đội trời chung với ông Arafat được.
Trong những ngày này, quân đội Do thái cô lập Ông Arafat tại
Ramallah, như một người bị quản thúc tại gia, không cho tiếp
xúc với phái đoàn Liên hiệp Châu Âu.
Ông Arafat và các
đồng minh Khối Ả rập của Ông (gồm 22 quốc gia với trên 100
triệu dân cư) biết rằng: không
thể trực tiếp đương đầu với Do thái được, một quốc
gia nhỏ bé với 6 triệu dân, nhưng lại có một lực lượng
quân sự rất hùng hậu và được trang bị rất đầy đủ bằng
các vũ khí tối tân nhất: 600 ngàn quân (1/10 dân số) ---
trong số này có 425 ngàn quân trù bị---. Quân đội Do Thái
được trang bị bằng 3,900 xe tăng - 9,600 xe thiết giáp -
435 phi cơ chiến đấu tối tân - 130 trực thăng - và khoảng 100
hỏa tiễn.
Trong cuộc hành
quân từ 29 tháng 3 năm 2002, Do thái ra lệnh động viên 20 ngàn
quân trù bị. Con số binh sĩ đang chiến đấu trong lúc này gồm
có: 130 ngàn bộ binh - 36 ngàn không quân - và 6,500 thủy quân.
Palestine không có quân đội chính qui, chỉ có lực lượng
cảnh sát, gồm khoảng từ 35 đến 45 ngàn, được trang bị bằng
loại súng thường và liên thanh.
Trong những ngày
tấn công vũ bão của Do thái để tiêu diệt các ổ khủng bố
và tịch thu vũ khí bất hợp pháp của Palestine, không một quốc
gia hội viên trong Khối Ả rập tình nguyện gửi quân giúp
Palestine, ngoài những lời tuyên bố hứa hẹn của chủ tịch
Gedaffi của Libia. Ðể tiêu diệt Do thái, Ông Arafat và các nhóm
đồng minh của Ông chỉ có phương tiện duy nhất: đó là khủng
bố bừa bãi tại các thành phố, nhằm giết hại người dân.
Vì không thể tha thứ những vụ khủng bố tàn nhẫn như vậy
được, Do thái bắt buộc phải trả đũa bằng các vụ oanh tạc
lãnh thổ Palestine và trong những ngày này bằng những cuộc
hành quân qui mô và toàn diện để diệt trừ khủng bố, bảo
đảm an ninh cho người dân. Nhờ hành động cương quyết diệt
trừ khủng bố này, uy tín của Thủ tướng Sharon, trước kia
đã bị sụt tới 44%, và nay lên đến 77%.
Ðứng trước
chiến tranh mỗi ngày mỗi trở nên dữ dội hơn, LHQ hầu như
bất lực. Khối Liên hiệp Châu Âu bị Do thái coi thường.
Trong những ngày vừa qua, Thủ tướng Sharon không cho phái đoàn
Liên hiệp Châu Âu tiếp xúc với Chủ tịch Arafat. Trước tình
hình nguy ngập và bế tắc này, Ðức Gioan Phaolô II nói: "Không
một người nào được phép yên lặng hay lãnh đạm trước
những đau khổ của các dân tộc này". Ngài đã lên tiếng
nhiều lần kêu gọi hai phe tranh chấp đình chiến, ngồi vào bàn
hội nghị. Trong những ngày vừa qua, Tòa Thánh hoạt động ráo
riết trong lãnh vực ngoại giao, và
yêu cầu Hoa kỳ can thiệp gấp. Tổng Thống Bush lên tiếng
yêu cầu Do thái rút quân khỏi các lãnh thổ chiếm đóng.
Thủ tướng Sharon xem ra không chấp nhận, ít ra lúc này,
lời kêu gọi khẩn cấp của Hoa kỳ. Ông vẫn tiếp tục
các cuộc hành quân, để có thể thanh toán các nhóm khủng
bố. Một lần nữa, Tổng Thống Bush yêu cầu rút quân tức
khắc. Do thái vẫn tiếp tục đường lối của mình. Ðể thuyết
phục Do thài, Tổng Thống Bush và Thủ tướng Anh Tony Blair tuyên
bố: "Do thái phải biết rằng: chúng tôi là người bạn tốt
nhất của Do thái". Hy vọng Thủ tướng Sharon không bỏ qua lời
kêu gọi này.
Ông Simon Peres, Bộ
trưởng ngoại giao Do thái, trong bài phỏng vấn dành cho Le
Figaro, tuyên bố: "Cuộc hành quân kéo dài hai hay ba tuần, kể
từ lúc khởi sự (29/03/2002). Chúng tôi đang làm cái đáng
lẽ Ông Arafat đã phải làm" (nghĩa
là diệt trừ khủng bố). Cho
tới lúc này, Do thái đã chiếm hầu hết các thành phố lớn
và tin sau cùng của Ðài truyền hình Ý (sáng thứ hai 08/04/2002),
cho hay: quân đội Do thái tấn công vào Ðền thờ Giáng sinh
tại Betlem, trong đó có dân quân Palestine trú ẩn mang theo cả
vũ khí. Tu viện các Cha Phanxicô, canh giữ Thánh địa kế bên,
cũng bị liên lụy.
Trước tình hình
nguy ngập này, loài người xem ra bất lực. Nhưng đối với ÐTC,
vũ khí sắc bén hơn cả đem lại hòa bình vẫn là lời cầu
nguyện. Thứ năm 04/04/2002, trong bức thư gửi cho Ðức Hồng Y
Angelo Sodano, Quốc vụ khanh, để xin huy động các Giám mục trên
thế giới Công Giáo, cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình tại
Trung Ðông, ÐTC viết như sau:
"Ở đâu vũ khí và ngoại giao thất bại, thì chỉ mình Thiên
Chúa có thể thay đổi tâm hồn con người được mà thôi,
nhất là tâm hồn của những người có trách nhiệm và quyền
hành, để thực hiện những
bước cần thiết, cho dù phải trả giá cao, để đưa các phe
tranh chấp đến những thỏa ước công bình và xứng đáng
phẩm giá cho mọi người" (L'Osservatore
Romano 6/04/2002 ).
Nhìn lại dĩ vãng, ngày cầu nguyện tháng 10 năm 1986 tại Assisi đã làm chế độ cộng sản Trung-Ðông-Âu sụp đổ nhanh chóng, không ai dám nghĩ tới. Ngày cầu nguyện tháng 3 năm 1993, cũng tại Assisi, để chấm dứt chiến tranh diệt chủng tàn bạo tại miền Balcan. Chiến tranh đã chấm dứt. Quân đội LHQ bảo vệ an ninh. Dân chúng được sống bình an, tuy còn nhiều tàn phá, đổ nát. Sau cuộc khủng bố dữ dội tại New York và Washington, một lần nữa ÐTC huy động ăn chay (14/12/2001) và cầu nguyện với đại diện các Giáo hội Kitô và các Tôn giáo thế giới ngày 24 tháng Giêng năm 2002 tại Assisi. Từ đó, không ai dám hô hào "thánh chiến, chiến tranh tôn giáo", để che đậy chính sách khủng bố của mình. Chúng ta hy vọng: chiến tranh Do thái-Palestine, với lời cầu nguyện của toàn Giáo hội, sẽ chấm dứt trong tương lai gần đây, để hai dân tộc được sống trong bình an mỗi người trong quốc gia riêng của mình.