5 năm sau khi Mẹ Têrêsa qua đời
trong cảnh khó nghèo giữa các
người nghèo khó nhất của Calcutta
Prepared for Internet by Msgr Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines
5 năm sau khi
Mẹ Têrêsa qua đời trong cảnh khó nghèo giữa các người
nghèo khó nhất của Calcutta.
(Radio Veritas
Asia - 6/09/2002) - Mùng 5 tháng 9 năm 1997, cách đây đúng 5 năm,
Mẹ Têrêsa thành Calcutta, sáng lập Dòng Các Nữ tu Thừa sai
bác ái, qua đời trong cảnh khó nghèo giữa các người nghèo
khó nhất của Calcutta, thành phố đã được liên kết với
tên Mẹ và với sứ mệnh
tông đồ của Mẹ.
Mẹ qua đời
trong cảnh nghèo khó giữa những người nghèo khó nhất trên
thế giới này. Mẹ chỉ để lại làm gia tài một Ảnh Thánh
giá và một tràng hạt đã bị mòn đi nhiều; đây là tràng
hạt mà Mẹ luôn luôn cầm trong tay, để cầu nguyện, bất cứ
ở nơi nào, bất cứ lúc nào, cả lúc Mẹ gặp các Vị lãnh
đạo các quốc gia, hay Cộng đồng quốc tế, cả lúc Mẹ lãnh
Giải thưởng Nobel về hòa bình năm 1979 tại Stockolm, thủ đô
Thụy điển. Trước khi qua đời, Mẹ còn xin tháo bỏ đôi giép
(sandales) đơn sơ và cũ kỹ, để Mẹ có thể đến trước mặt
Chúa không giầy, không giép, trong sự khiêm tốn tuyệt
đối của một trong các người nghèo khó nhất trên thế
giới này.
Mẹ qua đi trong
khó nghèo vật chất, nhưng đã để lại một gia tài thiêng
liêng vô giá. Các người thừa kế gia tài này không phải
chỉ là những ai đã sống bên cạnh Mẹ và thi hành cũng một
sứ mệnh của Mẹ. Các người thừa kế gia tài của Mẹ có
thể nói được là tất cả mọi người chúng ta, không phân
biệt có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, bởi vì tất
cả chúng ta, không trừ một ai cả, đều được mời gọi nhìn
nhận khuôn mặt của Chúa Kitô nơi dung mạo của tất cả những
ai bị đau khổ. Nhân loại đau khổ kêu cứu và chất vấn lương
tâm mỗi một người trong chúng ta.
Thật là một
gương mù hết sức lố bịch, nếu chúng ta nghĩ đến Hội nghị
thượng đỉnh vừa qua tại Johannesburg. Trong lúc người dân đói
khổ, không cơm ăn, không nước uống, các phái đoàn hùng
hậu của các quốc gia tham dự Hội Nghị, sống tại các khách
sạn bốn sao, năm sao, với
những thực phẩm hảo hạng, cả rượu
"champagne" được chở
từ các nước Tây phương đến Johannesburg, để thỏa mãn khẩu
vị của các phái đoàn trong
10 ngày Hội nghị thượng đỉnh. Trước hội nghị, nhà cầm quyền
Nam phi ra lệnh quét sạch các người hành khất khỏi thành phố.
Các phái đoàn không dám viếng thăm vùng ngoại ô, xóm nhà
lá, ổ chuột, nơi các người nghèo sống chui rúc, thiếu thốn
mọi dịch vụ vệ sinh. Cảnh Lagiaro nghèo khổ, bệnh hoạn, nằm
trước cửa nhà người hộ phú chờ đợi những mụn bánh
rơi rớt từ mân cao cỗ đầy... vẫn tiếp diễn hằng ngày trên
thế giới văn minh này, một thế giới
vẫn tự phụ tiến bộ về mọi phương diện, nhưng đầy
bất công, ích kỷ, trục lợi...
Chúng ta có
thể nhắc lại nơi đây lời Mẹ Têrêsa trả lời cho một phóng
viên báo chí đến quan sát công việc của Mẹ tại Calcutta. Thấy
Mẹ làm những công việc ghê tởm: cúi mình trước những
người hấp hối, người phong cùi, ông nói với Mẹ: "Nếu
có ai cho tôi một triệu Mỹ kim đi nữa, tôi cũng không có
can đảm làm những việc ghê tởm như vậy".
Mẹ trả lời: "Tôi không làm vì tiền bạc. Tôi làm vì
tôi nhìn thấy khuôn mặt của Chúa đau khổ nơi anh chị em tôi".
Khẩu hiệu được viết khắp nơi tại các cơ sở của Mẹ là
chính lời Chúa Giêsu nói trên Thánh Giá: "Ta khát": Ta khát
tình yêu! Ðây là cái Mẹ Têrêsa
và các con cái của Mẹ đang ban phát cho nhân loại đau khổ, bị
loại ngoài lề xã hội.
Ðể biểu lộ
lòng biết ơn Mẹ, vị đại ân nhân không những của Calcutta,
của Ấn độ mà thôi, nhưng của cả nhân loại đau khổ, ngày
13 tháng 9 năm 1997, Chính phủ đã tổ chức lễ nghi an táng hết
sức long trọng, với sự tham dự của nhiều vị quốc trưởng
và thủ tướng trên thế giới. Quốc táng như vậy chỉ dành
cho lãnh tụ Mahatma Gandhi, vị Anh hùng của nền độc lập Dân tộc
mà thôi. Trong ngày lễ an táng Mẹ Têrêsa, Ấn độ như ngừng
mọi hoạt động để cùng nhau hướng về Calcutta và nói lên
"lời cảm ơn" Vị Nữ tu của Giáo hội công giáo, đã hy
sinh suốt cuộc đời cho các người nghèo khổ nhất trong các
người nghèo khổ. Người dân Ấn độ không phân biệt tôn
giáo: Ấn giáo, Hồi giáo, Kitô giáo đều nghiêng mình trước
thi hài của Vị Nữ tu nầy, nhỏ
bé về thể xác, nhưng là
một vĩ nhân trước nhân loại và trước Thiên Chúa.
ÐTC Gioan
Phaolô II biết Mẹ từ lâu và đã viếng thăm cơ sở của Mẹ
tại Calcutta trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Ấn độ tháng
hai năm 1986. ÐTC đã cử ÐHY Angelo Sodano, Quốc Vụ Khanh, làm Ðặc
sứ của ngài, chủ tế thánh lễ an táng Mẹ Têrêsa. Và chính
ÐTC, theo lời thỉnh cầu của nhiều Giám mục và giáo dân trên
thế giới, đã ban phép làm án phong Chân phước cho Mẹ trên
cấp giáo phận, sau hai năm qua
đời, thay vì 5 năm theo luật ấn định. Công việc được
khởi sự ngày 26/07/1999, và ngày
Lễ Ðức Mẹ linh hồn và xác lên trời năm 2001 vừa
qua, tất cả các hồ sơ đã được Ðức TGM Calcutta chuyển
về Bộ Phong Thánh ở Roma. Bộ
Phong Thánh đang xúc tiến nhanh chóng, để trong thời gian gần
đây, Mẹ Têrêsa được cất nhắc lên danh dự bàn thờ. Dĩ
nhiên người dân, Công giáo hay ngoài Công giáo, vẫn coi Mẹ
là Thánh, ngay từ lúc còn sống và mộ của Mẹ tại Calcutta
trở nên nơi hành hương và cầu nguyện hằng ngày. Nhưng để
được tôn kính công khai, sự thánh thiện của Mẹ cần
được Giáo hội chính thức công nhận và tuyên bố.
Có người hỏi:
Mẹ Têrêsa đã làm những gì đặc biệt?
Mẹ trả lời luôn luôn bằng lời này: "Cái chúng tôi
làm chỉ là một giọt nước trong Ðại dương, nhưng nếu chúng
tôi không làm thì Ðại dương thiếu đi một giọt nước".
Trong dịp khác Mẹ trả lời: "Nhưng tôi có làm gì đặc biệt đâu".
Ngày nay gia
đình tinh thần của Mẹ Têrêsa nguyên ngành nữ mà thôi có
khoảng 4,500 Nữ tu huật động trong gần 700 nhà,
rải rắc tại 127 quốc gia. Bề trên Tổng quyền Dòng Các
Nữ Tu thừa sai bác ái, do Mẹ thiết lập ngày 7/10/1950 (Lễ kính
Ðức Maria rất thánh Mân côi) là
Nữ Tu Nirmala Joshi, từ
Ấn giáo trở lại Công giáo. Ðược hỏi: "Từ ngày Mẹ
qua đời, những gì đã thay đổi trong 5 năm nay, Vị Tổng phụ
trách trả lời cách hết sức đơn sơ:
"Không có gì thay đổi cả, bởi vì các người nghèo
luôn luôn ở giữa chúng
tôi và Mẹ chỉ xa cách chúng tôi về thể xác mà thôi. Chúng
tôi vẫn tiếp tục làm công việc Mẹ đã dạy chúng tôi bằng
gương sáng của Mẹ. Chúng tôi phục vụ các người nghèo
khổ, vì nơi họ chúng tôi
nhìn ra chính Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu chúng tôi phục vụ nơi
các người nghèo là chính Chúa Giêsu
chúng tôi tôn thờ trong Thánh Thể. Vì lý do này chúng
tôi là những người chiêm niệm trong hành động". Cũng nên nhắc lại: Mỗi ngày, mỗi Nữ tu thừa
sai bác ái chầu Thánh Thể một giờ. Chính đây là sức sống,
sức mạnh và thành công của các hoạt
động của Hội Dòng. Mẹ Têrêsa thường nhắn nhủ con
cái Mẹ như sau: "Thì giờ trước Nhà Tạm với Chúa không
phải là thì giờ mất đi".
Sau khi Mẹ qua
đời, Dòng Nữ tu thừa sai bác ái đã trải qua cả kinh nghiệm
của Phúc Tử đạo. Ðây là điều
Mẹ vẫn ước ao cho chính mình. Sáu Nữ tu của Dòng đã bị sát
hại năm 1998 tại Yemen và năm
1999 tại Siera-Leone. Sơ Nirmala Joshi nói: "Chúng tôi rất
đau đớn, nhưng đồng thời chúng tôi hãnh diện và cảm tạ
Chúa, bởi vì Người đã ghi dấu Hội Dòng chúng tôi bằng
máu của các vị tử đạo, dù chúng tôi biết mình không xứng
đáng với ơn lạ lùng này. Chính Mẹ Têrêsa đã cầu xin ơn
tử đạo, để hiến tất cả cho Giáo hội. Cũng vì lý do này
chúng tôi biết rằng: Mẹ vẫn tiếp tục nâng đỡ và theo dõi
các bước đi của chúng tôi. Sáu Nữ tu bị sát hại đã
có kinh nghiệm về đói khát, mệt nhọc, bệnh tật, bị đe
dọa tình mạng và chế nhạo... Các chị em này đã thấy những
tàn bạo bạo vây chung quanh mình, đã thấy sự chết trước
mắt: cái chết của những anh chị em mình và của biết bao người
vô tội. Các chị em này không sợ chết và hô lớn tiếng
xin đừng giết những người đã sát hại chị em mình, bởi
chính Chúa Giêsu đã dạy tha thứ không phải một lần, nhưng
bẩy mươi bẩy lần bẩy.
Chính Mẹ Têrêsa đã soạn ra những lời tổng kết bí quyết sống tình bác ái như sau: "Thành quả của yên lặng là cầu nguyện - Thành quả của cầu nguyện là đức tin - Thành quả của đức tin là tình yêu - Thành quả của tình yêu là phục vụ - Thành quả của phục vụ là hòa bình". Bí quyết vắn tắt trên đây luôn luôn được kèm theo lời nguyện: "Lạy Chúa, xin làm cho chúng con xứng đáng phục vụ các người nghèo".