Nhìn lại các chuyến viếng thăm
của Ðức Gioan Phaolô II tại Ba lan
trong 24 năm Triều Giáo Hoàng
(từ 1978 đến 2002)
Prepared for Internet by Msgr Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines
Nhìn lại các
chuyến viếng thăm của Ðức Gioan Phaolô II tại Ba lan trong 24 năm
Triều Giáo Hoàng.
(Radio Veritas
Asia - 15/08/2002) - Trong các nước trên thế giới đã được
Ðức Gioan Phaolô II viếng thăm, Ba lan là quốc gia được viếng
thăm nhiều lần hơn cả. Chuyến viếng thăm trong những ngày từ
16 đến 19/08/2002 là chuyến viếng thăm Balan lần thứ tám của
ÐTC Gioan Phaolô II. Việc ÐTC viếng thăm nhiều lần như vậy không
gây nhạc nhiên cho ai cả, bởi vì Ba Lan là quê hương của ngài.
Và chính nhờ các chuyến viếng thăm này, nhiều quan sát viên
quốc tế , cả các nhà chính trị lỗi lạc trên thế giới, đều
công nhận tình hình tại các nước Trung-Ðông-Âu dưới chế
độ cộng sản đã thay đổi trong những năm từ 1989 đến
1991. Các quốc gia thuộc khối cộng sản Liên xô đã tan rã và
trở thành các quốc gia độc lập và đầy đủ chủ quyền.
Ngoài Ba lan,
Pháp là quốc gia được viếng thăm tới sáu lần. Ðối với
ÐTC Gioan Phaolô II, Pháp giữ vai trò rất quan trọng và là một
trong các quốc gia Châu Âu đã cung cấp cho Giáo hội hoàn cầu
nhiều nhà truyền giáo và nhiều vị thánh thời danh. Nhưng Giáo
hội Pháp bị tục hóa nhiều, cần phải trở về nguồn gốc
Kitô của mình. Trong chuyến viếng thăm đầu tiên tại Pháp năm
1980, giảng trong Thánh lễ tại sân bay cũ "Le Bourget" (ngoại
ô Paris), ÐTC đặt câu hỏi này: "Hỡi nước Pháp, ngươi đã
làm gì đối với Phép Rửa tội của ngươi?". Ai cũng biết
rằng: Nước Pháp được tước hiệu là "Trưởng nữ của
Giáo hội". Câu hỏi trên đây đáng suy nghĩ nhiều.
Không kể
Ba lan và Pháp, Mexicô cũng là quốc gia được ÐTC viếng
thăm tới 5 lần. Lần cuối cùng sau Ngày QTGT tại Toronto. Mexico
còn là quốc gia được Ðức Gioan Phaolô II viếng thăm đầu
tiên trong Triều Giáo Hoàng của ngài: tháng Giêng năm 1979,
chỉ ít tháng sau khi được bầu làm Vị Kế nghiệp Phêrô.
Nhờ các chuyến viếng thăm này, tình hình chính trị tại Mexico
đã hoàn toàn thay đổi: từ một chính quyền thù địch, bách
hại Giáo hội Công giáo, đi đến một chính quyền có cảm tình
và cộng tác. ÐTC viếng thăm
Mexico nhiều lần, bởi vì
Mexicô là quốc gia có con số Công giáo cao hơn cả tại Châu
Mỹ: 92,5% và Mexico giữ một vai trò rất quan trọng trong việc
tái rao giảng Tin Mừng tại Châu lục này. Hơn nữa Ðền thánh
Ðức Mẹ Guadalupe của Mexico là điểm hành hương thu hút hằng
năm trên 30 triệu người hành hương đến từ các nước Châu
Mỹ. Guadalupe là trung tâm nuôi dưỡng lòng sùng đạo bình dân
(rất thịnh hành nơi các thổ
dân) và đức tin Công giáo. Văn kiện Hậu-Thượng Hội
Ðồng về Châu Mỹ đã được công bố tại Ðền Thánh này.
Ðây là một cử chỉ mang ý nghĩa sâu xa: "phú thác công
việc tái rao giảng Tin Mùng cho Ðức Mẹ Guadalupe, Ngôi Sáng đã
hướng dẫn Châu lục này từ hơn năm thế kỷ nay".
Nhìn lại các
chuyến viếng thăm của ÐTC tại Ba lan. Ngài đã nói những gì
với các người đồng hương của ngài?
(1) Trong chuyến
viếng thăm thứ nhất (từ 6-đến 10/06/1979), được thực hiện
sau 9 tháng làm Giáo Hoàng, diễn văn Ðức Gioan Phaolô II
được coi là diễn văn lịch sử, như
"Phép Thêm sức của Quốc gia", (bởi vì Ba lan mới mừng
kỷ niệm một ngàn năm Phép Rửa tội, một kỷ niệm đã
được chuẩn bị trong 10 năm). Trong diễn văn này, Ðức Karol
Wojtyla mời gọi các người
đồng hương của ngài "đừng li khai khỏi Chúa Kitô", đồng
thời nhắc lại trách nhiệm dân sự của Quốc gia Ba lan, bằng
việc kêu gọi trở về nguồn gốc Kitô của mình.
Các quan sát
viên quốc tế giải thích lời cảnh cáo này như một
vụ tấn công khá rõ ràng chống lại chế độ cộng sản. Trái
lại mục tiêu của ÐTC nhằm là chiều kích thiêng liêng và tôn
giáo của con người, của dân tộc.
(2) Chuyến viếng
thăm thứ hai (16-23/06/1983) đến vào lúc Ba lan bị đảo lộn.
Sau cuộc đảo chính của Tướng Jaruzelski (theo chỉ thị của Ðiện
Cẩm Linh) tháng 12 năm 1983, trên thực tế lệnh giới nghiêm
được ban hành trong cả nước. Các phe chống đối đều bị đàn
áp và bắt giam. Công đoàn Solidarnosc (thành lập năm 1980) bị
đặt ngoài vòng pháp luật. Lech Walesa, lãnh tụ Công đoàn bị
quản thúc tại gia. ÐTC đã có ý định đến Gdansk (Danzig, mạn
bắc) để gặp lãnh tụ công đoàn; nhưng sau cùng ngài phải
thay đổi lộ trình: thay vì
đi Gdansk, ngài đã đi Zakopane (mạn nam), trên miền núi Tatra.
Ðây là chuyến ra đi, xét về phương diện chính trị, mang
nhiều viễn tượng. Khi ngài đến miền nam, dân chúng hoan hô,
nhưng đồng thời họ cũng đả
đảo chế độ đàn áp. Tại Nowa Huta (thành phố kỹ nghệ do
chế độ thiết lập năm 1949, cách
Krakow (Cracovia) chừng 10 cây số, ÐTC làm phép nhà thờ kính
thánh Maximiliano Kolbe. Lúc còn là HY TGM Cracovia, chế độ không
cho xây cất nhà thờ, nhưng hằng năm Ðêm Lễ Giáng sinh, ngài
vẫn đến đây để cử hành thánh lễ ngoài trời cho dân
chúng.
(3) Trong chuyến
viếng thăm thứ ba (8-14/06/1987), tuy chế độ cộng sản vẫn cầm
quyền, Ðức Gioan Phaolô II đã đến Gdansk gặp ông Lech Walesa,
lãnh tụ Công đoàn Solidarnosc. Chuyến ra đi này mang nhiều ý
nghĩa chính trị. Solidarnosc vẫn còn bị đặt ngoài pháp luật, nhưng
luồng gió tự do thổi mạnh hơn lúc nào hết. Việc ÐTC cử
hành thánh lễ ngay tại Gdansk, cái nôi của Solidarnosc, làm cho
luồng gió này trở nên không thể ngăn chặn được nữa.
Giảng trong thánh lễ, ÐTC đã dùng những lời lẽ rõ ràng
như ban ngày: "Nhân danh của tương lai và của con người, cần
phải hô lên lời này: Solidarnosc (tình liên đới). Sau đó,
tại Tòa Giám mục Gdansk, ÐTC đã tiếp riêng ông Lech Walesa, lãnh
tụ của Công đoàn đã bị giải tán.
(4) Chuyến viếng
thăm thứ bốn (1-9/06/1991), được thực hiện ngay sau khi chế
độ cộng sản Trung-Ðông-Âu sụp đổ và có thể là chuyến
viếng thăm khó khăn hơn ba chuyến trước đây lúc chế độ
còn cầm quyền. Lúc này đây, Ðức Krol Wojtyla không còn
phải lên tiếng chống đối chế độ độc tài, nhưng ngài nhìn
thấy một thù địch nguy hiểm hơn: thuyết tục hóa, phát xuất
bởi giải thích sai lầm về tự do. ÐTC căn dặn các người
đồng hương, sau khi thoát ách nô lệ của chế độ cộng sản,
đừng để mình rơi vào ách nô lệ của nền luân lý trụy
lạc và của lạm dụng tự do. Ngài nhấn mạnh: "Chúa Kitô
đã giải thoát chúng ta, để chúng ta được tự do".
(4b) Cũng năm
1991 (từ 13-20/08/1991), ÐTC trở lại Ba lan một lần nữa để
chủ tọa Ngày quốc tế giới trẻ, được tổ chức tại
Czestochowa. Như vậy trong năm 1991 ngài trở về Ba lan hai lần và
lần này coi như là chuyến viếng thăm thứ bốn. Trước Ðền
thánh quốc gia kính Ðức Mẹ tại Czestochowa, Quan Thầy Ba lan, từng
trăm ngàn thanh niên đến đây để cầu nguyện với Ngài. Ðây
là lần thứ nhất các thanh niên thuộc khối Liên xô được
đặt chân trên đất tự do và tham dự Ngày QTGT.
Nhưng cùng với
việc mở biên giới, mọi người được tin về những rối
loạn tại Moscowa và về việc truất phế ông Mikhail Gorbaciov (người
đã có công "nhân đạo hóa" chế độ cộng sản tại Liên
xô và mở một con đường mới với thế giới tự do".
Sau Ngày QTGT tại
Czestochowa, ÐTC lên đường đi Budapest, viếng thăm Hungari. Ngoài
Ba lan, Hungari là một trong các quốc gia đầu tiên thuộc khối
Liên xô được ÐTC viếng thăm, sau khi bức tường Berlin bị
sụp đổ. (Tháng tư năm 1990, ÐTC đã viếng thăm Tiệp khắc,
nhưng chỉ là chuyến viếng thăm chớp nhoáng và lúc đó Tiệp
khắc vẫn còn là một nước, chưa chia thành hai).
Cũng nên
nhắc lại: Tuy sống dưới chế độ cộng sản, Hungari tương
đối là quốc gia có một nền kinh tế khả quan hơn các nước
khác. Số người công giáo tại đây cũng đông đảo, chiếm
khoảng 70%. Hungari đã cùng với Ba lan và Cộng hòa Tchèque
được gia nhập Khối Nato. Hungari cũng như Ba lan đã xin gia nhập
Liên hiệp Châu Âu.
(5) Trong chuyến
viếng thăm thứ năm (20-22/05/1995), tuy đến Ba lan, nhưng ÐTC nhằm
Cộng hòa Tchèque. Lần này trong ba ngày ngài viếng thăm ba thành
phố Ba lan giáp giới Cộng hòa Tchèque. Ngày 21/04/1990, Ðức Gioan
Phaolô II đã viếng thăm "chớp nhoáng" Tiệp khắc (lúc đó
chưa chia thành hai nước). Viếng thăm ba thành phố giáp giới
để chuẩn bị và chờ đợi đến lúc Praga
thủ đô cộng hòa Tchèque được hoàn toàn thoát khỏi
những áp lực của cựu Liên xô. Lời ÐTC nói lên tại ba
thành phố giáp giới nhằm an ủi
và khuyến khích đối với một quốc gia đang chờ đợi
và hy vọng một tương lai bình thản hơn, sau những hậu quả tai
hại do một chế độ độc tài để lại.
(6) Chuyến viếng
thăm thứ sáu (31/05 đến 10/06/1997) là chuyến viếng thăm nhằm
mục đích trình bày những gương mẫu mới về đời sống thánh
thiện cho các tín hữu Công giáo. Lần này ngài đến để chủ
tọa lễ nghi bế mạc Ðại Hội Thánh Thể quốc tế thứ 46 tại
Thành phố Wroclaw (mạn Tây-nam Ba lan). Trong dịp này Ba lan cũng mừng
kỷ niệm một ngàn năm tử đạo của Thánh Adalberto tại
Gniezno và 600 năm thành lập Phân Khoa Thần học của Ðại học
Jagellonica ở Cracovia. Cũng trong chuyến viếng thăm này, ÐTC tôn
phong lên bậc Chân phước các Ðầy tớù Chúa: Bernardina Maria
Jablonska và Maria Karlowaska, và phong lên bậc Hiển Thánh Chân phước Edwige, Hoàng hậu Ba lan và Chân phước
Jan da Dukla.
(7) Chuyến viếng
thăm thứ bẩy (5-17/06/1999) là chuyến viếng thăm lâu dài nhất
và gồm nhiều địa điểm hơn cả. Cũng là chuyến viếng thăm
có tính cách lịch sử, bởi vì đây là lần thứ nhất một
Vị Giáo Hoàng đọc diễn văn tại Quốc hội Ba lan trong phiên
họp chung của Hạ và Thượng viện tại thủ đô Warszawa. Diễn
văn của Ðức Gioan Phaolô II đã được vỗ tay nhiều lần và
sau cùng tất cả các Dân biểu và Nghị sĩ đều đứng dậy vỗ
tay trong 10 phút để hoan hô ÐTC. Lần này người dân Ba lan coi
ngài thực sự là "Vị Cứu tinh đất nước" và thêm lòng
tôn trọng, mộ mến ngài nhiều hơn nữa.
Lần này ngài
cũng trở lại viếng thăm thành phố Wadowice, sinh quán của ngài
và tại đây ngài đối thoại thân mật với người đồng hương
và gợi lại các kỷ niệm xưa kia. Ngài cũng viếng thăm
"ghetto" Do thái và những nơi bách hại của chế độ Ðức
Quốc xã.
Cũng trong chuyến viếng thăm này, ÐTC tôn phong Linh mục Stefan Wincenty Frelichowski và 108 Vị Tử đạo trong đệ nhị thế chiến và hai đầy tớ khác: Nữ tu Regina Protmann, Edmond Bojanowski lên bậc Chân phước và Nữ Chân phước Cunegonda lên bậc Hiển thánh.
(8) Chuyến viếng thăm lần thứ 8 (16-19/08/2002). Ðức Thánh Cha chỉ viếng thăm Tổng Giáo Phận Cracovia mà thôi, giáo phận của ngài trước khi được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 16/10/1978. Trong lần viếng thăm này, ÐTC sẽ chủ tế Thánh Lễ Phong Chân Phước cho bốn Ðầy Tớ Chúa: (1) Ðức TGM Sigismondo Felice Felinski (1822-1895) - (2) Linh mục Jan Balicki (1869-1948) - (3) Linh mục Jan Beyzyrn (1850-1912) và (4) Nữ tu Sanzia Szymkowiak (1910-1942).