Niên giám năm 2002
thống kê mới của Giáo hội Công giáo
Prepared for Internet by Msgr Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines
Niên giám
năm 2002 thống kê mới của Giáo hội công giáo.
Cuốn niên giám thống kê mới của Giáo hội công giáo sẽ được công bố trong những ngày tới đây. Theo các con số mới nhất cho tới đầu năm 2001, trong năm 2000, số người công giáo trên thế giới là một tỉ 45 triệu.
Sánh với năm
trước (1999), con số này tăng lên 7 triệu; nhưng sánh với bản
thống kê năm 1999, thì con số này giảm chút ít: 0,1%. Con số
một tỉ 45 triệu gồm cả các Linh mục, Tu sĩ nam nữ và giáo
dân. Ðây là một đại gia đình công giáo, đại gia đình các
con cái của Thiên Chúa, không
phân biệt chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ. Ðại gia đình này
tiếp tục gia tăng từ từ.
Sánh với con số dân cư trên cả Trái đất, người công giáo chiếm có 17,3%.
Cộng đồng Dân
Chúa (Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam, nữ và anh chị em giáo dân)
phải cùng nhau cộng tác và hiệp nhất, để đem Tin Mừng cho
anh chị em chưa biết, chưa tin Chúa. Ðây là mệnh lệnh Chúa
trao cho các Tông đồ trước khi về trời, nhưng cũng trao cho
mỗi người chúng ta: "Các con hãy đi khắp thế giới, rao giảng
Tin Mừng cho mọi tạo vật". Rao giảng Tin Mừng là bổn phận
của mọi tín hữu Kitô, do Bí tích Rửa tội và Thêm sức, mỗi
người theo ơn gọi riêng của mình và bằng các hình thức khác
nhau, nhưng tất cả cùng theo đuổi một mục đích: "Nguyện xin
cho Nước Chúa ngự đến!".
Từ năm 1978,
Ðức Karol Wojtyla, Hồng Y TGM giáo phận Cracovia, bên Ba lan,
được bầu làm Giáo Hoàng với tên hiệu là Gioan Phaolô đệ
nhị (16/10/1978), cách đây gần
24 năm, con số người công giáo tăng từ 757 triệu lên tới
một tỉ 45 triệu, khoảng 38%.
Con số tăng rất đáng kể, nhưng sánh với việc gia tăng dân
số thế giới, con số này tăng quá ít, nhất là tại những
nơi dân số gia tăng mạnh mẽ, như tại Châu Á (chỉ cần nhìn
vào hai quốc gia mênh mông như Trung quốc (với khoảng một tỉ
200 triệu dân cư ) và Ấn Ðộ (với khoảng một tỉ). Cũng do
việc gia tăng dân số này, chúng ta thấy trong năm 1978, con số
công giáo trên thế giới chiếm 18%, nhưng trong năm 2000, xuống
17,3%, bởi vì số người công giáo không gia tăng song song với
mức độ gia tăng dân số thế giới.
Nhìn vào từng
Châu lục , chúng thấy con số người công giáo gia tăng
rất khác nhau:
Tại Châu Phi, số người công giáo từ năm 1978 đến năm 2000 tăng rất mạnh mẽ, tới 137,4% (từ 54 triệu 759 ngàn lên tới 130 triệu18 ngàn)
Tại Châu Á: tăng 69.83% (từ 63 triệu 183 ngàn lên đến 107 triệu 301 ngàn)
Tại Châu Mỹ 41,67% ( từ 356 triệu lên tới 519 triệu 391 ngàn )
Tại Châu Âu: 5, 17% ( từ 266 triệu lên tới 280 triệu 144 ngàn)
Tại Châu Ðại
dương: 46,05% ( từ 5 triệu 616 ngàn,
lên tới 8 triệu 202 ngàn).
Nhìn vào sự hiện diện của người công giáo tại các Châu lục, tỉ số cũng rất khác nhau:
Tại Châu Á chỉ có 2,9%
Tại Châu Âu: 40%
Tại Châu Mỹ: 63% (riêng tại một số quốc gia miền Trung và miền Nam Mỹ, lên tới 90,1% và 86,6% ). Trái lại, tại miền Bắc Mỹ sự hiện diện này chỉ tới 24,6%.
Tại Châu Ðại
dương: 26%. Nhìn vào sự gia tăng nhanh chóng và sự hiện diện
đông đảo tại Châu phi và Châu Mỹ, ÐTC nhiều lần đặt hy
vọng vào hai Châu Lục này : Ðây là tương lai của Giáo hội.
Về con số các Giám mục, trong 22 triều Giáo Hoàng của Ðức Gioan Phaolô II, từ 3,714 lên tới 4,541.
Trong lúc đó
con số linh mục không
gia tăng, hoặc có gia tăng nhưng không đủ để bù vào con số
chết đi. Hiện nay trên cả thế giới có 405 ngàn linh mục Giáo
phận và Dòng tu. Sánh với năm 1978, con số số này giảm mất
3,75%. Một hiện tượng đáng lưu ý: hiện nay con số linh mục
Giáo phận xét chung gia tăng rất đáng kể; nhưng số linh mục
Dòng tu xét chung lại giảm bớt (trừ một ít nơi có gia tăng,
như tại Châu Á và Châu
phi).
Số người công
giáo tại Châu Á gia tăng rất chậm, nhưng số linh mục, giáo
phận cũng như Dòng tu, lại gia
tăng nhanh chóng và mạnh mẽ hơn cả, sánh với các Châu lục
khác, từ 27,700 trong năm 1978 lên tới 43,500 (tức 57,28%) trong
năm 2000. Sau Châu Á, đến Châu phi, con số lịnh mục trong năm
1978 là 17 ngàn, nay lên tới 27 ngàn.
Cũng trong thời
gian này, Linh mục Châu âu từ 250 ngàn giảm xuống 209 ngàn
(11,28%) - Tại Châu Ðại dương cũng bị giảm sút,
từ 5,500 đến 5,000. Tại Châu Mỹ con số linh mục hiện
nay là 121 ngàn, không thay đổi nhiều (nhờ vào Châu Mỹ Trung
và Latinh), chỉ giảm mất 0,47%.
Chức Thầy
Sáu đã được thiết lập từ thời Các Thánh Tông đồ
(theo Sách Công vụ), nhưng bị gián đoạn trong nhiều thế kỷ,
và sau cùng đã được Công đồng chung Vatican II (1962-1965) lấy
lại, không phải vì lý do khan hiếm Linh mục hoặc để thay thế
Linh mục, như nhiều người nghĩ. Trong diễn văn đọc cho các
Giám mục miền Caraibes đến Roma "Ad Limina", trong nhũng ngày vừa
qua, ÐTC nói rõ ràng: "Giáo hội không thể có, nếu không
có Chức Linh mục". Việc
tái lập Chức Sáu --- bởi vì đây là một trong các Chức
thánh: Giám mục, Linh mục và Phó tế và bởi vì Chức
Sáu đã có từ đầu Giáo hội,--- để cộng tác với
Giám mục và Linh mục trong công việc mục vụ và rao giảng Tin
Mừng, nhất là để lo công việc bác ái, từ thiện (diaconia,
phục vụ các người nghèo khổ). Từ ngày được tái lập,
con số các Thầy Sáu vẫn gia tăng liên tiếp khắp nơi, nhất
là tại Châu Âu và Châu Mỹ. Tại Châu Á và Châu Mỹ
Latinh, con số các Thầy sáu rất giới hạn.
Trái lại, con
số các Tu sĩ nam không có chức Linh mục giảm sút nhiều,
từ 76 ngàn xuống đến 55 ngàn.
Các Nữ tu
cũng bị giảm sút, tuy không mạnh mẽ bằng các Tu sĩ nam không
có chức Linh mục. Trong 22 năm Triều Giáo hoàng của Ðức Gioan
Phaolô II, số các Nữ tu giảm mất 19%, cách riêng tại các
quốc gia giầu thịnh và tại các nơi đức tin bị sa sút; nhưng
tại các quốc gia trên đường phát triển, con số này lại
gia tăng, cách riêng đối với các Dòng Nữ địa phương.
Con số chủng sinh gia tăng rất đáng khích lệ, gia tăng khắp nơi, sau cơn khủng hoảng. Từ năm 1978 đến năm 2000, con số chủng sinh từ 64 ngàn lên tới 111 ngàn, cách riêng tại Châu Á, Châu Phi. Tại Châu Ðại dương, Châu Âu và Châu Mỹ có gia tăng, nhưng còn kém mức trước đây.