Cuộc họp báo trình bày Văn kiện mới
của ÐTC Gioan Phaolô II về Bí tích Hòa giải
Prepared for Internet by Msgr Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines
Cuộc họp báo
trình bày Văn kiện mới của ÐTC Gioan Phaolô II về Bí tích Hòa
giải.
Sáng thứ năm,
mùng 2 tháng 5/2002, hai Ðức Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng
Bộ Giáo lý đức tin và ÐHY Jorge Arturo Medina Estevez, Tổng trưởng
Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí tích, cùng với Ðức TGM Julian
Herranz, Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng phụ trách việc giải thích
các bản văn luật pháp, trình bày với giới báo chí Văn
kiện mới của ÐTC Gioan Phaolô II, có tựa đề là:
"Misericodia Dei" (Lòng thương xót Thiên Chúa),
nói về Bí tích Hòa giải. Văn Kiện mới được gọi là "Tông thư ", nhưng cũng mang một tính cách
của một "Tự Sắc" (Motu Proprio),
một văn kiện có tính cách luật pháp, được ÐTC dùng
để công bố những luật lệ của Giáo hội, trong những hoàn
cảnh riêng biệt.
Vì thế chúng
ta thấy: trong cuộc họp báo, ngoài ÐHY Tổng trưởng Bộ Phụng
tự và Kỷ Luật Bí tích, còn có sự hiện diện của ÐHY Tổng
trưởng Bộ Giáo lý đức tin và
Ðức TGM Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh giải thích bản văn
luật pháp của Giáo hội. Sự hiện diện ý nghĩa này nói lên
tính cách quan trọng của Văn Kiện mới,
được chính ÐTC ký tên và công bố cho toàn Giáo hội.
Mục đích của
Văn kiện mới nhằm đề cao sự quan trọng và sự cần thiết
của Bí tích Hòa Giải, ngay từ lúc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc
đời công khai rao giảng Tin Mừng, đồng thời nêu lên những
chỉ dẫn, để phục hưng Bí
tích Hòa Giải này trong đời sống Giáo hội.
Trong Năm Toàn
xá, người ta đã ghi nhận được những dấu hiệu tốt đẹp
của việc phục hưng Bí tích Hòa Giải. Số người lãnh Bí tích
trên cả thế giới, cách riêng tại Roma, nhất là Ngày Thế
giới Thánh niên, tháng 8 năm 2000, rất khích lệ. Dù vậy Bí
tích Hòa giải vẫn còn trong "cơn khủng hoảng", cách riêng
tại thế giới Tây phương. Cơn khủng hoảng này một phần do
các linh mục, phần khác do phía giáo dân.
Do các Linh mục, vì các ngài không quan tâm đến việc ngồi Tòa
Giải tội và không sẵn sàng đón nhận những người xin xưng
tội, coi việc ngồi tòa giải tội là một gánh nặng,
hoặc lạm dụng Bí tích Hòa giải bằng cách "giải tội
chung hay tập thể", không lo giáo huấn về Bí tích quan trọng
này trong đời sống người giáo dân và biếng nhát lãnh nhận
bí tích nầy trong chính đời sống linh mục. Như
vậy, có thể nói chính linh mục
làm cho người giáo dân rơi
vào thái độ coi thường Bí tích Hòa giải và dần dần đi đến
việc bỏ hẳn việc xưng tội, mà chỉ đợi dịp tiện
"để lãnh nhận việc giải tội tập thể".
Từ
phía giáo dân - Do việc giảm bớt đức tin - do việc thiếu
sót về giáo lý - do mất quan niệm về tội lỗi - do tự ái,
hổ thẹn không muốn tiết lộ tội lỗi mình với người khác
- do xưng tội vì thói quen, thiếu chuẩn bị và kiểm thảo bản
thân... hoặc không tín nhiệm nơi linh mục, nhất là cha sở của
mình, vì lý do này lý do
khác... vân vân.
Giờ đây chúng
tôi xin lược tóm những điểm chính của Văn kiện
"Misericordia Dei". Và có
tám (08) điểm sau đây:
1 - Hình thức
duy nhất của việc xung tội "thành" (valide) là việc thú tội
cá nhân và xưng thú mọi
tội trọng đã phạm, sau khi lãnh Bí tích Rửa tội, mà chưa
được tha thứ (số 1, a).
2 - Cấm các
linh mục ban phép giải tội tập thể hoặc chung. Việc ban phép
giải tội tập thể hay chung, chỉ được phép trong trường hợp
nguy tử
hay có sự cần thiết thực sự trầm trọng. Trong hai trường
hợp này, lúc nào có thể, vẫn bắt buộc phải xưng tội cá
nhân (các tội đã được tha trong lần giải tội chung hay tập
thể).
3 - Việc Phê
phán có hay không có những điều kiện của những trường hợp
thực sự khẩn cấp, là
việc thuộc thẩm quyền của mỗi giám mục giáo phận và Hội
đồng Giám mục quốc gia. Quyền này không thuộc về linh mục
giải tội xem
giáo luật khoảng 961,
triệt 1 và số 6 của Tông thư -Tự Sắc).
4 - Nơi duy nhất
và tòa giải tội để cử hành Bí tích Hòa giải là: nhà thờ
hay nhà nguyện, hay một nơi nào khác, vì lý do chính đáng mục
vụ đòi hỏi (x. số 9 , a).
5 - Tòa giải
tội phải có vách che, để phân biệt vị giải tội khỏi người
xưng tội và phải được đặt nơi mọi người thấy rõ (visibile).
Luật lệ về tòa giải tội do các HÐGM ấn định (x. số
9, b).
6 - Cấm các
linh mục không được ban Bí tích hòa giải cách dễ dàng cho
những người thường sống trong tình trạng tội lỗi mà không
muốn thay đổi đời sống. Ðối với các tín hữu, luật bắt buộc xưng tội
một năm ít là một lần vẫn còn hiệu lực, không có
gì thay đổi.
7 - Tông thư -Tự
sắc này có giá trị cho cả các Giáo hội Ðông phương (x. số
9, phần kết).
8 - Tông thư -Tự
sắc này có giá trị và phải được tuân giữ kể từ ngày
ÐTC ký nhận, tức mùng 7 tháng 4 năm 2002,
Chúa nhật
cuối tuần bát nhật Lễ Phục sinh, và cũng là Chúa nhật
của Lòng Thương xót Chúa.
Kết thúc bài thời sự nầy, chúng tôi xin trích lại đây nhận xét của ÐHY Joseph Ratzinger, tổng trưởng bộ Giáo Lý Ðức Tin, vào khởi đầu bài giới thiệu Tông Thư-Tự Sắc, như sau: "Ðiều rõ ràng trong giờ phút lịch sử chúng ta hôm nay là nhân loại cần sự thanh tẩy và sự tha thứ. Chính vì vậy, mà ÐTC Gioan Phaolô II trong tông thư "Khởi đầu ngàn năm mới (số 37) đã ước mong sao giữa những ưu tiên của sứ mạng của Giáo Hội trong ngàn năm mới, có một sự can đảm mới trong hoạt động mục vụ, để trình bày một cách đầy thuyết phục và hữu hiệu việc thực hành bí tích Hòa Giải".