Cô dâu Việt Nam ra tay giết đứa con 7 tháng tuổi rồi tự cắt cổ tay tự tử.
Ðài Loan (19/06/2001). "Vào chiều ngày 19/06/2001, cảnh sát Ðài Loan tới ngay hiện trường sau khi nhận được điện thoại cấp cứu, nhưng chỉ kịp cứu người mẹ, riêng đứa con 7 tháng tuổi vì quá yếu nên đã chết trước khi cảnh sát tới hiện trường".
Trên đây là bản tin nói về cô dâu Việt Nam (cô Nguyễn Thị...) tại Ðài Loan, đã làm cho những người Ðài Loan phải giật mình vì sự tàn nhẫn của người mẹ cầm dao giết chết đứa con 7 tháng tuổi của chính mình, rồi tự cắt mạch máu của mình để tự tử. Cảnh sát tới ngay hiện trường chỉ cứu kịp người mẹ, còn đứa con thì đã qua đời.
Sự việc xảy ra cũng chỉ vì những mù quáng của đồng tiền. Nhiều cô dâu Việt Nam, bất chấp mọi sự, nhắm mắt đưa chân, chấp nhận kiếp lấy chồng xứ người, trong khi không biết một chút gì về người đàn ông mà mình sẽ về chung sống, hay chẳng biết gì về thành phần xuất xứ của người chồng tương lai. Nhiều lúc chỉ gặp nhau trong vòng một tuần lễ khi người chồng đi du lịch 1 tuần lễ ở Việt Nam, nhiều lúc chỉ biết nhau qua hình ảnh hay những lá thư. Ðôi lúc những lá thư này cũng chỉ là do mai mối viết lấy. Chú rễ viết tiếng Tàu, cô dâu viết tiếng Việt, (có những anh chồng hoặc tàn tật hoặc mù chữ, chẳng biết viết chữ nào),mai mối muốn viết ý gì để phiên dịch cũng rất tự do, nhiều lúc hoàn toàn không trung thực. Những cô dâu này, chỉ dựa vào những trung tâm mai mối là những người thích dùng những lời ngọt ngào để dụ dỗ, chỉ cần cô Việt Nam đồng ý qua Ðài Loan và chấp nhận làm vợ của những người Ðài Loan, và người chồng Ðài Loan chỉ cần trả tiền cho mai mối, mọi chuyện sẽ xong xuôi và rất nhanh chóng, bao luôn cả những thủ tục giấy tờ hôn phối, visa xuất nhập cảnh... Cũng từ đó, khi qua tới một nước xa lạ, bỡ ngỡ trước sự hoàn toàn mới lạ, ngôn ngữ bất đồng, đa số người chồng Ðài Loan loại này lại thuộc những thành phần có vấn đề. Ðủ thứ vấn đề phải đối diện, vấn đề kinh tế gia đình, vấn đề đời sống xã hội, và đôi lúc còn gặp cả những rắc rối về xã hội, vấn đề nợ nần, vấn đề tiền án của chồng.... và từ đó, có những cô dâu đã tự tìm đến những lối thoát dại dột, tự tử để thoát khỏi cái kiếp khổ ở đời này. Nhưng khốn nỗi, chạy trốn kiếp này trốn không thoát kiếp sau. Người mẹ giết con này bây giờ phải đối đầu với lao tù vì tội giết con.
Trong mấy năm gần đây, tuy báo chí truyền thanh truyền hình đã nói nhiều về những thảm cảnh cô dâu Việt Nam ở Ðài Loan, nhưng số lượng các cô gái Việt Nam đua nhau lấy chồng Ðài Loan mỗi ngày vẫn một gia tăng. Cũng từ đó, những thảm cảnh xã hội đến từ những gia đình thiếu hạnh phúc này vẫn cứ thế gây nên những tệ nạn mới cho xã hội.
Ngày 29 tháng 3 năm 2001, một trường hợp khác của cô Trần Thị... lấy chồng Ðài Loan (Ông Hung Kuo Chen), người chồng là một người bị mắc bệnh tâm thần. Trong một lúc lời qua tiếng lại, người chồng đã cầm lấy chiếc búa đập vào đầu cô dâu Việt Nam, cô dâu Việt Nam bị mê man và được hàng xóm báo cảnh sát và đã được đưa vào nhà thương chữa trị. Rồi đây sau khi cô dâu này được chữa trị, nếu may mánh còn sống, chắc cũng sẽ cùng chung số phận mát mát điên điên như người chồng, vì não đã bị trọng thương.
Khoảng cuối năm 2000, trường hợp của cô Hà Thị... sau khi qua Ðài Loan sống với chồng một thời gian, có được một đứa con nay đã được bảy tuổi. Cô cứ nghĩ rằng có con thì có thể thay đổi được tính tình của chồng. Nhưng cô đã lầm, tật đánh vợ của chồng vẫn chứng nào tật đó. Chịu hết nỗi, cô đành bỏ nhà ra đi, chồng ở nhà bơ vơ với đứa con. Sau bao nhiêu lần gọi vợ về nhưng vẫn không thấy vợ về, ông đành xách con ra bờ sông chuẩn bị tự tử. Hàng xóm chỉ nghe được những tiếng kêu cứu của đứa bé: "ba ơi đừng bắt con nhảy xuống sông". Nhưng không kịp, hàng xóm chạy ra thì chỉ kịp nhìn thấy người chồng kéo đứa con từ trên cầu cao cùng nhảy xuống sông tự tử. Ðội cấp cứu vội vàng tới cũng chỉ vớt lên được người chồng còn sống, nhưng đứa bé thì đã tắt thở. Người mẹ (cô dâu Việt Nam) nghe tin, chạy tới bờ sông nhìn thấy xác con, chỉ biết kêu la thảm thiết, đau lòng khóc cho đứa con thơ vô tội chết oan uổng.
Cũng khoảng cuối năm 2000, trường hợp của cô Phạm Thị... Sau khi qua tới Ðài Loan một thời gian, đã có được một đứa con bốn tuổi. Sống chung khổ như hỏa ngục, chịu hết nổi vì những trận đấm đá của chồng, cô đành cầm bình xăng tới đổ vào người đứa con và vào chính thân mình, chạy tới ngồi bên chiếc xe môtô, châm lửa tự tử. Ðội cấp cứu tới thì chỉ kịp tắt lửa để đưa ra hai tấm xác cháy thiêu của cô dâu Việt Nam và đứa con thơ vô tội.
Có lẽ những thảm cảnh này, đã và rồi sẽ còn xảy ra dài dài trên đất nước Ðài Loan này. Hôn nhân không phải là một phương tiện để kiếm tiền, cũng không thể vì tiền mà nhắm mắt đưa chân cưới gã cho ai thì mặc kệ. Nếu ai có dịp vào trong các trại giam của Ðài Loan, trong mấy năm gần đây, đã có rất nhiều cô dâu Việt Nam lấy chồng Ðài Loan bị bắt ở các ổ mãi dâm. Những cô dâu chỉ là những hình thức trá hình của những anh chồng ma cô giả danh, dụ dỗ các cô gái này qua Ðài Loan rồi đưa vào các ổ mãi dâm để phục vụ kiếm tiền cho bọn chúng. Có những cô chỉ ở tuổi 13 hay 14, nhưng đã được bọn chuyên nghiệp này thông đồng với các nhân viên nhà nước Việt Nam, để có được những hộ chiếu giả với tuổi 18 hoặc 20. Rồi đưa qua Ðài Loan theo diện hôn nhân và được đưa thẳng tới các ổ mãi dâm để kiếm tiền cho bọn chúng. Cả những cô dâu này cũng không biết anh chồng của mình là ai, và cũng không biết rằng mình qua Ðài Loan là vì đã có hôn phối với người Ðài Loan.
Chưa hết, những chuyện này sẽ càng ngày càng nhiều thêm, vì những cô dâu qua trước, không dám kể sự thật cho những người còn ở Việt Nam, một phần vì sợ hỗ nhục, một phần vì đã lỡ dại thì chỉ còn biết nhắm mắt đưa chân, một phần thì bọn mai mối sẽ không để yên cho những ai dám phá vỡ công việc làm ăn của bọn chúng. Lại còn có những cô tàn nhẫn hơn, mình đã lỡ dại rồi thì lợi dụng luôn cơ hội đó dụ thêm những cô dâu Việt Nam khác để kiếm tiền làm giàu: Ðây là trường hợp của cô Trần Thị Thu Hoài, sau khi lấy chồng Ðài Loan, cứ thường xuyên cùng với chồng qua lại Ðài Loan Việt Nam để làm mai mối cho đàn ông Ðài Loan và những cô gái Việt Nam. Vì đồng tiền, cô cũng dám lừa đảo luôn cả những việc thật vô lương tâm. Ngày 16 tháng 8 năm 2001, tòa án Thành Phố Sàigòn, Việt Nam, đã kết án chồng của cô (ông Feng Shu-Ya) 5 năm tù ở với tội đã dụ dỗ và đã tổ chức đưa các cô gái Việt Nam qua Ðài Loan làm mãi dâm. Còn phần cô Trần Thị Thu Hoài thì bị kết án 4 năm tù ở vì tội đồng lõa trong tổ chức chuyển người qua Ðài Loan làm gái mãi dâm. Hai người này đã bị bắt vào năm 2000. Kể từ năm 1988 đến lúc bị bắt, theo những chứng cớ trong phiên tòa, hai người này đã đưa ít nhất 8 cô gái Việt Nam qua Ðài Loan để làm gái mãi dâm.