Lược Sử

Tổng Giáo Phận Saigòn

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

A. Lược Sử Tổng Giáo Phận Saigòn

Trước khi Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Gia Ðịnh, lấy xứ Saigòn làm huyện Tân Bình và Ðồng Nai làm huyện Phước Long năm 1968, đã có nhiều Kitô hữu sinh sống tại đây. Từ 1641-1645, nhiều Kitô hữu chạy trốn cuộc cấm đạo của chúa Nguyễn đến vùng Thủy Chân Lạp: Chợ Quán, Ðông Phố (Gia Ðịnh), Lái Thiêu, Bến Gỗ để làm ăn sinh sống và quy tụ thành những cộng đoàn đầu tiên. Theo cha Juan Antonio Arnedo (1660-1715), các thừa sai dòng Tên đã theo đám di dân vào vùng đất Saigòn vào cuối thế kỷ XVII.

Ngày 9-9-1959, bằng Sắc chỉ Super Cathedram, Tòa Thánh thành lập hai giáo phận ở Việt Nan: Ðàng Trong và Ðàng Ngoài. Giáo phận Ðàng Trong (bắt đầu từ sông Gianh tới Nha Trang) do Ðức cha P. Lamdert de la Motte làm đại diện tông tòa. Vùng Chăm, Cambodia và Xiêm (Thái Lan) trực thuộc giáo phận Malacca. Ngày 13-1-1665, Tòa Thánh sáp nhập xứ Chăm và Cambodia vào giáo phận truyền giáo Ðàng Trong. Vùng đất Saigòn đã có các gia đình Công giáo chạy trốn cuộc bách hại và làm ăn buôn bán tại Cù Lao Phố, khu Chợ Quán, Gia Ðịnh.

Khoảng năm 1700, cha Emmanuel Quintao (S.J.) hoạt động ở Cù Lao Phố (Biên Hòa) và Chợ Quán, năm 1723, ngài trao vùng Chợ Quán cho cha Francois José Garcia, dòng Phanxicô, coi sóc. Cha José dựng nhà thờ tại Chợ Quán năm 1727, nơi đây có khoảng 300 giáo dân; đến năm 1730, cha dựng thêm nhà thờ Chợ Lớn. Cha José ghi nhận ngày hôn chân Chúa năm 1739, đã có 2,000 giáo dân (chỉ tính người bỏ tiền). Năm đó Saigòn Hạ có 1,500 giáo dân, Chợ Lớn 1,000. Năm 1743, nhân sự giáo phận Ðàng Trong gồm 12 linh mục dòng Tên, 9 linh mục dòng Phanxicô, 6 thừa sai Paris, 2 linh mục thuộc Thánh Bộ và một số linh mục Việt Nam.

Cuộc cấm đạo của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) đã làm nhiều giáo dân dọc theo những vùng miền Trung xuôi về Nam. Sau khi Võ Vương băng hà, Ðịnh Vương lên nối ngôi, cuộc cấm đạo không còn gắt gao như trước nữa, nên các sinh hoạt của giáo dân được phục hồi và có phần ổn định. Ðức cha Guillaume Piguel (MEP) (1764-1771) thường xuyên lui tới các vùng Chợ Quán, Ðồng Nai để ban bí tích Thêm Sức.

Trong thời gian từ năm 1771-1801, quân Tây Sơn thắng thế trong cuộc chiến tranh giành chủ quyền với chúa Nguyễn. Năm 1773, quân Tây Sơn đánh chiếm Nam Hà Quốc, Huệ Vương cùng với con cháu phải chạy xuống miền nam. Năm 1776, cha con Huệ Vương bị bắt và bị sát hại tại Long Xuyên, chỉ còn người cháu nội là Nguyễn Ánh nối nghiệp, quân - lương hầu như cạn kiệt. Nguyễn Ánh tìm gặp Ðức cha Pigneau de Béhaine (Bá Ða Lộc) và được Ðức cha tận tình giúp đỡ. Ðức cha đã nhận đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện.

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long. Trong thời gian này, giáo dân tại một số vùng miền Nam được yên ổn giữ đạo. Nhà thờ Chợ Quán được xây dựng năm 1793. Năm 1790, Nguyễn Ánh cũng cất cho Ðức cha Bá Ða Lộc một tòa nhà yên tĩnh gần rạch Thị Nghè, gọi là dinh Tân Xá. Ðây là nơi học tập của hoàng tử Cảnh và cũng là nơi Ðức cha dùng làm tòa giám mục. Năm 1799, khi Ðức cha Bá Ða Lộc qua đời, giáo phận Ðàng Trong do Ðức cha Jean Labartette Gioang cai quản từ 1793-1823. Ngài được tự do đi lại thăm viếng các họ đạo.

Năm 1820, hoàng tử Ðảm lên ngôi, lấy hiệu Minh Mạng. Nhà vua rất ghét đạo Thiên Chúa nên đã tập trung các giáo sĩ, thừa sai nước ngoài về Huế, cố ý giam lỏng không cho các ngài giảng đạo. Nhờ sự bảo trợ của Tả Quân Lê Văn Duyệt, tổng trấn Gia Ðịnh, giáo dân miền Nam bớt bị bách hại hơn, nhưng khi Lê Văn Duyệt mất (1832), vua Minh Mạng bãi chức tổng trấn, trấn Gia Ðịnh được chia thành 6 tỉnh gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh: Gia Ðịnh, Biên Hòa, Ðịnh Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Vua Minh Mạng quyết liệt ra sắc dụ cấm đạo, ông hành tội Lê Văn Duyệt, khiến cho người con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi nổi dậy chống triều đình Huế. Một ít người Công giáo đã tham gia cuộc nổi dậy khiến cho nhà vua và triều đình Huế càng có cớ bách hại đạo. Trong cuộc dẹp loạn, cha J. Marchand Du bị xử lăng trì ở Huế, cha Phước bị xử bá đao tại Saigòn chung với một số tín hữu và tất cả được chôn chung trong một hố sâu gọi là Mả Ngụy. Ðức cha Jean Louis Taberd (1827-1840) phải rời Lái Thiêu sang Thái Lan (Xiêm), nhiều nhà thờ bị triệt hạ, nhiều giáo sĩ và giáo dân bị bắt, nhà thờ Chợ Quán bị phá thành bình địa năm 1834, bổn đạo tản về các miền Gò Vấp, An Nhơn, Xóm Chiếu hoặc những vùng ở miền Ðông như Ðất Ðỏ, Tân Triều, Lái Thiêu. Lúc đó, Ðức cha Entienne Théodore Cuénot Thể ẩn mặt ở Gò Thị (Quy Nhơn) để cai quản giáo phận Ðàng Trong.

Ngày 2-3-1844, Ðức Thánh Cha Gregorius XVI chia giáo phận Ðông Ðàng Trong (Quy Nhơn) và Tây Ðàng Trong (Saigòn). Tây Ðàng Trong gồm lục tỉnh Nam Kỳ cho đến hết xứ Cambodia, do Ðức cha Dominique Lefèbvre Ngãi coi sóc. Tòa giám mục Tây Ðàng Trong có lúc đặt tại Lái Thiêu.

Ngày 30-8-1850, với Sắc chỉ Quoties Benedicente, Tòa Thánh cắt một phần đất thuộc giáo phận Tây Ðàng Trong lập giáo phận Nam Vang (Cambodia). Phần đất còn lại vẫn mang tên Giáo phận Tây Ðàng Trong, do Ðức cha Lefèbvre coi sóc. Giáo phận chia làm 12 hạt: Ðất Ðỏ, Tân Triều, Lái Thiêu, Thủ Ðức, Thị Nghè, Chợ Lớn, Thủ Ngữ, Xoài Mít, Cái Nhum, Cái Mơm, Bãi San và Ðầm Nước. Chủng viện được lập tại Thị Nghè trong vùng đầm lầy, rừng dừa nước; dòng Mến Thánh Giá được lập tại Cái Nhum và Cái Mơn, do các nữ tu từ Ðất Ðỏ, Tân Triều quy tụ lại sau những cơn bách hại.

Vào năm 1860, tàu Pháp đã hoạt động thường xuyên ở các cửa: Cần Giờ, Vũng Tàu và Hòn Khói (Cam Ranh) có ý xâm chiếm nước ta. Vua Tự Ðức cử Nguyễn Tri Phương làm nguyên soái trấn giữ Saigòn. Cuộc chiến giữa Pháp và Việt đã khiến nhiều xứ đạo bị tàn phá, nhiều tín hữu bị bắt giam và giết hại như ở ngục Biên Hòa, Phước Lễ, Long Ðiền, Ðất Ðỏ, Long Kiên (1861-1862).

Sau khi Pháp chiếm đươc thành Saigòn (2-1859), các thừa sai Pháp bắt đầu xây dựng lại các cơ sở ở giáo phận Tây Ðàng Trong như: nhà thờ Xóm Chiếu và lập chủng viện tại đây năm 1861, dinh Tân Xá được Ðức cha Lefèbvre Ngãi dùng làm Tòa giám mục tạm thời. Tại Saigòn, nhiều họ đạo mới được thành lập như Chợ Quán, Cầu Kho, Chợ Lớn, Cầu Bông (Gia Ðịnh), Chí Hòa, An Nhơn, Gò Vấp, Hóc Môn, Bà Ðiểm, Tân Hưng; dòng La San và Phaolô thành Chartres được mời sang Việt Nam để lo việc giáo dục xã hội.

Ngày 7-10-1877, Ðức cha I.F.J. Colombert Mỹ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ Ðức Bà Saigòn và hoàn thành ngày 11-4-1880. Ðức Gioan XXIII ban Sắc chỉ Spectabile Monumentum nâng nhà thờ Ðức Bà lên hàng Vương Cung Thánh Ðường. Năm 1907, mở rộng ranh giới giáo phận Tây Ðàng Trong đến tỉnh Bình Thuận (Phan Thiết) và Di Linh, Ðà Lạt (trước đây vùng này thuộc giáo phận Ðông Ðàng Trong), do Ðức cha L. Emile Mossard Mão coi sóc (1899-1920). Thời gian này, di dân từ các nơi đổ về các vùng đất đỏ trong các đồn điền cao su của người Pháp, Ðức cha đã thành lập nhiều xứ đạo mới tại các nơi này.

Ngày 3-12-1924, giáo phận tông tòa Tây Ðàng Trong được đổi tên thành giáo phận tông tòa Saigòn, tên gọi theo địa bàn hành chính nơi đặt tòa giám mục, Ðức cha Isidore Marie Dumortier Ðượm (MEP) coi sóc.

Ngày 8-1-1938, với Sắc chỉ In Remotas Orbisregiones, Tòa Thánh tách một phần đất thuộc giáo phận Saigòn để thành lập giáo phận Vĩnh Long gồm tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sa Ðéc và một phần của tỉnh Cần Thơ (trước đây thuộc Saigòn). Khi phân chia, giáo phận Saigòn có: 80 linh mục triều, 27 thừa sai, 12 linh mục dòng, 82,375 giáo dân chia làm 13 hạt, 58 giáo xứ và 152 họ lẻ. Ðức cha Jean Casaigne Sanh cai quản giáo phận trong tình hình bất ổn với cuộc đại chiến thế giới lần II (1939-1945), cuộc chiếm đóng của quân đội Nhật va cuộc đảo chính của Việt Minh. Ngài đã phải chịu nhiều gian nan, vất vả. Ngài đã tiếp đón gần 1 triệu người di cư từ miền Bắc vào (1954), trong đó có rất nhiều giáo dân. Chính điều này đã làm cho Saigòn trở thành trung tâm của Công Giáo Việt Nam. Ðến năm 1955, Ðức cha xin từ chức để trở về sống với anh em phong tại trại cùi Di Linh. Tòa Thánh trao giáo phận Saigòn cho Ðức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền cai quản. Ðức cha Hiền đã tiếp đón và giúp di dân định cư tại các miền Hố Nai, Biên Hòa..., ngài cũng xây dựng nhiều cơ sở như: viện Ðại Học Ðà Lạt, Giáo Hoàng Học Viện Piô X, biệt thự Thánh Tâm. Ngài cũng đã tổ chức Ðại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc tại Saigòn năm 1959, với sự chủ tọa của Ðặc Sứ Tòa Thánh là Hồng Y Agagianian.

Ngày 24-11-1960, qua Tông hiến Venerabilium Nostrorum, Ðức Gioan XXIII thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam với 3 giáo tỉnh: Hà Nội, Huế và Saigòn. Giáo phận Saigòn được nâng lên hàng tổng giáo phận chính tòa Saigòn. Giáo tỉnh Saigòn gồm: Saigòn, Vĩnh Long, Cần Thơ, Ðà Lạt, Mỹ Tho, Long Xuyên. Ðức cha Phaolô Nguyễn Văn Bình làm tổng giáo mục Saigòn, ngài nhận giáo phận ngày 2-4-1961 và Ðức cha Hiền được thuyên chuyển về làm giám mục chính tòa giáo phận Ðà Lạt.

Năm 1963, giáo phận Saigòn có gần 567,455 giáo dân với 583 linh mục triều, 25 linh mục dòng, 503 nam tu, 1,936 nữ tu trong 263 giáo xứ (họ chính) và 284 giáo họ (họ lẻ). Về giáo dục, có: 56 trường trung học với 30,748 học sinh và 338 trường tiểu học với 91,870 học sinh, 28 bệnh viện với 4,874 giường bệnh, nổi tiếng là bệnh viện Saint Paul và bệnh viện Thánh Tâm Hố Nai, cùng với hơn 100 cơ sở bác ái khác như trại phong, viện dưỡng lão, cô nhi viện, trại câm điếc, quán cơm bình dân... Năm 1965, Tòa Thánh tách từ giáo phận Saigòn lập hai giáo phận Phú Cường và Xuân Lộc. Ðến năm 1975, tách từ giáo phận Nha Trang, Tòa Thánh lập thêm giáo phận Phan Thiết thuộc giáo tỉnh Saigòn.

Năm 1974, giáo phận Saigòn gồm 516,000 giáo dân, 416 linh mục triều, 125 linh mục dòng, 2,450 tu sĩ nam nữ. Vào năm 1975, một số linh mục và tín hữu đã ra nước ngoài định cư, nhưng giáo phận vẫn tiếp tục phát triển.

Cũng trong thời gian này, Ngày 24-4-1975, Tòa Thánh bổ nhiệm Ðức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giám mục Nha Trang, làm Tổng Giám Mục phó giáo phận Saigòn. Ngày 15-8-1975, Ðức cha Thuận bị chính quyền đưa từ Saigòn về Nha Trang và quản thúc tại Cây Vông, sau đó đưa đi biệt giam tại nhiều trại giam khác nhau và cuối cùng, vào ngày 23/11/1988, được thả ra khỏi trại giam nhưng bị quản thúc tại Giang Xá, Hà Nội. Năm 1989, ngài được phép qua Roma chữa bệnh, nhưng sau đó ngài lại bị chính quyền Việt Nam không cho phép ngài trở về Việt Nam nữa. Ngày 9-4-1994, Ðức cha Thuận được bổ nhiệm làm Phó Chủ Tịch Hội Ðồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình và ngày 24-6-1998, được bổ nhiệm làm Chủ Tịch Hội Ðồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình. Ngày 21-2-2001, Ðức Gioan Phaolô II cất nhắc ngài lên Hồng Y. Ngày 16-9-2002, Ðức Hồng Y Thuận qua đời tại Roma.

Ngày 2-2-1978, Ðức cha Aloisiô Phạm Văn Nẫm được tấn phong làm giám mục phụ tá giáo phận Saigòn. Năm 1999, ngài nghỉ hưu và qua đời ngày 30-6-2001 tại Saigòn.

Ðức Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình là người rất ôn hòa, ngài đã sáng suốt dẫn dắt cộng đoàn dân Chúa bước đi trong một giai đoạn đầy phức tạp của xã hội. Ngài đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ, bất hạnh. Năm 1965, Ðức Tổng đã giúp thành lập làng cùi Thanh Bình ở bán đảo Thủ Thiêm. Tháng 8-1993, Ðức Tổng ngã bệnh nặng, Tòa Thánh cử Ðức cha Nicola Huỳnh Văn Nghi, giám mục giáo phận Phan Thiết, làm giám quản giáo phận Saigòn. Sau khi hồi phục một phần sức khỏe, Ðức Tổng Phaolô đã bàn giao mọi việc điều hành giáo phận cho Ðức cha Nicola, nhưng vẫn giữ quyền tổng giám mục. Ngày 1-7-1995, Ðức Tổng Phaolô từ trần, Ðức cha Nicola vẫn tiếp tục giữ chức giám quản tổng giáo phận, tuy nhiên vì ngài không được chính quyền chấp thuận, nên ngài vẫn ở Tòa giám mục Phan Thiết và âm thầm liên lạc làm việc với tổng giáo phận Saigòn. Ngày 10-3-1998, Tòa Thánh đặt Ðức cha Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, giám mục phó giáo phận Mỹ Tho, làm Tổng giám mục tổng giáo phận Saigòn và ngài về nhận tòa ngày 2-4-1998. Ngày 28-9-2003, ÐTC Gioan Phaolô II đã đặt ngài làm Hồng Y và ngày 21-10-2003 ngài nhận mũ đỏ Hồng Y tại Rôma.

Ngày 14-7-2001, ÐTC bổ nhiệm linh mục Giuse Vũ Duy Thống làm giám mục phụ tá giáo phận Saigòn.

B. Ðịa Lý và Dân Số

Ranh giới: Giáo phận Saigòn bao gồm 24 quận, huyện thuộc thành phố Saigòn: quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Gò Vấp, Tân Bình, Phú Nhuận, Thủ Ðức, Bình Tân, Tân Phú, và Bình Thạnh; các huyện: Nhà Bè, Cần Giờ, Bình Chánh, Hóc Môn, và Củ Chi, với diện tích chừng 2,094 km2.

Ðịa bàn thành phố có hàng trăm sông ngòi, kênh rạch, nhưng hầu hết là những sông nhỏ, lớn nhất là sông Saigòn với chiều dài là 106km.

Tính đến 31-12-2003, tổng số dân địa phương ở Thành Phố Saigòn là 5,708,100 người, đa số là công nhân viên chức trong các xí nghiệp, nhà máy, công ty.

C. Một số điểm đặc sắc của giáo phận Saigòn

1. Tôn giáo:

- Vương Cung Thánh Ðường Ðức Bà Saigòn: Ngày 7-10-1877, Giám mục I.F.J. Colombert Mỹ đã cử hành nghi thức đặt viên đá đầu tiên cho công trình xây dựng Vương Cung Thánh Ðường Ðức Bà, do kiến trúc sư M. Bournard thiết kế và thi công. Sau gần 3 năm, Vương Cung Thánh Ðường Ðức Bà được hoàn thành. Ngôi thánh đường nguy nga, tráng lệ dài 91m, rộng 35.5m, vòm mái cao 21m, hai tháp chuông cao 36.6m. Năm 1895, xây thêm hai tháp nhọn cao 21m, bên trong hai tháp là bộ chuông vĩ đại gồm 6 quả với tổng trọng lượng là 28,850kg. Năm 1959, Tòa Thánh quyết định nâng ngôi nhà thờ này lên thành Vương Cung Thánh Ðường. Ngày 9-12-1959, Ðức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền đã cử hành nghi thức xức dầu thánh hiến Vương Cung Thánh Ðường.

Hơn 100 năm qua, Vương Cung Thánh Ðường Ðức Bà không chỉ là nhà thờ chính tòa của giáo phận mà còn là nơi hành hương nổi tiếng cho các du khách thập phương trong cũng như ngoài nước.

Ngoài ra còn có một số nhà thờ cổ khác như: Phanxicô Xaviê còn gọi là nhà thờ Cha Tam (1900), Gia Ðịnh (1887), Chợ Ðũi (1900), Chợ Quán (1896), Jeanne d'Arc (1928), Thánh Giuse ở Hạnh Thông Tây (1920), Thánh Tâm ở Tân Ðịnh (1900).

- Di tích lịch sử Công Giáo: Ngoài nhà thờ Chính Tòa, giáo phận Saigòn còn có tòa giám mục hiện nay, được Ðức cha L.E. Mossard Mão xây dựng và ở đây từ năm 1911. Bên cạnh là căn nhà cổ do chính quyền Pháp cấp cho Ðức cha Lefèbvre làm nơi cư trú. Từ năm 1864-1900, một số Ðức cha D. Lefèbvre (Ngãi), J.C. Miche (Mịch), I.F.J. Colombert (Mỹ), J.M. Dépierre (Ðễ) dùng làm tòa giám mục. Căn nhà sau này đã được đưa về sát bên tòa giám mục để dùng làm nguyện đường. Nhà này có nhiều điểm kiến trúc cổ đặc sắc của dân Việt. Ngoài ra, còn phải kể đến công trình kiến trúc đồ sộ là tu viện dòng Thánh Phaolô, tọa lạc tại 4 Tôn Ðức Thắng, Q. 1, do chính Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) vẽ kiểu và xây dựng từ tháng 9-1862 đến 18-7-1864.

2. Di tích lịch sử:

Di tích lịch sử nổi tiếng là lăng Tả Lê Văn Duyệt (Lăng Ông) với lễ giỗ được tổ chức vào các ngày 29, 30 tháng 7 và mồng 1 tháng 8 hàng năm. Ðây là ngày hội lớn của đất Gia Ðịnh xưa và dân Nam Bộ ngày nay. Di tích khác khá nổi tiếng là đền thờ Trần Hưng Ðạo ở 36 Võ Thị Sáu, Q. 1, lễ giỗ hàng năm vào ngày 20-8 âm lịch.

Thành Phố Saigòn còn có những ngôi chùa nổi tiếng như: chùa Giác Lâm ở 118 Lạc Long Quân, Q. Tân Bình. Ðây là một trong những ngôi chùa cổ được xây dựng vào năm 1744 và được trùng tu nhiều lần; chùa Giác Viên ở Q. 11, nằm trong khuôn viên khu du lịch Ðầm Sen (1798); chùa Vĩnh Nghiêm (1948) ở 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q. 3; chùa Xá Lợi (1956); chùa Linh Sơn.

3. Danh lam thắng cảnh:

Thảo Cầm Viên, Bến Cảng Nhà Rồng và Hội Trường Thống Nhất (Dinh Ðộc Lập) ở thành phố Saigòn; 18 Thông Vườn Trầu ở Hóc Môn; khu rừng sác ngập mặn ở huyện Cần Giờ.

 

(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page