Lược Sử
Giáo Phận Kontum
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
A. Lược Sử Giáo Phận Kontum
1. Miền Ðất Tây Nguyên
Ðịa giới giáo phận Kontum hiện nay nằm gọn trong hai tỉnh Kontum và Gia Lai với diện tích 25,728 km2, thuộc vùng Bắc Tây Nguyên.
Miền Bắc Tây Nguyên chạy dọc 2 bên sườn phần phía Nam của dãy Trường Sơn, dài khoảng 450km, rộng khoảng 140km. Bắc giáp với tỉnh Quảng Nam - Ðàng Nẵng. Nam giáp Nam Bộ. Ðông giáp các tỉnh duyên hải miền Trung. Tây giáp Lào - Cambodia. Triền phía Tây Trường Sơn thoai thoải; triền phía Ðông hơi thẳng đứng. Chạy theo hướng Tây Bắc - Ðông Nam, dãy Trường Sơn có nhiều nếp hình thành phức tạp. Nhấp nhô trùng điệp các rặng núi với các ngọn cao như Ngọc Niay cao 2,259m (Huyện ÐăkGlei), Nang Brai cao 1,780m (Huyện Sa Thầy), Lang Biang cao 2,163m (Thành Phố Ðà Lạt), Hàm Rồng cao 1,028m (ở thành phố Pleiku) hay Phượng Hoàng (Huyện Ðức Cơ) nơi đây, năm 1958, có đặt một tượng Ðức Mẹ cao 3m. Cao nhất là đỉnh Ngọc Linh - được mệnh danh là nóc nhà Tây Nguyên - cao 2,598m (Huyện ÐăkGlei), nơi bắt nguồn của nhiều dòng sông, lạch, suối.
Miền Kontum có sông Pôkô chảy từ Bắc Kontum (ÐăkGlei) xuống phía Nam nhập với sông Sêsan đổ qua Mekong. Từ Ðông Bắc đổ vào dòng Pôkô này còn có sông Ðak-Tơkan chảy qua Ðăktô, sông ÐăkPsi chảy qua Diên Bình và sông ÐăkPla bọc qua thị xã Kontum.
Miền Pleiku có sông Ayun và sông Ba, bắt nguồn từ hướng K'Bang chảy xuôi gặp nhau tại thị trấn Ayun Pa (Cheo Reo), rồi đổ vào sông Ðà Rằng chảy ra Thái Bình Dương.
Cũng có những hồ lớn: như Biển Hồ, còn gọi là hồ Ia Nueng rộng 230ha (Thành Phố Pleiku), hồ Ia Băng (Huyện Mang Yang), hồ Yok Dania, hồ Lắc (Ðăklăk).
Có các thác nổi tiếng như thác Ialy, cao 60m (Huyện Sa Thầy và Huyện Chư Păk), nơi đang xây dựng công trình thủy điện lớn thứ 3 trong cả nước; thác Lệ Kim cao hơn 30m (Huyện Ia Grai), thác Ðăk Trôi (Huyện Mang Yang), thác Suối Ðá (Huyện Ayun Pa), thác Ðăk Xơ Nge (Huyện Kon Plông), thác Maray (Huyện Sa Thầy).
Vùng Bắc Tây Nguyên chủ yếu là núi và đồi, đồng bằng chỉ là những dải đất nhỏ bé trải dọc theo mấy sông chính như sông Pôkô, sông ÐăkBla, sông Ayun và sông Ba. Cánh đồng ven sông ÐăkBla ở Kontum chính là miền Ðất Hứa mà Ðức cha Cuénot Thể đã từng mong ước đoàn truyền giáo sớm tìm gặp và đây là cái nôi truyền giáo Tây Nguyên kể từ năm 1848.
Miền Tây Nguyên nằm gọn trên các cao nguyên Xơ Ðăng, Kontum - Pleiku, Ðăklăk và Lang Biang. Có người gọi là cao nguyên Nam Trung Bộ. Ðất được cấu tạo với khối đá phún xuất, hao cương và bazan. Chủ yếu là vùng bazan đất đỏ rất thích hợp với các loại cây công nghiệp như chè, cà phê, tiêu, cao su. Khí hậu tương đối dễ chịu, phân thành 2 mùa mưa nắng rõ rệt, nhiệt độ trung bình 230C.
2. Con Người Tây Nguyên
Các bộ tộc bản địa Tây Nguyên chủ yếu là Ba Nơ, Xơ Ðăng, Gia Rai, Ê Ðê, Gié-Triêng, M'nông, Cơ Ho, Brâu, Rơ Măm... Vao đầu thế kỷ XIX, bắt đầu có ít người Kinh từ miền xuôi lên buôn bán dọc biên giới, tiếp sau là số người thuộc các phái đoàn truyền giáo, tiếp đến số người lên lập nghiệp, khi miền xuôi bắt đạo gắt gao. Mãi về sau các nhà chính trị, các nhà quân sự người Pháp mới bắt đầu quan tâm tới vùng đất này, kể từ đó con số người Kinh lên lập nghiệp lại càng đông.
Những năm 1925-1930, người Pháp đã chiêu mộ tới 75,000 người Kinh lên lập các đồn điền cao su, chè. Năm 1954, sau hiệp định Genève 20-7-1954, có tới 64,000 người, đa số là đồng bào Công giáo từ miền Bắc di cư vào lập nghiệp ở tỉnh Ðăklăk và Pleiku (Gia Lai ngày nay). Tới năm 1957-1958, thêm 30,000 người thuộc 3 tỉnh miền duyên hải Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Ðịnh lên xây dựng các khu dinh điền rải rác khắp 4 tỉnh Kontum, Pleiku, Ðăklăk và Phước Long.
Sau 1975, nhiều gia đình từ miền Trung hay miền Bắc lên xây dựng các vùng kinh tế mới cũng như lập nên các nông trường và các trang trại, trong số đó có đồng bào thuộc nhiều sắc tộc thiểu số từ miền Bắc vào lập nghiệp. Nguyên tại địa bàn Thành phố Pleiku đã có tới 28 sắc tộc như Thái, Nùng, Mường...
Tây Nguyên đã thay da đổi thịt cách nhanh chóng kể từ ngày số người Kinh lên lập nghiệp. Nhiều con đường đã được hình thành nối Ðông với Tây, tức thành phố Quy Nhơn với cửa khẩu Ðức Cơ chạy qua hai đèo An Khê và Mang Yang (Cổng Trời), thành phố Pleiku, có quốc lộ 19. Chạy từ phía Bắc (Thành phố Ðà Nẵng) xuống phía Nam (quốc lộ 13, tỉnh Bình Phước) có quốc lộ 14 chạy qua Kontum - Pleiku - Buôn Ma Thuột. Quốc lộ 24 nối Kontum với Quảng Ngãi. Quốc lộ 25 nối Pleiku - Phú Bổn - Tuy Hòa (Phú Yên). Quốc lộ 26 nối Buôn Ma Thuột với Nha Trang. Quốc lộ 27 nối Buôn Ma Thuột với Ðà Lạt. Quốc lộ 28 nối Gia Nghĩa (Tỉnh Ðăklăk) với Di Linh (Tỉnh Lâm Ðồng) và Phan Thiết. Hy vọng rằng hệ thống đường ngang dọc này sẽ giúp Tây Nguyên phát triển mạnh trong những năm tháng tới, nhờ đó các thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên như rừng, mỏ quặng vẫn còn bị chôn giấu dưới lòng đất đỏ bazan cũng sẽ được khai thác nhằm nâng cao đời sống người dân.
Năm 1997, dân số trên địa bàn hai tỉnh Gia Lai và Kontum, cũng đã có tới hơn 1,181,682 người với 50.68% là dân tộc thiểu số.
3. Ðường Truyền Giáo Tây Nguyên
Ngay từ năm 1765, Ðức cha Guillaume Piguel (1704-1771) đã gửi thừa sai lên truyền giáo miền Kontum, nhưng không thành công.
Năm 1775, Ðức cha Pigneau de Béhaine (1771-1799) gửi một đoàn truyền giáo do cha Faulet hướng dẫn tiến vào vùng Tây Nguyên thuộc sắc tộc Xtiêng, người Cuy (?) sống dọc theo sông Chlong, các ngài gặp 2 gia đình Công Giáo đã tới sinh sống tại đây từ trước. Sau khi mua một mảnh đất, các ngài cho dựng một căn nhà vừa làm nơi tạm trú vừa làm nhà nguyện. Vì ngã bệnh, các ngài phải trở về Prambey-Chlom, sau bình phục mới trở lại và rồi lại ngã bệnh một lần nữa. Công việc truyền giáo đành phải bỏ ngang vào mùa xuân 1776.
Nhưng có lẽ công cuộc truyền giáo Tây Nguyên đã thật sự sôi động và đạt thành quả vững chắc lại chính là vào thời kỳ Ðức cha Etienne Théodore Cuénot Thể, giám mục đại diện tông tòa Ðông Ðàng Trong. Chính ngài đã mở đường truyền giáo vùng phía Tây, tức vùng Tây Nguyên ngày nay. Lịch sử truyền giáo vùng này có thể chia thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: khai sáng.
- Giai đoạn 2: phát triển.
- Giai đoạn 3: trưởng thành.
B. Lịch Sử Truyền Giáo vùng Tây Nguyên
1) Giai đoạn 1: Giai đoạn khai sáng miền truyền giáo Kontum (1848-1932)
Tình hình Việt Nam đã có nhiều thay đổi từ sau khi Ðức cha Pigneau de Béhaine (+ 9-10-1779) và vua Gia Long qua đời (3-2-1820). Kể từ năm 1825, nhiều sắc lệnh cấm đạo đã được ban hành. Công việc truyền giáo cho đồng bào các sắc tộc từ hướng Tây Ðàng Trong hầu như bị chậm lại, thì từ hướng Bình Ðịnh, Phú Yên lại có phần sôi động hơn. Mặc dù phải chăm sóc đoàn chiên rải rác trên một lãnh thổ rộng lớn, chạy dài từ sông Gianh phân chia hai miền Bắc Nam tới mũi Cà Mau và biên giới Thái Lan, Ðức cha Cuénot Thể vẫn không quên những anh chị em thuộc nhiều sắc tộc khác trên vùng cao. Ðây luôn là ưu tiên trong các chương trình hoạt động của ngài.
Vừa lên kế vị Ðức cha J.L. Taberd năm 1841, Ðức cha Cuénot Thể đã triệu tập Công đồng Gò Thị để ổn định đời sống giáo phận sau nhiều năm cấm cách, đặc biệt, đưa ra hướng mục vụ cảm thông tha thứ và tạo điều kiện cho những anh chị em vì yếu đuối đã sa ngã trong thời cấm đạo. Nhưng chủ yếu vẫn là đào tạo hàng ngũ linh mục bản xứ để đẩy mạnh công việc truyền giáo.
Năm 1839, ngài đã cử hai phái đoàn truyền giáo: một do ông Cả Ninh dẫn đầu khởi hành từ Cam Lộ, Quảng Trị và một do ông Cả Quới lên đường từ Phú Yên. Cả hai đoàn đều thất bại.
Qua năm 1842, phái đoàn ông Cả Quới gồm Cố Duclos và Cố Miche, 11 thầy giảng và 3 giáo dân lại lên đường. Nhưng ai ngờ chỉ mới đi sâu vào vùng dân tộc, ngày 16-2-1842 tất cả đã bị bắt giải về Huế.
Năm 1846, Ðức cha Cuénot Thể gửi 2 cha người Việt là cha Vận và cha Hòa lên mở vùng Buôn Ðôn thuộc Ðăklăk. Tiếp sau là cha Fontaine Phẩm được chuyển từ Plei Chư xuống. Năm 1856, tất cả phải rút về Kontum.
Với một ý chí sắt đá, Ðức cha Cuénot không chùn bước, ngài hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi Chúa Thánh Thần. Năm 1848, một năm có tính quyết định đã đến.
Vị mục tử này hướng tới thầy Phanxicô Xaviê Nguyễn Do, còn gọi là An, một chủng sinh vừa tốt nghiệp Ðại chủng viện Pinang về nước. Ngài thấy nơi con người thông minh, quả cảm và khiêm tốn này có khả năng mở đường tiến sâu vào thế giới các sắc dân miền núi phía Tây.
a. Thầy Sáu Do mở đường (1848-1850)
Thầy Do đã khéo léo đóng vai một ngưới đầy tớ trung thành và cần mẫn gánh hàng cho một nhà buôn người Kinh. Sáu tháng đi từ làng này tới làng khác, thầy đã tiếp cận với dân Ba Na, nói được tiếng nói của họ, biết phần nào phong tục tập quán cùng thu thập được ít điều về địa hình địa vật của vùng cao. Thầy mau mắn về Gò Thị tường thuật lại cho vị chủ chăn ngày đêm ngóng chờ tin vui.
Ðược tin vui, Ðức cha cử ngay một đoàn thừa sai lên đường và cắt cử thầy Do làm trưởng đoàn, Một đoàn buôn chính hiệu, có 4 chủng sinh cùng đi. Chính "cái chính hiệu với đồ hàng cồng kềnh của nhà buôn" này đã làm lóa mắt những kẻ tham chặn đường cướp hết. Các vị thừa sai đành phải bỏ chạy lấy người.
Qua năm 1849, lại một đoàn truyền giáo khác lên đường. Ðoàn gồm có cha J.P. Combes Bê, 4 thầy giảng và một số chủng sinh. Ði từ Gò Thị, lên Bến, tới trạm Gò, đoàn gặp phải một đàn voi rượt đuổi. Tất cả bỏ chạy tán loạn, thoát được cơn giận của voi, về tới Bình Ðịnh, phái đoàn chạm phải cơn "thánh nộ" của Ðức cha Cuénot. Ðược nghỉ 15 ngày, phái đoàn lại lên đường, lúc đó là đầu năm 1850.
Lên đường lần này có thêm cha Fontaine Hoàn (sau gọi là Bok Phẩm) với 7 thầy. Ðến Trạm Gò, tiến vào làng Baham, đi qua làng Kon Bơlu, phái đoàn tiến sâu vào làng Kon Phar. Ðức cha đã ân cần dặn dò nhiều lần "nhớ" phải tránh đường mòn của các lái buôn người Kinh, phải tránh tù trưởng Bok Kiơm kiêm chức vị "quan triều đình Huế" có nhiệm vụ chặn đường xâm nhập của các thừa sai.
Ngày núp, đêm đi, vạch rừng, lội suối, leo đèo, với đủ thứ đe dọa của rừng thiêng nước độc, của khí hậu, của thú dữ. Lệnh "không được trở lại" vẫn văng vẳng bên tai. Nhưng "Ðất động! Trời sập! Ðoàn gặp đúng Bok Kiơm! Biết làm sao bây giờ? Hồn xiêu, phách lạc, hết đường "chạy trốn", cả đoàn như chết đứng giữa trời! Chính lúc đang đứng đơ như những tượng gỗ, thì "con người hung dữ kia lại lên tiếng trước: "Sao? Quý vị là ai? Cứ nói thật đi, tôi sẽ giúp cho!"
Thế là lại thêm một bất ngờ nữa! Thay vì đi hạch họe, bắt nộp cho triều đình, Bok Kiơm lại tỏ ra thân thiện ngay. Có lẽ cũng chính cái vẻ mất hồn khiếp vía trên các khuôn mặt những con người không có một tham vọng nào khác ngoài tình thương mà liều mình đi đến với những anh chị em miền đất xa lạ, nên con người "đáng khiếp" kia bỗng trở thành "con người dễ thưong". Ông đã trở thành một Cyrus miền truyền giáo Tây Nguyên! Phái đoàn tiếp tục đi vào làng Kon Kơlang.
Ngày 11-11-1850, thầy Thám, em thầy Do, dẫn một nhóm truyền giáo khác lên Kontum. Cùng đi có cha P. Dourisboures Ân (25 tuổi), cha B. Desgouts Ðề (45 tuổi). Họ đi theo lộ trình Gò Thị - Bến - trạm Gò - Bơham - Bơlu - Kon Phar để tới Kon Kơlang. Tại đây, anh em gặp nhau mừng vui khôn xiết. Tất cả bắt tay dựng căn nhà 2 gian: một gian để ở, một gian làm nhà nguyện. Công việc truyền giáo Tây Nguyên bắt đầu một trang sử mới với nhiều hứa hẹn, nhưng cũng đầy khó khăn!
b. Phân định và thành lập các trung tâm Miền Truyền Giáo (1851)
Sau một thời gian dò dẫm, tìm hiểu với sự giúp đỡ chân tình của Bok Kiơm, các vị thừa sai đã tới được miền Ðất Hứa năm 1850, chính là cánh đồng Ðăk Bla như Ðức giám mục hằng chờ mong. Năm sau, ngài quyết định thiết lập ngay 4 trung tâm truyền giáo và đặt cha Combes Bê làm bề trên miền.
- Trung tâm Plei Rơhai: do cha Bernard Desgouts và thầy Sáu Do phụ trách lo truyền giáo cho bộ tộc Ba Na. Ðịa điểm nằm ngay địa sở Tân Hương ngày nay. Sau ít tháng, thầy Sáu Do được gọi về Gò Thị chuẩn bị lãnh tác vụ linh mục. Năm 1853, cha Do trở lại trung tâm và tiến hành xây dựng nhà thờ Plei Rơhai. Cha phát động mô hình nông trang trên miền đất này để cải thiện cuộc sống của đồng bào dân tộc và để tự túc lương thực phòng đường tiếp tế từ vùng xuôi khi bị cắt đứt! Ðức cha còn chỉ thị cho cha Desgouts mở ngay Chủng viện thừa sai Miền Kontum trong khi miền xuôi đang bị cấm cách gắt gao. Nhưng vì khí hậu khắc nghiệt, chủng viện đã không trụ lâu được.
- Trung tâm Kon Trang: Nằm phía Bắc Kontum, được trao cho cha P. Dourisboures Ân phụ trách để truyền giáo cho bộ tộc Xơ Ðăng. Cha hăng say học tiếng và La Tinh hóa chữ viết Xơ Ðăng làm phương tiện tiếp xúc và truyền giáo. Một năm sau, Ðức cha đã tăng cường cho trung tâm một vị thừa sai mới, cha Arnoux A. Ngày 1-1-1852, Cha Dourisboures Ân đã ban phép Thanh Tẩy cho một em bé sơ sinh. Ðây là hoa trái đầu mùa. Vào ngày 16-10-1853, hai thiếu niên Giuse Ngui, 12 tuổi (+ 1857) và Gioan Pat, 9 tuổi, được lãnh nhận phép Thanh Tẩy.
- Trung tâm Plei Chư: Nằm phía Tây Kontum. Cha Fontaine Hoàn (Bok Phẩm) phụ trách trung tâm lo loan báo Tin Mừng cho bộ tộc Gia Rai. Năm 1854, Ðức cha thuyên chuyển cha xuống Pơnong (M'nông) - Trung tâm Buôn Ðôn - ở Ðăklăk - làm việc với cha Hòa và cha Vận. Nhưng chẳng được bao lâu cha cũng phải rút về lại Kontum.
- Trung tâm Kon Kơxâm: được trao cho cha Bề trên đầu tiên Miền Truyền Giáo, cha J.P. Combes. Nằm về phía Ðông Kontum, trung tâm có nhiệm vụ giảng đạo cho anh chị em Ba Nơ, Jơ Lơng. Cha chọn Ðức Bà Cứu Chữa làm bổn mạng trung tâm, cha cũng bắt tay ngay vào công việc La Tinh hóa chữ viết. Năm sau, cha soạn xong cuốn Giáo Lý và Sách Kinh bằng tiếng Ba Na. Qua năm 1853, cả làng Kon Kơxâm tòng giáo và ngày 28-12-1853, cha đã ban phép Thanh Tẩy cho ông Giuse H'Mur. Ðây là người tín hữu Ba Na đầu tiên. Nhưng cha đã qua đời 5 năm sau (1857), khi mới 32 tuổi. Trách nhiệm bề trên chuyển qua vai cha P. Dourisboures.
c. Máu Ðức cha Cuénot thể đã đổ. Giáo đoàn Tây Nguyên nở rộ
Ðức cha Cuénot Thể đảm nhận giáo phận rộng lớn Ðàng Trong đúng vào thời điểm cấm đạo gắt gao nhất. Các phương thức cấm cách thật tinh vi, nhắm tiêu diệt từng đối tượng theo từng giai đoạn khác nhau. Ngài điều khiển giáo phận từ hầm trú ở Gò Thị, ngài làm việc ngày đêm để nắm vững tình hình giáo phận, nhưng không thể xuất hiện công khai hoặc đi lại tự do. Dù số nhân sự ít ỏi, ngài vẫn dành cho miền truyền giáo này nhiều vị thừa sai. Ngài cũng không ngừng cổ vũ và vun trồng ơn gọi linh mục bản xứ.
Ðể đẩy mạnh công cuộc truyền giáo, ngài đã xin Tòa Thánh chia nhỏ địa phận.
- Ðợt 1: Năm 1844, chia địa phận Ðàng Trong thành Ðông Ðàng Trong và Tây Ðàng Trong.
- Ðợt 2: Năm 1850, chia địa phận Ðông Ðàng Trong thành Bắc Ðàng Trong và Ðông Ðàng Trong; chia Tây Ðàng Trong thành Tây Ðàng Trong và Nam Vang. Kontum vẫn thuộc Ðông Ðàng Trong, tức giáo phận Quy Nhơn sau này.
Trong khi miền xuôi còn bị cấm cách, thì trên cao nguyên các làng dân tộc "đua nhau" trở lại. Khởi đầu là làng Kon Klor (1886), tới Kon Hngo Kơtu (1887). Chỉ trong 21 năm, đã có tới 94 làng trở lại. Có năm tới 12 làng (1893), 14 làng (năm 1895) hoặc như năm 1897, ngoài 14 làng Ba Na, Xơ Ðăng xin theo đạo, còn có cả một số làng bộ tộc Ê Ðê cũng xin tòng giáo. Kết quả thật tốt đẹp. Sức người theo không kịp. Trước một tình hình sôi động như thế, các vị chủ chăn đã đẩy mạnh việc đào tạo nhân sự bản xứ. Ðây là giai đoạn hình thành trường đào tạo Yao Phu và hình thức Nhà Chung sau này. Ðúng như Tòa Thánh đã tiên liệu và chỉ đạo: "phải ưu tiên làm sao cho sớm có người bản xứ truyền đạo và phục vụ người bản xứ!".
Ý thức tầm quan trọng của chỉ thị trên, cha J.L. Bonnard Hương quy tụ một số thanh niên dân tộc nhằm đào tạo họ thành các giáo lý viên cho các họ đạo. Công việc và chương trình này chỉ thật sự được tổ chức và đẩy mạnh nhờ sự được tổ chức và đầy mạnh nhờ quyết tâm cao của cha Martial Jannin Phước. Năm 1905, ngài xúc tiến xây dựng trường đào tạo các Yao Phu và khánh thành ngày 7-1-1908. Cha M. Jannin Phước là vị giám đốc đầu tiên. Chính ngài đã dám nghĩ dám thực hiện mẫu người Yao Phu. Ngài là linh hồn của công trình trọng điểm này. Năm 1911, tạp chí Hlabar Tơbang đã được phát hành để hỗ trợ cho công việc đào tạo.
Từ trường này, nhiều thanh niên dân tộc đã chọn đời sống tu trì. Cụ thể, ngày 29-6-1932, ba thanh niên Ba Na đầu tiên đã lãnh nhận tác vụ linh mục: đó là các cha Micae Hiêu (1900-1949), cha Giuse Châu (1900-1955), cha Antôn Ðen (1903-1987). Một trong 3 vị đã có một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử giáo phận Kontum: cha Antôn Ðen, một nhà trí thức, một học giả Ba Na. Ngài đã dành suốt một đời dịch Thánh Kinh, dịch sách phụng vụ, viết hạnh các thánh và phụ trách tờ Hlabar Tơbang. Ngài âm thầm, chăm chỉ làm việc cho tới giờ phút cuối đời. Một kho tàng hiếm có của giáo phận! Giáo phận biết ơn ngài, biết ơn các bậc cha anh đã đào tạo được một người làm việc trí óc không biết mệt mỏi như thế!
2) Giai đoạn 2: Giai đoạn phát triển giáo phận tông tòa Kontum (1932-1960)
a. Một chặng đường mới (1932-1945)
Sau nhiều cố gắng xây dựng, ngày 18-1-1932, Tòa Thánh đã công bố Nghị định thư thiết lập giáo phận đại diện tông tòa Kontum tách từ giáo phận Mẹ Quy Nhơn: gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Ðăklăk và Attâpư (hạ Lào). Và ngày 23-1-1932, cha bề trên Martial Jannin Phước được bổ nhiệm làm giám mục tiên khởi quản nhiệm giáo phận, hiệu tòa Gadara. Trường Cuénot tạm dùng làm tòa giám mục. Chính Ðức cha C. Dreyer, Khâm sứ Tòa Thánh tại Ðông Dương, đã từ Huế vào tấn phong cho vị giám mục mới ngay tại nhà thờ chính tòa Kontum ngày 23-6-1932.
Công việc đầu tiên và ưu tiên của vị tân giám mục là cho xây chủng viện Thừa Sai Kontum (1935-1938). Nhà hoàn toàn bằng gỗ cà chích, dài 100m, vách trần bằng rơm và bùn đất, mái lợp ngói. Là một kiệt tác! Chính Ðức giám mục thiết kế và trông coi tới hoàn thành. Ngài còn cho thực hiện nhà in, hệ thống dẫn thủy nhập điền, hệ thống thủy điện. Gặp buổi khó khăn, ngài cũng tự chế một chiếc ôtô với bánh xa bằng gỗ để di chuyển. Giáo phận có cả một xưởng lao động để giải quyết công việc trong giáo phận và đào tạo các tay nghề. Công việc truyền giáo vẫn tiến triển mạnh mẽ, các địa sở ngày càng phát triển.
Ngoài tờ Hlabar Tơbang cho Yao Phu, giáo phận còn có các tạp chí Chức Dịch Thơ Tín (1933) cho Hội Chức việc Á Thánh Năm Thuông Giáo phận Kontum, Tạp chí Les Echos (1941) - sau đổi thành Tờ báo Dư Âm, năm 1968 đổi thành tờ Tiếng Vang, một tạp chí dành riêng cho các linh mục trong giáo phận. Trước đây vị khai sáng Miền Truyền Giáo Tây Nguyên, Ðức cha Rtienne Cuénot Thể đã điều khiển giáo phận mênh mông từ hầm trú bằng thư từ suốt 26 năm trời, thì nay vị giám mục của Kontum cũng dùng hình thức tạp chí để huấn luyện và nuôi dưỡng nhân sự trong giáo phận.
Ngày 22-4-1942, Linh mục Jean Sion Khâm đã được tấn phong giám mục kế vị Ðức cha M. Jannin Phước đã qua đời năm 1940 hưởng thọ 73 tuổi (1867-1940). Ngài đã chuyển tòa giám mục từ trường Cuénot về Chủng viện Thừa Sai. Phần đất Attâpư được tách và sát nhập về Giáo Hội Lào.
Chiến tranh thế giới II (1939-1945) cũng đã cản trở công cuộc truyền giáo Tây Nguyên phần nào. Khi thế chiến chấm dứt, thì lịch sử giáo phận cũng sang trang mới.
b. Gian nan và vinh quang (1945-1960)
Ý thức rằng giáo phận đang phải trải qua một giai đoạn hết sức tế nhị và khó khăn, nên ngày 5-12-1943, Ðức giám mục giáo phận đã dâng hiến toàn thể giáo phận cho Trái Tim Vẹn Sạch Ðức Trinh Nữ Maria. Nghi thức dâng hiến diễn ra trọng thể tại nhà thờ chính tòa.
Thế chiến vừa chấm dứt, cuộc nội chiến lại xảy ra. Một giáo phận miền núi càng gặp khó khăn trăm chiều. Ðức cha Jean Sion Khâm vẫn cố chèo chống.
Quân đội Nhật đã tập trung các vị thừa sai về Nha Trang. Sau một thời gian, tất cả đã được trả tự do và trở lại địa sở (7-1946). Trước tình hình mới của xã hội. Ngài xúc tiến việc thiếp lập Trường Lý Ðoán (Ðại Chủng Viện) riêng cho giáo phận Kontum, vì tình hình lúc bấy giờ không thể gửi các chủng sinh vào Saigòn hay ra Hà Nội. Ngày 16-6-1944, ngài ban hành Facultates Majoris Seminarii Kontumensis. Năm 1946, ngài ký ban hành Statuta Ordinarii pro Anlumnis Majoris Kontum. Trường Lý Ðoán đã bắt đầu hoạt động với con số khiêm tốn khoảng 10 chủng sinh. Chính Ðức cha làm giám đốc, cha Crétin làm giáo sư, cha Thomann làm quản lý.
Song song việc đào tạo linh mục, ngài xin phép Tòa Thánh cho thiết lập hội dòng Ảnh Phép Lạ, một hội dòng nữ người dân tộc. Lúc đầu không được Tòa Thánh chấp thuận, vì trong Giáo Hội đã có nhiều hội dòng rồi. Ðức cha không bỏ cuộc, ngài tha thiết trình bày với lý lẽ vững chắc; muốn có những linh mục, tu sĩ bản địa lo cho người bản địa, thì cũng cần có những bà mẹ Công giáo bản địa được chuẩn bị đàng hoàng như vậy, vì thế việc thiết lập một hội dòng đào tạo các thiếu nữ dân tộc thật là chính đáng và thiết thực. Sau đó Thánh Bộ đã chấp thuận. Hội dòng đã được chính thức thành lập ngày 6-4-1947. Qua dòng lịch sử, cũng như hội Yao Phu, hội dòng Ảnh Phép Lạ đã giữ một vai trò độc đáo và quan trọng trong giáo phận.
Ngày 19-8-1951, Ðức cha Jean Sion Khâm qua đời tại Montbeton (Pháp), cha Paul Seitz Kim lúc bấy giờ đang coi Cô Nhi Viện Kitô Vua ở Thái Hà Ấp, Hà Nội, được bổ nhiệm kế vị. Lễ tấn phong đã diễn ra tại nhà thờ lớn Hà Nội ngày 3-10-1952. Dưới sự dìu dắt của vị tân giám mục, giáo phận Kontum đã có những bước tiến vượt bậc. Là con người đầy nhiệt huyết, với tuổi đời 46, ngài đã hăng say bắt tay củng cố giáo phận sau nhiều năm chiến tranh.
Nhờ số giáo dân Kinh tăng vọt qua các đợt di cư từ miền Bắc hoặc lên Dinh Ðiền từ miền Trung, nhiều xứ họ sầm uất đã mọc lên khắp miền Cao Nguyên. Sinh hoạt của giáo phận sống động hơn nhiều. Nhiều xứ họ mới đã hình thành dọc theo các tuyến quốc lộ 19, 14 cũng như các tỉnh lộ mới mở. Số linh mục cũng đông đảo hơn, có lúc đã lên tới cả 100. Nhiều anh chị em tại các dinh điền đã hăng say gia nhập Giáo Hội. Ơn gọi chủng sinh và tu sĩ cũng dồi dào, đặc biệt từ các xứ đạo di cư miền Buôn Ma Thuột. Công cuộc truyền giáo mang một sức sống mới.
Ðây cũng là giai đoạn truyền giáo cho người Gia Rai được tiếp nối với sự xuất hiện của cha Jacques Dournes, một nhà nhân chủng học, một vị thừa sai lỗi lạc. Ngài đã từ phía dân tộc Cơ Ho, Lâm Ðồng, đi xuyên qua lãnh thổ bộ tộc Ê Ðê vào vương quốc bộ tộc Gia Rai. Ngài dừng chân ở Cheo Reo, Phú Bổn ngày 1-8-1955.
Ngay từ năm 1850, Ðức cha Cuénot Thể và các vị thừa sai đã nghĩ tới việc truyền giáo cho bộ tộc Gia Rai. Cha Fontaine Khâm đã được phân nhiệm lo công tác này. Trung tâm Plei Chư đã được thiết lập riêng cho công việc này. Nhưng kết quả không được dồi dào như nơi các bộ tộc Xơ Ðăng hay Ba Na. Các địa sở Gia Rai Hạ Bầu (huyện ÐăkÐoă), Plei Ngol Khop (huyện Ðức Cơ) hoặc Plei Kơbey (huyện Sa Thầy) là những thành quả khiêm tốn của thuở ban đầu.
3) Giai đoạn 3: Giai đoạn trưởng thành giáo phận chínht òa Kontum (1960 -)
a. Tiến bước dưới ánh sáng Công đồng Chung Vatican II (1960-1975)
Ngày 24-11-1960, Tòa Thánh đã ban hành Tông hiến Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Giáo phận đại diện tông tòa Kontum trở thành giáo phận Chính tòa. Giáo phận vào thời điểm này có 73,966 giáo dân, 271 họ đạo và 66 linh mục.
Ngày 10-11-1962, Ðức Thánh Cha Gioan XXIII long trọng khai mạc Công đồng Vatican II. Làn gió Chúa Thánh Thần đã thổi tung mọi cánh cửa tâm hồn và ban sức mạnh cho các người thợ trong cánh đồng truyền giáo Tây Nguyên. Nhiều hội dòng đã tình nguyện lên truyền giáo miền Tây Nguyên. Tiên phong là dòng Thánh Phaolô thành Chartres thuộc tỉnh dòng Saigòn, dòng Mến Thánh Giá Kontum, sau đổi thành Dòng Nữ Vương Hòa Bình và chuyển xuống Buôn Ma Thuột chuẩn bị thiết lập giáo phận mới.
Việc cử hành phụng vụ bằng tiếng bản xứ đã có một tác động mạnh mẽ. Sinh hoạt trong các xứ họ đã sôi nổi hẳn: ngày càng có nhiều người tin theo đạo. Bộ mặt Tây Nguyên cũng đổi mới. Các thị tứ đã mọc lên nhanh chóng. Ðời sống kinh tế phát triển mạnh, mặc dù chiến tranh vẫn đang tiếp diễn. Từ năm 1965, nhiều đồng bào từ các dinh điền ở xa đã chạy về thành thị, đặc biệt là thị xã Pleiku. Số đồng bào này quy tụ lại thành những họ đạo mới như Hoa Lư, Hiếu Nghĩa, Hiếu Ðức, Hiếu Lễ, Phaolô, Trà Bá II.
Năm 1969, các linh mục và các tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, do cha Antôn Vương Ðình Tài dẫn đầu, đã lên tiếp nối công trình của cha J. Dournes. Chiều ngày 10-10-1969, Ðức cha P. Léo Seitz Kim đích thân lái xe Land Rover đưa cha Antôn Tài, thầy Giuse Tín, thầy Phêrô Mầu và tu sĩ Lêônarđô xuống Pleikly. Ðứng ngay bên đường nhìn về phía làng, ngài đọc một đoạn Thánh Kinh, giơ tay cầu nguyện và chúc lành cho công việc truyền giáo của 4 vị thừa sai Việt Nam rồi trở về. Các thừa sai mới nhận được bài học hoàn toàn phó thác để cho Thần Khí Chúa hướng dẫn. Bắt đầu trọ trẹ vài tiếng Gia Rai vào làng xin trú đêm! Bị từ chối, vì gặp ngày kiêng kỵ của làng, các vị gặp cảnh bơ vơ. Sau đó, các vị mượn được một "gian nhà bỏ hoang" làm nơi tạm trú. Công việc bắt đầu như thế trong khi chiến tranh mỗi ngày mỗi thêm ác liệt! Bao khó khăn thử thách dồn tới! Cơ sở mới gầy dựng bước đầu bị đốt cháy, các ngài phải "rời" khỏi Pleikly, rút về thị xã Pleiku lập trung tâm Maranatha gần Pleiku Roh, sau chuyển xuống Pleichuet. Nhưng hạt giống đã gieo cứ âm thầm phát triển và nở rộ đúng vào dịp Ðức Thánh Cha tôn phong 117 vị Thánh Tử Ðạo tại Việt Nam ngày 19-6-1988! Tới nay con số tân tòng Gia Rai đã lên tới 15,000 trong khi số dự tòng cũng trên 8,000. Mỗi dịp lễ Phục Sinh, tổng cộng số lãnh nhận phép Thanh Tẩy thuộc 3 Trung Tâm truyền giáo Gia Rai - Pleichuet, Pleikly và Cheoreo-Tơlui - cũng lên tới trên 1,500 người.
Với sức sống phát triển mạnh mẽ như thế, năm 1967 Tòa Thánh chấp thuận cắt tỉnh Ðăklăk khỏi giáo phận Kontum và tỉnh Phước Long của Giáo Phận Ðà Lạt để thiết lập giáo phận mới Ban Mê Thuột. Giáo Phận Kontum còn 3 tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn và từ 1975, giáo phận Kontum lại sang một trang sử mới.
b. Tiếp bước theo quyền năng Thần Khí Chúa (1975-)
Nếu 3 lần dọn nhà bằng một lần cháy nhà, thì một lần di tản còn tệ hơn cả cháy nhà. Thế mà dân miền Kontum-Pleiku đã phải di tản tới 3 lần: 1968, 1972 và 1975. Mỗi lần di tản có khi 2, 3 tháng sau mới trở về. Họ bỏ nhà cửa chạy xuống Nha Trang, có người xuống tận Saigòn. Một số lớn giáo dân đi mà không về lại. Số trở về phần đông lại quá muộn! Gần 100 linh mục nay còn lại 45 vị. Chỉ sau 13 năm, đã có tới 15 linh mục qua đời trong khi chỉ thêm có 4 linh mục mới. Tuổi trung bình là 61. Tiểu chủng viện ngưng hoạt động từ cuối năm 1975. Ðại chủng viện giải tán năm 1976. Ðặc biệt gần 30,000 giáo dân Xơ Ðăng và nhiều cộng đoàn giáo dân Ba Na miền Bắc Kontum sống cảnh "côi cút" nhiều năm. Không linh mục, không tu sĩ, không nơi thờ phượng, tất cả đều phó thác cho các Yao Phu bám trụ coi sóc! Các dịp lễ Giáng Sinh, Phục Sinh phố xá Kontum tràn ngập giáo dân Xơ Ðăng, Ba Na về dự lễ. Cơm gói cơm ống nằm la liệt sân cỏ nhà thờ chính tòa, sân tòa giám mục... để chờ dự lễ.
Sau lại có thêm nhiều giáo dân từ các vùng khác lên lập nghiệp, tại vùng sâu vùng xa, tại các nông trường, các điểm kinh tế mới. Số giáo dân tăng lên tới 156,770 năm 1998. Ðó là chưa tính số giáo dân tại các vùng sâu, vùng xa, những vùng nông trường, kinh tế mới chưa có điều kiện lui tới để làm thống kê! Con số giáo dân hiện nay khoảng trên 180,000.
Miền Truyền Giáo Tây Nguyên đã bước đầu thành công nhờ sáng kiến và quyết tâm của Thánh Giám Mục tử đạo E.T. Cuénot Thể, có cha Do tiên phong cùng với hàng hàng lớp lới các vị thừa sai giáo dân, giáo sĩ hăng say dấn thân lên đường. Ðể hỗ trợ cho công việc truyền giáo, các vị chủ chăn đã tận dụng phương thức báo chí để nuôi dưỡng đoàn chiên.
Năm 1998, được phép Tòa Thánh, giáo phận Kontum mở Năm Thánh mừng 150 năm, kể từ ngày thầy Sáu P.X. Nguyễn Do đã thành công mở đường cho các vị thừa sai lên truyền giáo vùng Kontum, rồi sau được mở rộng khắp vùng Tây Nguyên. Miền rừng thiêng, nước độc của ngày nào nay đã trở thành miền đất hiền lành và hiếu khách. Trong ngày cao điểm, ngày 12-11-1998, giáo phận đã được hân hạnh đón tiếp 17 giám mục, gần 300 linh mục, đông đảo các tu sĩ nam nữ cũng như anh chị em tín hữu xa gần về dự lễ tại nhà thờ Chính Tòa Kontum, gặp nhau để cùng nhau cảm tạ tôn vinh Thiên Chúa vì bao kỳ công Chúa đã thực hiện qua các vị sứ giả Tin Mừng.
Sau những ngày mừng lễ sốt sắng, giáo phận Kontum trở lại với thực tế đầy cam go thử thách, nhưng cũng nhiều hy vọng chứa chan. Số linh mục, tu sĩ không nhiều, nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao. Số anh chị em tìm về với Giáo Hội càng nhiều, không chỉ anh chị em dân tộc, nhưng còn có cả anh chị em người Kinh, nhiều vấn đề đặt ra cho giáo phận.
Vấn đề nhân sự để phục vụ Lời Chúa, phục vụ Giáo Hội. Ðây là vấn đề hàng đầu: đào tạo người tông đồ giáo dân và đào tạo các linh mục, tu sĩ. Giáo Phận Kontum đã có một truyền thống đào tạo người giáo dân ngay từ những ngày đầu của miền truyền giáo Tây Nguyên. Chính các câu, biện đã đi hàng đầu và dẫn các phái đoàn đi tìm đường lên miền cao. Cùng đi còn có các chị nữ tu Mến Thánh Giá. Giáo phận đã được thừa hưởng 2 tổ chức đào tạo người tông đồ giáo dân: hội Yao Phu và hội dòng Ảnh Phép Lạ! Chương trình "người người hầu việc Chúa, nhà nhà hầu việc Chúa, xứ xứ hầu việc Chúa, và cả giáo phận hầu việc Chúa" vẫn là ước nguyện khôn nguôi của giáo phận. Nhiều nơi trong giáo phận hiện không linh mục, không nhà thờ, không phụng vụ thánh lễ nhưng luôn có những tông đồ giáo dân hiện diện.
Không thể có ơn gọi linh mục tu sĩ, không thể có những linh mục, tu sĩ thánh thiện cũng như những tông đồ giáo dân đích thật, nếu gia đình không được quan tâm chăm sóc cách đặc biệt. Gia đình là nền tảng! Gia đình đã và đang giữ vai trò vô cùng to lớn trong việc duy trì và phát triển đời sống lòng tin của đoàn Dân Chúa!
Phục vụ người nghèo cũng là một vấn đề lớn! Nhiều anh chị em xung quanh vẫn còn nghèo! Phải làm gì để anh chị em hằng ngày "được dùng đủ" được có cuộc sống xứng với phẩm giá con người. Ðó là điều giáo phận luôn trăn trở.
Nhưng vấn đề giáo dục con tim, giáo dục lương tâm đạo đức của con người trong một thế giới tục hóa và hưởng thụ hôm nay lại càng cấp thiết hơn: lo sao giúp cho con người, cách riêng lớp trẻ được phát triển hài hòa giữa khối óc và con tim để có khả năng biết yêu thươgn và dấn thân phục vụ hết tình, để cùng nhau xây dựng môi trường sống trên nền tảng sự thật, công bình và thương yêu.
Và phải chăng vấn đề truyền giáo cho người dân tộc đã đến lúc trở thành vấn đề lớn không chỉ của riêng giáo phận Kontum! Ðâu đâu trên đất Việt đều có anh chị em dân tộc khao khát đi tìm Lời Chúa! Vấn đề hội nhập văn hóa, đưa tinh thần Tin Mừng vào chính nền văn hóa của một thách đố lớn cho tất cả những ai đang phục vụ trên cánh đồng truyền giáo.
Và miền đất Truyền Giáo Kontum vẫn vẫy gọi tất cả những con người thiện chí dấn thân phục vụ để các anh chị em dân tộc ngày càng được phát triển xứng với phẩ giá con người, những người con của Chúa và được sống hài hòa với tất cả các thành viên của một cộng đồng đang có diễm phúc sống trên miền đất đỏ hiền lành hôm nay.
(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)