Mạc Khải Kitô Giáo

và Các Tôn Giáo Khác

Theo Ánh Sáng Công Ðồng Vaticanô II

Linh Mục A. H. Kishi Hidesshi

Hiệu trưởng Ðại Học Công Giáo Eishi tại Osaka, Nhật Bản

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

(Cha A. H. Kishi Hidesshi là Hiệu trưởng Ðại Học Công Giáo Eishi tại Osaka, Nhật Bản. Ngài đã theo học tại Montréal, Canada, và đậu tiến sĩ với luận đề "Spiritual consciousness in zen from Thomistic Theological Point of view").

Mạc Khải Kitô Giáo và Các Tôn Giáo Khác Theo Ánh Sáng Công Ðồng Vaticanô II.

Công Ðồng Vaticanô II, khi cứu xét (một cách tỉ mỉ hơn) thái độ của Giáo Hội đối với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, đã đưa ra bản Tuyên Ngôn "Nostra Actate". Nguyên tắc căn bản thể hiện qua bản Tuyên Ngôn này là: đối với nhân loại, Thiên Chúa là nguồn gốc độc nhất và đồng thời cũng là cứu cánh sau cùng. Bởi đó, tất cả mọi người, Kitô hữu cũng như không Kitô hữu, đều lệ thuộc vào Thiên Chúa Quan Phòng. Trong bài trình bày ngắn ngủi này, chúng tôi không có ý định giải thích bản Tuyên Ngôn, mà chỉ muốn dựa vào bản Tuyên Ngôn đó và một số tài liệu khác của Công Ðồng để nhận định về những mối tương quan giữa Mạc Khải Kitô giáo và tất cả các tôn giáo khác.

I. Chân Lý của các Tôn Giáo

Trong những tôn giáo đươc chọn làm tiêu biểu trong bản Tuyên ngôn, thì Ấn độ giáo, Phật giáo, rồi đến Hồi giáo và Do thái giáo được đặc biệt quan tâm hơn cả. Ðối với Ấn độ giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác, bản Tuyên ngôn viết: "Giáo hội Công giáo không hề bác bỏ những gì là chân thật và thánh thiện trong các tôn giáo đó. Với một niềm kính trọng thành thật. Giáo hội xem xét những cách thức hành động và những lối sống; những luật lệ và những giáo lý đó, mặc dầu về nhiều điểm có khác với những điều chính Giáo hội tuân giữ và đề nghị, nhưng thường mang lại tia sáng của Chân lý (radium illius Veritatis) chiếu soi hết mọi người" (N.A. số 2).

Thật sự, những lời nói đó của bản Tuyên ngôn có nghĩa gì? Người ta có thể nghĩ rằng Công Ðồng, khi dùng những lời lẽ đó, đã nhìn nhận các tôn giáo khác cũng mang lại một ánh sáng, mặc dầu đó không phải là ánh sáng toàn vẹn của Chân lý, và tuy vậy, đó cũng là một ánh sáng phát xuất từ Ðấng chính là Chân lý.

Trong Hiến chế Mục vụ (Gaudium et Spes), chúng ta thấy có những đoạn văn quan trọng liên hệ với điều vừa được trình bày. Thật vậy, Hiến chế quả quyết: "Bởi vì có nội giới mà con người hơn tất cả mọi vật. Con người trở về với nội giới sâu xa đó là khi con người trở về với chính mình, nơi mà Thiên Chúa Ðấng thấy tận tâm can, đang chờ đợi, con người, và nơi mà con người tự quyết định lấy vận mạng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa" (G.S. số 14).

Như thế, Công Ðồng chứng tỏ rằng Thiên Chúa thấu suốt lòng con người và Người đang ở đó chờ đợi.

Theo truyền thống lâu đời của Kitô giáo, sự kiện này minh chứng rõ ràng thật sự có một "ánh sáng bên trong", có "Thiên Chúa" ở giữa loài người. Giáo huấn này rất giống với ý niệm Nội tại tuyệt đối là một ý niệm căn bản nơi các người Ðông phương. Thiên Chúa ở tận đáy lòng con người, theo kiểu nói của Hiến chế, có nghĩa là Thiên Chúa chính là "chân lý sâu xa của sự vật" (ipsa produndarei veritas). Như thế, việc Thiên Chúa ở trong lòng mọi người tự nhiên có nghĩa là Người biểu lộ chân lý trong tất cả các tôn giáo. Trong bài tựa, Hiến chế nói: "Vậy, khi Công Ðồng tuyên bố sứ mạng của con người là rất cao cả và quả quyết rằng con người mang trong mình mầm mống Thiên Chúa..." (G.S. số 3).

Chỉ căn cứ vào sự kiện có mầm mống Thiên Chúa trong lòng mọi người, cũng có thể quả quyết rằng mọi người có thể đạt tới chân lý. Nếu mọi người không nương dựa vào Thiên Chúa ở trong lòng mình thì họ không thể tìm thấy Thiên Chúa. Con đường đưa người ta đến Thiên Chúa luôn luôn là con đường nội tâm đó. Các tôn giáo khác giảng dạy con đường đó. Chúng ta phải xác định rằng Thiên Chúa chiếu giải chân lý trong các tôn giáo khác bởi vì các tôn giáo đó chỉ dạy con đường ấy.

Nếu chúng ta nghiên cứu, dầu chỉ là những yếu tố của Giáo lý Phật giáo và Ấn độ giáo mà thôi, chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng các giáo lý đó chứa đựng nhiều chân lý khiến chúng ta phải ngạc nhiên và không khỏi thán phục. Chắc chắn, trong các giáo huấn đó, người ta sẽ tìm thấy những ý niệm: "Hữu thể" - "Thiên Chúa" - "Ðấng tuyệt đối" và sẽ có kinh nghiệm về Thiên Chúa.

Trong Ấn độ giáo, "Ðấng Tuyệt Ðối" chính là Ðấng người ta không thể biết được, là Ðấng người ta không thể đặt tên được, và theo kểu nói của Yâjnavalkya, là Ðấng mà người ta chỉ có thể gọi được là "Netti, Netti" (không phải như thế, không phải như thế).

Trong Phật giáo Ðại thừa, thực thể cuối cùng chính là cái không thể tả được, - "là cái hư vô", "cái rỗng không" và ngoài những từ ngữ đó ra, không có một từ ngữ nào khác để diễn tả thực thể đó. Hơn nữa, chính tất cả những từ ngữ đó cũng chỉ là những kiểu diễn tả bất toàn. Ðó là tất cả những gì để chỉ thực thể độc nhất và tối hậu.

Trong Kitô giáo cũng vậy: vì Thiên Chúa là Ðấng không thể biết được, Ðấng không thể gọi tên được, nên chính kiểu nói "Thiên Chúa" cũng chỉ là một danh từ tạm thời mà thôi.

Hiến chế Gaudium et Spes còn lưu ý: ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là được Thiên Chúa mời gọi thông phần với Người (G.S. số 19).

Chắc chắn trong các tôn giáo khác, người ta cũng có thể thông phần với Thiên Chúa. Theo phương diện thần học mà nói, người ta không thể quả quyết rằng những kinh nghiệm đó về Thiên Chúa chỉ hoàn toàn có tính cách tự nhiên; trái lại, những kinh nghiệm đó có thể là siêu nhiên nhờ ân sủng của Thiên Chúa.

Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa (imago Dei) (Cf Gn 1,27), nếu trong con người có mầm mống Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa ở tận đáy lòng con người và nếu Thiên Chúa có thể ban ân sủng, con người, dầu thuộc về các tôn giáo khác ngoài Kitô giáo, cũng có thể đạt tới chân lý. Một bằng chứng đầy đủ chứng minh cho lời quả quyết trên là, trong lịch sử các tôn giáo tây phương cũng như đông phương, có những người đã sống qua con đường huyền bí "Via Negativa" đó.

Chính Hữu Thể tuyệt đối, siêu việt đã mạc khải mầu nhiệm đó trong đáy lòng con người.ngày nay, chúng ta phải mở mắt nhìn nhận rằng tính chất chân lý thực sự thể hiện một phần trong tất cả các tôn giáo, tính chất đó có thể nói được là tính chất Kitô giáo của Chân lý.

II. Sự tuyệt hảo của Mạc Khải Kitô Giáo

Quả quyết có Chân lý trong các tôn giáo khác như vừa nói, có trái với sự tuyệt hảo của mạc khải Kitô giáo hay không? Về điểm này, trước tiên chúng ta cần lưu ý tới giáo huấn của Công Ðồng.

Bản Tuyên ngôn (Nostra Aetate), sau khi đã nhìn nhận trong các tôn giáo khác có tia sáng của Chân lý chiếu soi mọi người (Cf N.A. số 2), liền thêm: "Tuy nhiên Giáo hội rao giảng và còn phải mãi mãi kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Ðấng là "Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Jn 14,6) trong Người mọi người gặp thấy đời sống tôn giáo trọn hảo (plenitudo vitae religiosae), trong Người Thiên Chúa đã giao hòa với vạn vật" (N.A. số 2).

Theo Công Ðồng, nhìn nhận tính chất Chân lý hàm chứa trong các tôn giáo khác không đi ngược lại với sứ mệnh đặc biệt của Giáo hội là "rao giảng Chúa Kitô mãi mãi". Hơn nữa, Công Ðồng đã nói trong Chúa Kitô có đời sống tôn giáo trọn hảo. Hiến chế Gaudium et Spes mạnh mẽ tuyên xưng với thánh Tông đồ (cf. Act 4,12) rằng ngoài danh Chúa Kitô, không một danh hiệu nào khác có thể đem lại ơn cứu rỗi cho con người: "Giáo hội tin tưởng rằng dưới bầu trời, không còn một danh hiệu nào khác có thể cứu thoát con người. Giáo hội cũng tin rằng Chúa Kitô vừa là khởi đầu, là trung tâm và là cứu cánh của toàn thể lịch sử nhân loại: Người là Chúa và Thầy của mình" (G.S. số 10). Chắc chắn, Chúa Kitô là trung tâm của Vũ trụ, là khởi đầu và là cùng đích. Ngoài Chúa Kitô, không có ơn cứu rỗi. Phải tuyên xưng điều dó ngay cả trong thời buổi tân tiến này.

Hiến chế Tín lý Thiên Chúa Mạc khải (Dei Verbum) dạy bảo chúng ta rằng Chúa Kitô là "sụ sung mãn của toàn thể mạc khải" (D.V. s61 2) và thêm "ta không còn phải đợi chờ một mạc khải công khai nào khác nữa cho đến khi Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện trong vinh quang" (D.V. số 4).

Bởi đó, tính chất tuyệt hảo và sung mãn của Mạc khải Kitô giáo là một Chân lý được Công Ðồng dạy bảo một cách rõ ràng. Nói tóm lại, Công Ðồng đã nêu ra tính chất Chân lý của Kitô giáo.

III. Các tương quan giữa Mạc khải Kitô giáo và mạc khải của các tôn giáo khác

Phán Ðoán Thần Học

Như đã nói, Công Ðồng nhìn nhận trong các tôn giáo khác có một phần Chân lý và đồng thời cũng tuyên xưng chỉ trong Kitô giáo mới có Mạc khải tuyệt hảo. Làm thế nào giải thích những mối tương quan giữa hai điều quả quyết đó? Chắc chắn không phải là chuyện dễ. Tuy nhiên, vấn đề lại thật quan trọng đối với chúng ta là những người đang sống trong thời buổi tân tiến này. Bởi vì, hiện thời, chúng ta thuộc "số ít" so với đám đông các tín đồ ngoài Kitô giáo và tất cả những người vô tín ngưỡng, kể cả những người lãnh đạm.

Vấn đề có thể rất đơn giản, nếu người ta coi Chân lý hàm chứa trong các tôn giáo khác như là Chân lý thuộc trật tự tự nhiên, và, có thể nói, như là một sự kiện không vượt khỏi Chân lý triết học, hay hơn nữa, như là một kinh nghiệm thần bí về Thiên Chúa không xa mấy chủ nghĩa thần bí triết học thuộc trật tự tự nhiên. Nói cách khác, bởi vì Mạc khải Kitô giáo là một thực tế thuộc trật tự siêu nhiên, cho nên Chân lý trong các tôn giáo khác là một thực tế thuộc trật tự tự nhiên. Vì Mạc khải và Chân lý trong các tôn giáo, khác nhau về chiều hướng, nên, nếu người ta phân biệt rõ ràng hai thực tế như thế, liệu trong thế giới này, người ta có thể nhận biết thực tế tôn giáo sâu xa nhất không?

Tôi xin trả lời là không. Người ta không thể chối cải rằng, cho đến bây giờ, lối tư tưởng như thế đã được phổ biến và đặc biệt, đó lại là thái độ căn bản của việc truyền giáo ở Ðông phương. Ðó là một sự kiện mà người ta không có thể nhắm mắt làm ngơ. Về điểm này, đây là một suy tư cần được lưu ý. Theo bài báo Moines chrétiens en Inde do André Monestier viết trong một tạp chí công giáo (Cf. Ecclesia, Paris, mai 1967, 83-92), Cha Monchanin, khi đề cập về việc truyền bá Tin Mừng cho những xứ Á châu, có đưa ra những nhận xét cột trụ sau đây: trước hết, phải nhìn nhận rằng trước đây người ta đã luôn luôn rao giảng Phúc âm cho Á châu một cách đối nghịch với tôn giáo của các dân tộc Á châu; trái lại chúng ta phải nhìn nhận rằng, trong khi chấp nhận truyền thống văn hóa ở Ðông phương, đặc biệt là ở Ấn độ, có một giá trị rất lớn, chúng ta có thể một phần nào đó diễn tả thần học công giáo bằng những từ ngữ của Vedan ta; sau hết, chúng ta phải nhìn nhận rằng việc hiểu biết chính Thiên Chúa mới thật là quan trọng, chứ không phải việc hiểu biết một cái gì về Người, và chúng ta phải chấp nhận rằng cần phải khám phá ra, nhờ Chúa Thánh Thần, sự hiện diện tàng ẩn của Chúa Kitô trong tất cả các tôn giáo khác, ngay từ lúc mới khai sinh thế giới.

Chúng ta không thể phân chia một Thiên Chúa duy nhất thành hai được: Thiên Chúa trong các tôn giáo khác đồng thời cũng là Thiên Chúa của Mạc khải; thiên Chúa của Mạc khải đồng thời cũng là Thiên Chúa trong các tôn giáo khác. Tuy nhiên, đó không phải là một sự trộn lẫn hai trật tự tự nhiên và siêu nhiên. Không, chúng ta vẫn phân biệt rõ ràng hai trật tự đó. Giữa chúng có một sự phân cách, một vực thẳm, một sự phân biệt rõ ràng. Và dầu vậy, tôi không nghĩ rằng trật tự siêu nhiên tách lìa khỏi trật tự tự nhiên.

Có lẽ người ta có thể minh chứng điều đó bằng phép ẩn dụ, nhờ hai vòng đồng tâm hay hai hình cầu đồng tâm. Trật tự siêu nhiên bao gồm trật tự tự nhiên. Trung tâm của hai trật tự đó là Thiên Chúa. Thiên Chúa trong trật tự siêu nhiên đồng thời cũng là Thiên Chúa trong trật tự tự nhiên. Có đường từ trật tự siêu nhiên dẫn đến trật tự tự nhiên, nhưng không có đường từ trật tự tự nhiên đưa tới trật tự siêu nhiên. Chỉ có "ân sủng" là nguyên lý siêu nhiên tiên khởi của Thiên Chúa mới có thể làm được việc đó. Nói tóm lại, thế giới hiện hữu này vừa là thế giới tự nhiên vừa là thế giới siêu nhiên. Cả hai thế giới này cũng có chung một tiêu điểm.

Việc không thể diễn tả được Ðấng Tuyệt đối trong các tôn giáo khác rõ ràng minh chứng rằng không có đường từ trật tự tự nhiên đưa đến trật tự siêu nhiên. Sự hiểu biết Ðấng Tuyệt đối vượt khỏi giới hạn của trí tuệ tự nhiên. Bởi đó, trực giác là kinh nghiệm siêu trí thức trở nên cần thiết. Trí tuệ tự nhiên không thể hiểu biết Ðấng Tuyệt đối là chính Thiên Chúa. Sự không thể hiểu biết đó chính là trực giác rằng Thiên Chúa thuộc về trật tự siêu nhiên.

Thật sự, nếu Ðấng Tuyệt Ðối thuộc trật tự tự nhiên, thì chắc chắn trí tuệ tự nhiên phải hiểu biết Người. Khi đó trực giác siêu trí thức thiêng liêng sẽ không còn cần thiết nữa.

Phù hợp với nhận xét đó, lược đồ của Cha Garrigou Lagrange chứng minh có Chân lý siêu nhiên, thật rất có ý nghĩa.

Chân lý siêu nhiên được minh chứng ngay cả ngoài phạm vi Mạc khải theo phương diện chất thể và trong một trật tự thấp kém hơn:

Về phương diện tiêu cực, nghĩa là, theo phương diện tự nhiên, người ta không thể hiểu được trật tự Chân lý trong Thiên Chúa,

Về phương diện tích cực, nghĩa là con người tự nhiên muốn được hạnh phúc hoàn toàn và xác tín rằng mình đạt được hạnh phúc đó nhờ trực giác bản tính Thiên Chúa (Cf. Garrigou Lagrange OP. De Deo Uno, Marietti, Roma, 1950, t. 269).

Nếu như thế, người ta có thể vấn nạn: có phải tất cả các tôn giáo khác đều đưoơc coi là siêu nhiên hết không? Xin thưa là không. Chúng tôi không quả quyết rằng tất cả các tôn giáo đều trực tiếp là những tôn giáo siêu nhiên hết thảy.

Thật ra, chúng tôi muốn nói là; Thiên Chúa siêu nhiên đã mạc khải nhiều Chân lý siêu nhiên ngay trong các tôn giáo khác; còn con người, ngay trong các tôn giáo khác, cũng có thể có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa siêu nhiên. Ðiều đó có nghĩa là những Chân lý hàm chứa trong các tôn giáo khác, theo bản chất của nó, cũng là những Chân lý Kitô giáo.

IV. Kết Luận

Trong các tôn giáo khác, Thiên Chúa đã tự mạc khải một phần và bằng nhiều cách khác nhau, nhưng, trong Mạc khải Kitô giáo, Người đã chỉ nói một lần và một cách đầy đủ, chung quyết. mạc khải trong Chúa Kitô là Mạc khải toàn hảo.

Như Hiến Chế "Thiên Chúa mạc khải" (Dei Verbum) đã nói, cho đến ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang, người ta không nên chờ đợi một Mạc khải công khai, mới lạ nào khác nữa. Trong Mạc khải, con người tìm thấy hình ảnh nguyên vẹn Chân lý được tìm kiếm trong các tôn giáo khác. Ðó là một sự kiện toàn Chân lý hàm chứa trong các tôn giáo khác.

Trong Mạc khải Kitô giáo, con người không tìm thấy những gì trái ngược với các Chân lý trong các tôn giáo. Chân lý trong các tôn giáo khác không đối nghịch với Mạc khải Kitô giáo. (Nói tóm lại, đó chỉ là một). Nội dung của chúng, với tính cách là Chân lý, đều bắt nguồn từ chính Thiên Chúa.

Chúa Kitô đã trở nên mọi sự cho mọi người. Người là khởi đầu và là chung cánh. Người là Cùng đích và là Nguyên thủy. Chúa Kitô là Ðấng Cứu Thế của mọi người. Ngoài Chúa Kitô ra, ở dưới thế này, không còn một danh hiệu nào khác có thể đem lại ơn cứu rỗi. Các tôn giáo khác chỉ có thể phát triển toàn vẹn trong Mạc khải mà thôi.

 

(Giuse Nguyễn Chính

chuyển dịch Việt ngữ từ Tuyển Tập BS non Chn số 10 tháng 3 năm 1969)

 

(Trích dẫn từ Tuyển Tập Thần Học số 7 tháng 1 năm 1971)

 


Back to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page