Ta là Chúa,
Thiên Chúa ngươi

Theo Bản dịch của Gs. Nguyễn Ðăng Trúc - Lm. Vũ Thành

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan

"Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi"

Lạy Chúa, khi Ngài từ Xêia đi ra,
khi từ các cánh đồng Edom Ngài đến và xuất hiện,
trái đất rung chuyển, trời ào ạt mưa tuôn
và mây tan thành nước.
Các ngọn núi rung chuyển trước Thiên Chúa
ngay cả núi Sinai cũng ngã nghiêng trước nhan Chúa,
Thiên Chúa của Israel.

(Thp 5,4-5)

Lạy Chúa, khi Ngài hiện hình đi trước dẫn đường dân Ngài,
khi Ngài dẫn đưa họ đi trong sa mạc, trái đất rung chuyển,
chính trời cao cũng mưa tuôn trước nhan Ngài,
ngọn núi Sinai ngã nghiêng trước Thiên Chúa Israel.
Lạy Chúa, Chúa đã đổ mưa móc hồng ân Chúa,
Chúa đã phục sức cho dân Chúa đang tiều tụy mõi mòn.
Chúa đã đến từ núi Sinai.
Từ Xêia Ngài đã xuất hiện nơi chân trời vì dân Ngài.
Ánh sáng của Ngài tỏa lan từ ngọn núi Paran.

(TL 33,2)

Sau khi ra khỏi Ai Cập, dân Israel đến Sinai. Họ cắm lều đối diện với ngọn núi. Sáng ngày thứ ba, có một tiếng sấm động lớn và sét lóe sáng và một lớp khói dày phủ khắp ngọn núi. Cả đoàn người trong các lều run lên. Môisen cho dân ra khỏi lều để đến gặp Thiên Chúa, họ dừng lại ở chân núi. Toàn ngọn núi Sinai bấy giờ là khối khói vì Chúa đã ngự đến giữa các ngọn lửa cháy. Lửa khói hừng hực bốc lên như hỏa lò, toàn ngọn núi rung chuyển mạnh. Môisen lên tiếng và Chúa trả lời ông bằng những tiếng sấm động. Chúa ngự xuống trên chóp núi Sinai. Chúa gọi Môisen lên đó. Và Môisen đi lên. Chúa phán với ông:

"Hãy xuống núi và ra lệnh cho dân chúng đừng vuợt hàng rào ngăn để tìm đến chiêm ngắm Chúa là Thiên Chúa, vì nếu không nhiều kẻ phải bỏ mạng. Ngay các thầy cả, nếu muốn đến gần Chúa, cũng phải thanh tẩy, bằng không thì Chúa sẽ nổi giận với họ".

Môisen thưa cùng Chúa:

"Dân không thể leo lên núi Sinai, vì chính Chúa đã ra lệnh cho chúng như thế; xin Ngài làm đường ranh chung quanh núi và tuyên bố núi này là thánh".

Môisen xuống núi và truyền lại lệnh của Chúa.

Trước cơn sấm động, sét lóe sáng và ngọn núi bốc khói, toàn dân run sợ và đứng xa xa. Họ nói với Môisen:

"Có gì ông nói với chúng tôi, chúng tôi sẽ nghe ông. Nhưng xin Chúa đừng trực tiếp nói, vì chúng tôi sợ mà chết". Môisen trả lời với dân chúng:

"Các ngươi chớ sợ! Chính Chúa muốn thử thách các ngươi nên Ngài đã đến, và sự sợ hãi các ngươi cảm thấy đó giúp các ngươi tránh tội lỗi".

Vì thế, dân chúng đứng đàng xa còn Môisen tiến lại gần cột khói nơi Chúa hiện ra.

(XH 19,1-2.16-25;20.18-21)

Môisen tập trung toàn dân lại và nói:

"Vừa nghe tiếng vọng ra từ bóng tối khi núi còn phủ khói lửa, các ngươi đã đến gần ta với các trưởng tộc và kỳ lão của các ngươi để nói với ta rằng: "Này đây Thiên Chúa Chúa chúng ta đã tỏ bày vinh quang và cao cả của Ngài, và chúng tôi được nghe tiếng Chúa từ trong cột lửa. Hôm nay, chúng tôi đã thấy Thiên Chúa có thể nói chuyện với một người mà người đó không mất mạng. Tuy nhiên, tại sao lại phải liều mạng dám đụng đến lửa sấm sét. Nếu cứ mãi muốn tận tai nghe lời Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phải chết. Ai là người đã nghe lời Chúa, Thiên Chúa sống động xuất hiện từ cột lửa cháy, như chúng tôi đã từng được nghe mà còn được sống toàn mạng?"

(TL 5,1.23-26)

Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi Ðấng đã làm cho ngươi thoát khỏi chốn nô lệ, ngươi không còn thần nào khác ngoài Ta. Người không khắc một tượng hình nào phỏng lại bất cứ cái gì ở trên trời, dưới đất hay dưới nước. Ngươi không thờ lạy các hình tượng, phụng sự chúng vì Ta là Chúa Thiên Chúa ngươi, Ta là Chúa hay ghen tương sẽ phạt những kẻ ghét Ta, kể cả con cháu nó liên tiếp ba bốn đời vì tội cha nó, nhưng Ta sẽ đối xử tốt lành đến ngàn đời, với những ai thương mến Ta và tuân phục giới răn Ta.

Ngươi không được vô cớ kêu danh Ta, vì Ta là Thiên Chúa sẽ không quên phạt kẻ nào lạm dụng danh của Ta.

Ngươi phải giữ ngày nghỉ Sabát; hãy giữ ngày đó như là ngày thánh, như Chúa Thiên Chúa ngươi đã răn dạy ngươi. Ngươi có sáu ngày để làm việc của ngươi, nhưng ngày thứ bảy dành cho Chúa Thiên Chúa ngươi, ngươi không được làm một việc gì cả, kể cả con trai, con gái, tôi tớ trai gái, bò lừa, loài vật của ngươi, kể cả người ngoại quốc cư trú tại nhà ngươi, để cho tôi tớ trai gái cũng được nghỉ ngơi như ngươi. Hãy nhớ rằng ngươi từng làm nô lệ tại Ai Cập, Chúa là Thiên Chúa với bàn tay thần lực, cánh tay uy dũng đã làm cho ngươi thoát khỏi nơi ấy. Chính việc đó, Chúa là Thiên Chúa đã răn dạy ngươi phải giữ ngày nghỉ Sabát.

Ngươi hãy kính trọng cha mẹ ngươi, như Chúa là Thiên Chúa đã ra lệnh cho ngươi, để ngươi có được tuổi thọ và hạnh phúc ở đời mà Chúa ban cho ngươi.

Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng gian chống lại ngươi bên cạnh.

Ngươi không được thèm muốn vợ người bên cạnh, ngươi không được chiếm nhà, ruộng vườn, tôi tớ nam nữ, bò, lừa người bên cạnh: bất cứ cái gì thuộc về kẻ khác.

(TL 5,6-21)

Phúc thay cho kẻ có đời sống ngay lành,
và sống đời mình theo luật Chúa.
Phúc thay cho kẻ ân cần tuân giữ lệnh Chúa
và tận tâm muốn sống như thế,
không làm điều ác,
bước đi trên con đường Chúa chỉ.
Chúa đã ban cho giới răn của Chúa
để mọi người trung thành tuân giữ.
Con muốn sống đời con
theo ý Chúa hoàn toàn.
Và con sẽ không xấu hỗ
nếu con biết hướng mắt con nhìn theo giới răn của Chúa.
Con sẽ thành tâm ca tụng Chúa;
vừa học biết các luật lệ ngay chính của Ngài.
Con muốn làm theo ý Chúa;
nhưng xin Chúa đừng bao giờ bỏ con.

(TV 119,1-8)

Các giới răn của Chúa mang đến cho con bao niềm hân hoan,
và con yêu mến chúng hết lòng.
Con giang tay đón nhận các giới răn con yêu thích,
con suy nghĩ xem Chúa muốn gì cho đời chúng con.
Xin Chúa nhớ lại lời Chúa đã nói với tôi tớ Chúa
lời đó đã thúc dục tâm hồn con hy vọng.
Nó an ủi con trong cơn khốn khổ;
lời hứa của Chúa ban cho con sự sống.
Những kẻ kiêu căng dèm pha con,
nhưng con không xa rời Chúa.
Lạy Chúa, con nhớ lại những phán đoán ngày xưa của Chúa,
và con được ủi an.
Những chỉ dẫn của Chúa là bài ca của con,
con chỉ là kẻ ngoại kiều trên trần thế này.
Ðêm đêm, con nhớ đến Chúa, lạy Chúa,
để tuân giữ luật Ngài.
Gia phần con, chính là tuân giữ lời dạy của Chúa.
Ai yêu mến luật Chúa thì có được an bình toàn vẹn
và không gì làm họ phải ngã nghiêng.

(TV 119,47-56.165)


Back to Vietnamese Missionaries in Taiwan Home Page