Ngài quyết định lên đường
tiến về Giêrusalem

Theo Bản dịch của Gs. Nguyễn Ðăng Trúc - Lm. Vũ Thành

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan

"Ngài quyết định lên đường tiến về Giêrusalem"

Khi thời gian Ngài phải rời bỏ thế giới này đã gần đến, Chúa Giêsu cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Ngài sai các sứ giả đi trước vào trong một làng của người Samaritanô để tìm nơi trọ qua đêm. Nhưng các người Samaritanô không muốn đón tiếp Ngài, vì Ngài trên đường đi về Giêrusalem. Lúc đó các môn đệ Ngài, ông Gioan và Giacôbê, nói:

"Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng tôi xin lửa từ trời xuống thiêu đốt họ không?"

Nhưng Chúa Giêsu quay lại nhìn họ và quở trách họ. Họ lại đi sang một làng khác.

(Lc 9,51-56)

Chúa Giêsu dùng bữa tại nhà của một người Pharisêu nhằm đúng ngày Sabat. Người có mặt để ý theo dõi Ngài. Có một người bị bệnh phù thũng đến trước mặt Ngài. Chúa Giêsu hỏi các người Pharisêu và các nhà thông luật:

"Luật có cho phép chữa bệnh trong ngày Sabat không?"

Họ giũ im lặng. Lúc đó Chúa Giêsu cầm tay người đó, chữa ông lành và bảo ông về nhà. Ngài liền nói với họ rằng:

"Nếu ai trong các ông có con trai mình hoặc con bà rơi xuống hố, các ông có đi ngay tới kéo nó lên dù đúng vào ngày Sabat không?"

Và họ đã không biết phải trả lời thế nào cả.

(Lc 14,1-6)

Khi Chúa Giêsu đến gần Giêricô, có một người mù ngồi bên vệ đường ăn xin. Khi ông Ta nghe đám đông đi qua, ông ta hỏi xem có cái gì xảy ra. Họ nói cho ông biết là Chúa Giêsu người Nazarét đang đi qua. Lúc ấy, ông gọi to lên:

"Hỡi ông Giêsu, Con vua Ðavid, xin thương đến tôi!"

Dân chúng đứng trước mặt ông mắng ông và bảo ông giữ im lặng. Nhưng ông càng gào to hơn:

"Xin con vua Ðavid hãy thương đến tôi!"

Chúa Giêsu dừng lại và truyền lệnh mang ông đến. Khi ông tới gần, Chúa Giêsu hỏi:

"Ông muốn Ta làm gì cho ông?"

Ông trả lời:

"Thưa Ngài, xin cho tôi được thấy lại"

Chúa nói với ông:

"Ngươi hãy thấy, đức tin của ông đã cứu chữa ông".

Ngay lúc đó ông hồi phục được thị giác và theo Chúa Giêsu, ngợi khen vinh quang Thiên Chúa. Và tất cả dân chúng khi nhìn thấy phép lạ cũng ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.

(Lc 18,35-43)

Sau khi vào trong thành Giêricô, Chúa Giêsu đi rảo phố. Có một người tên là Giakêu, là giám đốc phòng thu thuế và rất giầu có. Ông muốn nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng đám đông chắn lối không cho ông nhìn thấy Ngài vì vóc dáng ông tương đối thấp. Ông liền chạy đi trước và leo lên cây sung để nhìn thấy Ngài vì Ngài sắp đi qua chỗ ấy. Khi Chúa Giêsu tới nơi, Ngài ngước mắt nhìn lên và gọi ông:

"Giakêu, hãy xuống ngay vì hôm nay tôi sẽ ở nhà ông".

Ông hối hả xuống và vui mừng đón tiếp Ngài.

Người ta phàn nàn khi thấy sự việc xảy ra và nói:

"Ngài là khách của người tội lỗi!"

Bấy giờ Giakêu thưa cùng Chúa Giêsu:

"Thưa Thầy, nay tôi cho phân nửa tài sản tôi có cho người nghèo, và nếu tôi đã lấy của ai cái gì thuộc về họ, tôi sẵn sàng trả lại gấp bốn lần".

Chúa Giêsu nói với ông:

"Ngày hôm nay sự cứu rỗi đã đến với nhà này, bởi vì ông cũng là con cái Abraham. Con Người đến để tìm kiếm và cứu thoát cái đã mất".

(Lc 19,1-10)

Các nhà thông luật và người Pharisêu mang đến cho Ngài một người đàn bà phạm tội ngoại tình. Họ dẫn người đàn bà đến trước mặt Ngài và nói:

"Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang lúc đang phạm tội ngoại tình. Môisen truyền lệnh cho chúng tôi trong lề luật phải ném đá bà. Nhưng Ngài nói thế nào về việc này".

Họ gài bẫy Ngài với mục đích tìm ra được sơ hở nào để tố cáo Ngài.

Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, dùng ngón tay và viết xuống đất. Khi họ lập lại câu hỏi, Chúa Giêsu đứng lên và nói:

"Nếu ai trong các ông không có phạm tội gì thì người đó ném đá bà trước tiên".

Rồi Ngài lại cúi xuống viết dưới đất.

Khi họ nghe điều ấy, từng người một rút lui, bắt đầu từ người lớn tuổi cho đến người cuối cùng. Chúa Giêsu còn lại một mình với người đàn bà đứng đó. Lúc ấy Ngài nhìn và hỏi bà:

"Thiếu phụ, họ đâu cả rồi? Không ai kết tội bà sao?"

Bà trả lời:

"Thưa Thầy, không có ai".

Chúa Giêsu nói:

"Ta chẳng kết án bà. Hãy về, và đừng phạm tội nữa".

(Gioan 8,3-11)

"Ta là người chăn chiên tốt. Người chăn chiên tốt hiến mạng sống mình vì con chiên của mình. Người làm thuê, vì không phải là người chăn chiên và không làm chủ con chiên, họ bỏ mặc con chiên khi họ nhìn thấy chó sói đến và họ chạy trốn. Và chó sói bắt chúng, làm chúng tán loạn. Bởi vì họ chỉ là người làm công nên họ không chăm sóc đàn chiên. Ta là người chăn chiên tốt. Ta biết các chiên của Ta và chiên của Ta biết Ta cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha. Ta hy sinh mạng sống Ta vì các con chiên. Ta còn nhiều con chiên khác chưa thuộc về đoàn này. Ta cũng phải đi tìm; chúng sẽ nghe tiếng Ta và chỉ có một đoàn chiên, một người chăn chiên. Cha Ta yêu mến Ta bởi vì Ta hy sinh mạng sống để mang lại sự sống cho đàn chiên. Không ai lấy được mạng sống Ta, nhưng chính Ta tự hiến mạng sống Ta. Ta hoàn toàn tự do để trao ban sự sống của Ta và Ta sẽ thu hồi lại".

(Gioan 10,11-18)


Back to Vietnamese Missionaries in Taiwan Home Page